Chủ nghĩa trọng thương hình thành và phát triển từ Anh và Pháp, chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế ở các nước Châu Âu thế kỉ XV, XVI, XVII, sự xuất hiện của Chủ nghĩa trọng thương gắn liền với những chuyển biến lịch sử to lớn xảy ra trong thời kì này. Trong thời gian đó chính trị xã hội có sự thay đổi rất lớn. Chế độ quân chủ được củng cố vững chắc, mọi quyền hành tập trung vào trung ương. Guồng máy cai trị được tăng cường, triều đình phong kiến phải dựa vào sự giúp đỡ về tài chính của tầng lớp tư bản thương nhân trong xã hội.
Biểu hiện: Chủ trương phải có sự can thiệp Nhà nước đối với các họat động kinh tế. Sáng kiến cá nhân là cần thiết và quan trọng, nhưng các họat động kinh tế phải có sự hướng dẫn, điều tiết của Nhà nước.
Trong các thời kì phát triển:
Thời kì đầu(thế kỉ XV-XVI):
Các chính sách được Nhà nước thực hiện :
i) Cấm xuất khẩu tiền,
ii) Hạn chế tối đa việc nhập hàng từ nước ngoài,
iii) Khuyến khích xuất khẩu hàng ra nước ngoài và đem tiền về,
iv) Phá giá đồng tiền để giảm giá hàng và thu hút tiền từ nước ngoài
Đây là thời kì tích lũy tiền tệ của CNTB với khuynh hướng chung là dùng các biện pháp hành chính, tức sự can thiệp của Nhà nước để giải quyết các vấn đề kinh tế.
Thời kì sau (thế kỉ XVI-XVII):
Các chính sách được áp dụng là:
i) Hỗ trợ tối đa cho xuất khẩu hàng hóa.
ii) Lập hàng rào thuế quan, đánh thuế cao vào các mặt hàng nhập khẩu dể bảo vệ hàng hóa trong nước.
iii) Phát triển thương mại bằng mọi cách
Ở một số nước tiêu biểu:
- Tây Ban Nha: thương gia, nhà tư sản kêu gọi Nhà nước nên cấm mang ra khỏi đất nước các loại quí kim dưới bất cứ h́nh thức nào, đồng thời hạn chế nhập khẩu hàng hóa, tăng giá các loại tiển của nước ngoài
- Pháp: thương gia, nhà tư sản đưa ra các biện pháp nhằm thúc đẩy Công nghiệp phát triển và hỗ trợ cho việc xuất khẩu chế phẩm: Nhà nước đứng ra thành lập các hiệp hội, công xưởng; Tổ chức các truường dạy nghề; thuê thợ giỏi từ nước ngoài về làm việc; cho vay vốn phát triển các làng nghề công nghiệp; lập hàng rào thuế quan bảo hộ
- Anh: Nhà nước ban hành một chế độ quan thuế tối ưu đánh nặng vào hàng tiêu dùng nhập khẩu, ưu đăi đối với hàng tái xuất, ban hành các qui chế buộc các nước thuộc địa phải bán nguyên liệu cho chính quốc và mua các chế phẩm từ chính quốc
27 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 5136 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I-Vai trò của Nhà nước trong học thuyết kinh tế cổ điển.
1.Chủ nghĩa trọng thương:
Chủ nghĩa trọng thương hình thành và phát triển từ Anh và Pháp, chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế ở các nước Châu Âu thế kỉ XV, XVI, XVII, sự xuất hiện của Chủ nghĩa trọng thương gắn liền với những chuyển biến lịch sử to lớn xảy ra trong thời kì này. Trong thời gian đó chính trị xã hội có sự thay đổi rất lớn. Chế độ quân chủ được củng cố vững chắc, mọi quyền hành tập trung vào trung ương. Guồng máy cai trị được tăng cường, triều đình phong kiến phải dựa vào sự giúp đỡ về tài chính của tầng lớp tư bản thương nhân trong xã hội.
Biểu hiện: Chủ trương phải có sự can thiệp Nhà nước đối với các họat động kinh tế. Sáng kiến cá nhân là cần thiết và quan trọng, nhưng các họat động kinh tế phải có sự hướng dẫn, điều tiết của Nhà nước.
Trong các thời kì phát triển:
Thời kì đầu(thế kỉ XV-XVI):
Các chính sách được Nhà nước thực hiện :
i) Cấm xuất khẩu tiền,
ii) Hạn chế tối đa việc nhập hàng từ nước ngoài,
iii) Khuyến khích xuất khẩu hàng ra nước ngoài và đem tiền về,
iv) Phá giá đồng tiền để giảm giá hàng và thu hút tiền từ nước ngoài…
Đây là thời kì tích lũy tiền tệ của CNTB với khuynh hướng chung là dùng các biện pháp hành chính, tức sự can thiệp của Nhà nước để giải quyết các vấn đề kinh tế.
Thời kì sau (thế kỉ XVI-XVII):
Các chính sách được áp dụng là:
i) Hỗ trợ tối đa cho xuất khẩu hàng hóa.
ii) Lập hàng rào thuế quan, đánh thuế cao vào các mặt hàng nhập khẩu dể bảo vệ hàng hóa trong nước.
iii) Phát triển thương mại bằng mọi cách…
Ở một số nước tiêu biểu:
- Tây Ban Nha: thương gia, nhà tư sản kêu gọi Nhà nước nên cấm mang ra khỏi đất nước các loại quí kim dưới bất cứ h́nh thức nào, đồng thời hạn chế nhập khẩu hàng hóa, tăng giá các loại tiển của nước ngoài…
- Pháp: thương gia, nhà tư sản đưa ra các biện pháp nhằm thúc đẩy Công nghiệp phát triển và hỗ trợ cho việc xuất khẩu chế phẩm: Nhà nước đứng ra thành lập các hiệp hội, công xưởng; Tổ chức các truường dạy nghề; thuê thợ giỏi từ nước ngoài về làm việc; cho vay vốn phát triển các làng nghề công nghiệp; lập hàng rào thuế quan bảo hộ…
- Anh: Nhà nước ban hành một chế độ quan thuế tối ưu đánh nặng vào hàng tiêu dùng nhập khẩu, ưu đăi đối với hàng tái xuất, ban hành các qui chế buộc các nước thuộc địa phải bán nguyên liệu cho chính quốc và mua các chế phẩm từ chính quốc…
2. Chủ nghĩa trọng nông:
Chủ nghĩa trọng nông ra đời vào giữa thế kỉ XVIII trong bối cảnh đặc thù của nước Pháp, khủng hỏang kinh tế, xã hội. Nguyên nhân là do chế độ phong kiến chuyên chế và chính sách trọng nông gây nên. Chế độ phong kiến đă kìm hãm sự phát triển nền sản xuất. Tầng lớp quí tộc và tăng lữ ăn bám lại nắm quyền chiếm hữu ruộng đất. Tình trạng của người nông dân vô cùng khốn đốn.
Lập trường cơ bản: Các nhà trọng nông cho rằng sự tự do chính là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển. Nhà nước phải cho người nông dân tự do chọn lựa đất đai, cây trồng và phương pháp canh tác, tự do cạnh tranh tự do trao đổi của cải sản xuất được… Nhà nước nên tránh can thiệp vào các họat động kinh tế, vì các can thiệp này có thể làm sai lệch trật tự tự nhiên.
Biểu hiện qua thuyết “trật tự thiên định”:
Quesnay cho rằng: phải phá bỏ tất cả những gì gây trở ngại cho việc sản xuất lưu thông của cải. Phải có sự tự do thì trật tự tự nhiên mới thực hiện được và thực hiện một cách ḥoàn hảo. Con người phải lệ thuộc vào những định luật tối cao do Thượng đế đặt ra. Đó là những định luật bất di bất dịch.
3. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh
Hoàn cảnh xuất hiện kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh:
Tiền đề :
+ Sự tan rã của tư tưởng kinh tế của Chủ nghĩa trọng thương.
+Sự phát triển nhanh của công trường thủ công (trong ngành dệt và ngành khai thác) nước Anh .
+Cuộc cách mạng tư sản Anh và theo đó là các phát minh khoa học( triết, toán học ,…)
Sự xuất hiện nhận thức: Muốn làm giàu phải bóc lột công nhân làm thuê, người nghèo là nguồn gốc làm giàu vô tận cho người giàu.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh xuất hiện ở Anh vào những năm 70 của thế kỉ XVIII. Họat động thương mại bành trướng mạnh đă thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp, và nước Anh trở thành công xưởng của thế giới.
Quan điểm: Nhà nước không nên can thiệp vào các hoạt động kinh tế. Tự do kinh tế là điều kiện tiên quyết cho một nền kinh tế ổn định lành mạnh và sung túc. Nếu guồng máy kinh tế đang ở thế cân bằng mà Nhà nước can thiệp vào thì trạng thái cân bằng đó bị phá vỡ. Nếu guồng máy kinh tế đang ở trạng thái không cân bằng mà Nhà nước can thiệp bằng cách này hay cách khác thì sự cân bằng càng không thể tái lập.
Quan điểm AD.Smith trong thuyết “bàn tay vô hình”: ủng hộ mạnh mẽ tự do kinh tế, đề cao vai trò tự điều tiết của thị trường và chống lại sự can thiệp của chính phủ. Với tư tưởng đó ông cho rằng Nhà nước cần thực hiện một chính sách hoàn toàn tự do. Trong xã hội Nhà nước chỉ nên đóng vai tṛò thu hẹp như bảo đảm an ninh, công bằng, kiến tạo, duy trì một số công trình công cộng mà tư nhân không đảm đương được vì lợi nhuận không đủ bồi hoàn chi phí …
Quan điểm DV Ricardo: ông xem quá trình phát triển kinh tế như qúa trình tuân thủ các qui luật tự nhiên, đề cao lợi ích cá nhân, coi đó là tiêu chuẩn của sự tiến bộ xã hội và chủ trương bãi bỏ mọi hình thức chuyên chế cả về chính trị lẫn xã hội.
II-Vai trò của Nhà nước trong học thuyết kinh tế tân cổ điển
1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của trường phái biên tế:
a. Hoàn cảnh ra đời:
-Cuối TK XIX đầu TK XX, nền kinh tế của các nước TBCN gặp nhiều khó khăn, nạn thất nghiệp gia tăng làm cho mâu thuẫn xã hội gia tăng.
- Nhịp độ chuyển mạnh từ CNTB cạnh tranh tự do sang CNTB độc quyền, do đó cần có sự phân tích mới.
- Sự xuất hiện chủ nghĩa Marx chỉ ra xu hướng vận động tất yếu của xã hội loài người.
b. Đặc điểm :
- Dựa vào tâm lý chủ quan để giải thích các hiện tượng kinh tế - xã hội.
- Chuyển sự chú ý phân tích kinh tế sang lĩnh vực lưu thông, trao đổi, và nhu cầu.
- Đối tượng nghiên cứu là các đơn vị kinh tế cá biệt, tức phương pháp phân tích vi mô.
- Muốn tách rời kinh tế khỏi chính trị, tức xây dựng lý luận kinh tế thuần túy.
- Tích cực áp dụng các phương pháp tự nhiên trong nghiên cứu kinh tế như: công thức , đồ thị, mô hình toán học vào phân tích kinh tế.
2. Một số lý thuyết chủ yếu của trường phái “cổ điển mới”:
-Lý thuyết kinh tế chủ yếu của trường phái “biên tế” thành Viene (Áo). Trường phái này có các lý thuyết nổi tiếng : +Lý thuyết lợi ích biên tế.
+Lý thuyết giá trị biên tế.
-Lý thuyết biên tế ở Mỹ của John Bates Clark (1847 – 1938), giáo sư đại học tổng hợp Colombia. Trường phái này có các lý thuyết nổi tiếng:
+Lý thuyết năng suất biên tế.
+Lý thuyết phân phối.
-Trường phái thành Lausanne (Thụy Sĩ), đại biểu xuất sắc là Leon Walras (1834 – 1910). Trường phái này có các lý thuyết nổi tiếng :
+Lý thuyết cân bằng tổng quát: Theo ông, điều kiện tất yếu để có cân bằng tổng quát là sự cân bằng giữa giá cả hàng hóa và chi phí sản xuất.
+Sự cân bằng của nền kinh tế được thực hiện qua sự dao động của cung cầu.
-Trường phái Cambridge (Anh). Người đứng đầu trường phái này là Alfred Marshall (1842-1924). Ông là giáo sư trường đại học Tổng hợp Cambridge. Lý thuyết chủ yếu của ông là lý thuyết giá cả; ông đã đưa ra khái niệm về “sự co dãn của cầu phụ thuộc vào giá cả”; lý thuyết này là sự tổng hợp các lý thuyết chi phí sản xuất, cung cầu và ích lợi biên tế.
3. Vai trò của Nhà nước trong học thuyết kinh tế tân cổ điển
Do học thuỵết tư sản kinh tế đã bộc lộ ra những khuyết điểm, không thể lý giải được những vấn đề mới phát sinh, không bảo vệ lợi ích của chủ nghĩa tư bản, và sự can thiệp sâu của Nhà nước vào nền kinh tế đã gây nhiều vấn đề phức tạp.
Từ đó đòi hỏi phải có những lý thuyết kinh tế mới -học thuyết kinh tế của trường phái tân cổ điển ra đời.
Lúc đầu do đối tượng nghiên cứu của các đơn vị kinh tế, trường phái tân cổ điển nghiên cứư kinh tế hoc thuần tuý không có quan hệ với các điều kiện kinh tế chính trị-xã hội, ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế và chống lại sự can thiệp của Nhà nước. Họ tin tưỏng rằng kinh tế thị trường tự do sẽ xác lập sự cân bằng cung-cầu và đảm bảo cho nền kinh tế phát triển một cách bình thường, tránh được khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, về sau khi đối tượng nghiên cứu được mở rộng họ đã chú ý phân tích kinh tế vĩ mô và đề cập Nhà nước cần phải can thiệp vào việc điều tiết các hoạt động kinh tế ở mức độ nhất định.
Một số trường phái tiêu biểu thời kì này:
i. Trường phái thành Vienna (Áo)
- Đề cao yếu tố con người cho rằng mọi sự kiện kinh tế đều phải được xem là những sự kiện thuộc về con người, do con người đóng vai trò chủ động. Nghĩa là yếu tố tâm lý chủ quan của con người đóng vai trò quyết định giá trị trao đổi.
- Cho rằng sự phân phối lợi tức thu nhập không lệ thuộc vào một thể chế xã hội nào hết mà là kết quả của những định luật tự nhiên.
à Đề cao tự do kinh tế, Nhà nước can thiệp không sâu.
ii. Trường phái Colombia(Mỹ)
- Đưa ra học thuyết phân phối tiền lương, lợi nhuận địa tô à trong xã hội tư bản không hề có bóc lột vì các nhân tố tham gia sản xuất đã nhận được phần thu nhập tương ứng.
à Cuộc đấu tranh chống thất nghiệp của công nhân đối với nhà tư bản là không có căn cứ kinh tế.
iii. Trường phái Lausane(Thuỵ Sĩ)
- Trong nền kinh tế tự do cạnh tranh, trạng thái cân bằng giữa giá cả hàng hoá và chi phí sản xuất sẽ được thực hiện thông qua sự giao động giữa cung và cầu.
IV-Học thuyết Keynes
Keynes(1884-1946) là một nhà kinh tế học người Anh. Tác phẩm nổi tiếng là "lí thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ" (1936)
Đặc điểm chủ yếu của học thuyết Keynes.
- Kịch liệt phê phán chính sách kinh tế của chủ nghĩa bảo thủ. Ông không đồng ý với quan điểm của trường phái "cổ điển và tân cổ điển" về sự cân bằng kinh tế dựa trên cơ sở tự điều tiết của thị trường. Theo ông, muốn có cân bằng Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế.
- Vấn đề quan trọng nhất, nguy hiểm nhất là khối lượng thất nghiệp và việc làm. Vị trí trung tâm trong học thuyết của ông là lí thuyết "việc làm". Trong đó kể đến lí thuyết kinh tế vĩ mô, về hệ thống điều tiết của đường Nhà nước, ông biểu hiện lợi ích và là công trình sư của chủ nghĩa tư bản đường Nhà nước.
- Theo ông, việc phân tích phải bắt nguồn từ những tổng lượng lớn để nghiên cứu mối liên hệ giữa các tổng lượng và khuyênh hướng chuyển biến của chúng để tìm ra khuynh hướng, công cụ tác động vào những khuynh hướng làm luôn thay đổi tổng lượng.
1.Hoàn cảnh ra đời của học thuyết Keynes
Vào những năm 30 của thế kỉ XX, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp và suy thoái diễn ra một cách phổ biến và ngày càng nghiêm trọng ở các nước tư bản. Hơn ai hết người Anh phải gánh chịu một đợt đại suy thoái với tỷ lệ thất nghiệp 2 con số trong suốt thập niên 1920 (trừ năm 1924 là 9,4%).
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ và tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất TBCN đã đòi hỏi phải có sự điều tiết của Nhà nước vào quá trình phát triển kinh tế.
Trước đó, các nhà kinh tế cho rằng, mỗi khi có khủng hoảng kinh tế, giá cả và tiền công sẽ giảm đi; các nhà sản xuất sẽ có động lực đẩy mạnh thuê mướn lao động và mở rộng sản xuất, nhờ đó nền kinh tế sẽ phục hồi. Nhưng John Maynard Keynes – một nhà kinh tế học người Anh- lại quan sát cuộc Đại khủng hoảng và thấy: tiền công không hề giảm, việc làm cũng không tăng, và sản xuất mãi không hồi phục nổi. Keynes cho rằng, con người thích giữ tiền hơn là đầu tư vì lo ngại rủi ro, đầu tư giảm thì thất nghiệp sẽ tăng, thị trường tự nó không giải quyết được vấn đề này. Từ đó, Keynes kết luận: khủng hoảng, thất nghiệp không phải là nội sinh của chủ nghĩa tư bản mà do cơ chế kinh tế lỗi thời, bảo thủ, thiếu sự can thiệp của Nhà nước sinh ra. Do đó, để khắc phục tình trạng này, Nhà nước phải có chương trình đầu tư quy mô lớn để huy động số tư bản nhàn rỗi và lao động dư thừa nhằm giải quyết việc làm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trên vì thế phải cần đến vai trò của Nhà nước. Nhà nước phải kích cầu, chấp nhận vay nợ và thâm hụt ngân sách để kích cầu.
2.Vai trò của Nhà nước trong học thuyết Keynes:
Theo Keynes cùng với sự tăng lên của thu nhập thì tiêu dùng cũng tăng lên. Điều đó có nghĩa là tiêu dùng sẽ không tăng kịp với mức tăng của sản xuất tạo ra sự thiếu hụt cầu tiêu dùng và đó là nguyên nhân gây ra tình trạng suy thoái thất nghiệp. Từ đó ông đưa ra chính sách điều tiết kinh tế của Nhà nước.
a. Tăng đầu tư của Nhà nước:
Ông đề nghị Nhà nước phải duy trì cầu đầu tư bằng cách sử dụng ngân sách của Nhà nước để kích thích đầu tư của tư nhân và Nhà nước thông qua các biện pháp cụ thể như: đơn đặt hàng, hệ thống mua “tiếp sức”, trợ cấp về tài chính, tín dụng… để đảm bảo lợi nhuận và khuyến khích đầu tư cho tư bản. Theo Keynes, Nhà nước cần chủ động tung tiền vào các hoạt động đầu tư công cộng, bất kể tính chất của các khoản chi đó như thế nào, ngay cả khi đẻ ra “thiếu hụt ngân sách”. Bởi vì khi “cầu có hiệu quả” (bao gồm cầu đầu tư và cầu tiêu dùng) bị sút kém, sẽ không có lý do đặc biệt nào để thúc đẩy các nhà kinh doanh mạo hiểm tăng đầu tư của họ. Mặt khác “hệ số việc làm đầy đủ” chỉ có thể được tạo ra bằng cách Nhà nước giành những số tiền lớn đầu tư vào các công trình công cộng thuộc lĩnh vực hạ tầng cơ sở như: đường xá, hầm mỏ, hải cảng... nghĩa là, Nhà nước phải chủ động đầu tư vào những lĩnh vực ít sinh lợi nhất (thường không hấp dẫn tư bản tư nhân) nhưng lại là các điều kiện cần thiết cho toàn bộ quá trình tái sản xuất của tư bản xã hội. Và đây là điều kiện thuận lợi cho tư bản tư nhân đầu tư vào những ngành khác có lợi hơn làm cho tình hình đầu tư được cải thiện.
Trong đợt khủng hoảng suy thoái hiện nay, tổng thống của Mỹ, Barack Obama dùng 787 tỉ đô la để thực hiện kích cầu, khoản kích cầu lớn nhất kể từ sau những năm 1950, vào việc xây dựng và phát triển hạ tầng như hệ thống đường cao tốc liên bang, trường học, Internet, công nghệ trong lĩnh vực năng lượng... Cụ thể ngày 30.09, tổng thống Mỹ Barack Obama đã công bố kế hoạch sử dụng 5 tỷ đôla Mỹ trong gói kích thích kinh tế trị giá 787 tỷ đôla nhằm tạo mới nhiều việc làm trong lĩnh vực nghiên cứu y tế và khoa học, cung cấp thiết bị và dịch vụ y tế, cũng như nâng cấp các phòng thí nghiệm… Trung Quốc dự tính chi 586 tỉ đôla để cải thiện cơ sở hạ tầng như đường sắt, sân bay.
b. Sử dụng hệ thống tài chính tín dụng và lưu thông tiền tệ:
- Nhà nước kết hợp chính sách tài chính và chính sách tiền tệ để điều chỉnh kinh tế, ngăn chặn và giải quyết được các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhịp nhàng ổn định.
Nhìn lại các gói kích cầu lên tới cả ngàn tỉ USD của Mỹ, gần 600 tỉ USD của Trung Quốc, hàng trăm tỉ USD của Nhật Bản và Châu Âu, người ta thấy các biện pháp để xử lý tình huống chặn đà suy giảm tăng trưởng của chính phủ các nước này, về cơ bản, vẫn là chính sách tài khóa và chính sách tín dụng theo các nguyên tắc của Keynes. Về chính sách tài khóa, các chính phủ chủ trương giảm thuế để hỗ trợ tái đầu tư cho các nhà sản xuất, thực hành tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, mở rộng các dịch vụ công và trợ cấp cho các khu vực thu nhập thấp, dễ tổn thương nhằm tạo cầu nội địa, đảm bảo an sinh xã hội và giảm thiểu các xung đột xã hội, thậm chí có thể chấp nhận cả thâm hụt ngân sách để mở rộng thị trường nội địa - một sự bù đắp khoảng sụt giảm đột ngột của thị trường xuất khẩu. Do đó, sau các gói giải cứu mang tính chất tình thế, các chính phủ tiếp tục gia tăng các gói kích cầu nhằm tạo đà cho tăng trưởng khi đã chạm tới điểm uốn tại đáy của cuộc khủng hoảng. Cũng tương tự như vậy, chính sách tín dụng rẻ với mức lãi suất thấp nhất so với nhiều chục năm qua, hiện đã trở thành đặc trưng phổ biến trong chính sách tiền tệ của các quốc gia. Chính phủ các nước tạo mọi điều kiện để mọi chủ thể tiếp cận dễ dàng các nguồn tín dụng, chủ trương hỗ trợ lãi suất theo hướng tăng tổng dư nợ tín dụng nhằm khởi động lại cầu tiêu dùng và cầu đầu tư nội địa.
- Theo Keynes để kích thích đầu tư cần phải xây dựng lòng tin và sự lạc quan của doanh nhân bằng biện pháp tăng lợi nhuận và giảm lãi suất. Nhà nước tăng thêm khối lượng tiền tệ vào lưu thông để giảm lãi suất cho vay và các chính sách khuyến khích các nhà kinh doanh vay vốn mở rộng quy mô, mở rộng đầu tư. Keynes cho rằng lãi suất được ấn định bởi một bên là khối lượng cung tiền tệ do ngân hàng trung ương tạo ra và một bên là số cầu tiền tệ hay là “sự ưa thích tiền mặt”. Khi khối lượng tiền tệ tăng hoặc giảm mà số cầu tiền tệ không thay đổi, lãi suất có thể giảm hoặc tăng một cách tương ứng. Do vậy, để khuyến khích đầu tư, Nhà nước vừa phải duy trì ở mức lãi suất thấp, vừa có thể tăng khối lượng tiền tệ.
- Dựa trên quan điểm điều chỉnh lãi suất thấp, Keynes chủ trương thực hiện “lạm phát có mức độ”. Theo quan điểm này, lạm phát càng mạnh khi lãi suất càng thấp và do đó, đầu tư càng sôi động. Ngược lại, đầu tư mạnh, nhu cầu về đầu tư lớn thì lạm phát càng có điều kiện phát sinh. Về thực chất, giảm lợi tức là để nâng cao lợi nhuận cho tư bản độc quyền khích thích tính tích cực hoạt động của tư bản độc quyền, thực hành lạm phát là làm tăng giá cả nhằm hạ thấp tiền lương thực tế của các tầng lớp lao động khác nhau khi nền kinh tế đạt tới mức sản lượng cao và việc làm tăng thì lạm phát sẽ tự động dừng lại.
- Thâm hụt ngân sách là điều khó tránh khỏi ở những nước có kế hoạch kích cầu trên quy mô lớn. Để bù đắp cho sự thiếu hụt của ngân sách Nhà nước, ông chủ trương in thêm tiền giấy để cấp phát cho ngân sách từ đó mở rộng đầu tư của Nhà nước và đảm bảo chi tiêu cho chính phủ.
Những năm 1960, 1970 kích cầu theo học thuyết Keynes tiếp tục phổ biến khắp nơi trên thế giới mà kết quả là nền kinh tế Mỹ, châu Âu và một số nền kinh tế khác ở châu Mỹ Latin đã phát triển hơn. Phần lớn việc chi tiêu của chính phủ thông qua các gói kích cầu nhằm mục đích đưa nền kinh tế vượt qua khủng hoảng nhưng nó đã kéo theo sự phát triển quá nóng. Kinh tế Mỹ Latin thường xuyên trong tình trạng lạm phát phi mã. Chỉ số chung về lạm phát và thất nghiệp ở Mỹ cũng luôn ở mức cao, lên đến 20,8% năm 1980, tăng hơn 10% so với 10 năm trước đó
- Khuyến khích việc chi tiêu của Nhà nước nhất là Nhà nước trung ương kể cả với những chi tiêu không có lợi cho nền kinh tế như quân sự hóa, chạy đua vũ trang, phát động chiến tranh…
Chiến tranh thật sự là một cơ hội kinh doanh tốt, nó tạo ra hàng loạt thị trường mới và khiến cho chính phủ phải trợ cấp nhiều cho đầu tư. Đã có nhiều hoạt động rất lớn do chính phủ điều hành trong suốt thời kỳ chiến tranh, nhưng sau này cũng chuyển giao lại cho các doanh nghiệp tư nhân. Điển hình là những nhà máy nitrogen được xây dựng để sản xuất TNT. Sau chiến tranh, chúng được chuyển sang cho doanh nghiệp tư nhân để kích thích mở rộng sản xuất phân vô cơ.
- Chủ trương sử dụng công cụ thuế để điều tiết kinh tế. Đối với nhà kinh doanh, ông khuyến cáo Nhà nước giảm thuế để nâng cao hiệu quả tư bản nhằm khuyến khích nhà kinh doanh tích cực đầu tư phát triển. Đối với người lao động, cần phải tăng thuế để điều tiết bớt một phần tiết kiệm từ thu nhập của họ, đưa phần này vào ngân sách Nhà nước để mở rộng đầu tư.
Ở Việt Nam giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp (kích thích sản xuất từ phía cung) từ quý IV/2008 kéo dài thời gian chậm nộp thuế từ 6 tháng lên 9 tháng và hoàn thuế VAT nhanh hơn để hỗ trợ doanh nghiệp.
c. Khuyến khích tiêu dùng:
Nhà nước thông qua chính sách thuế để điều chỉnh thu nhập quốc dân có lợi cho tiêu dùng xã hội, đặc biệt là khuyến khích tiêu dùng đối với những tầng lớp có thu nhập cao ưa tiêu dùng từ đó giảm khối lượng tiết kiệm nói chung. Đối với người lao động, ông cho rằng cần phải đáp ứng tâm lý của người tiêu dùng hỗ trợ tiêu dùng cá nhân.
Ngày 13/2/2008: Tổng thống George W. Bush đã ký Economic Stimulus Act of 2008 nhằm kích cầu với tổng hợp trị giá 168 tỷ dollar chủ yếu dưới hình thức hoàn thuế thu nhập cá nhân. Ngày 26/2/09 chính phủ Mỹ sẽ lên kế hoạch về việc tăng thuế đối với những người có thu nhập cao,theo kế hoạch chính phủ sẽ thu thêm khoảng 1000 tỷ USD từ những người có thu nhập cao nhất nước Mỹ và mức thuế sẽ lên tới 36-39.6% so với mức hiện nay là 33-35