Ngày nay nước ta đang trong tiến trình hội nhập ngày một rộng hơn sâu hơn với thi thị trường thế giới. Các doanh nghiệp nhà nước cũng như các doanh nghiệp ngoài nhà nước đang đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt của các doan nghiệp trên thế giới. Để có thể tồn tại và phát triển một yêu cầu đặt ra với các doanh nghiệp trong nước đó là phải duy trì được hợp lý được mối quan hệ giữa các dự án đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu của mình. Và để có thể làm được điều này chúng ta cần phải hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
Đáp ứng yêu cầu đó, đề tài “Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu, lý luận và thực tiễn” hi vọng sẽ giúp các bạn sinh viên và nhưng ai quan tâm có cái nhìn đúng đắn hơn vấn đề này về cả lý luận lẫn thực tiễn nước ta.
54 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu, lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Ngày nay nước ta đang trong tiến trình hội nhập ngày một rộng hơn sâu hơn với thi thị trường thế giới. Các doanh nghiệp nhà nước cũng như các doanh nghiệp ngoài nhà nước đang đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt của các doan nghiệp trên thế giới. Để có thể tồn tại và phát triển một yêu cầu đặt ra với các doanh nghiệp trong nước đó là phải duy trì được hợp lý được mối quan hệ giữa các dự án đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu của mình. Và để có thể làm được điều này chúng ta cần phải hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
Đáp ứng yêu cầu đó, đề tài “Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu, lý luận và thực tiễn” hi vọng sẽ giúp các bạn sinh viên và nhưng ai quan tâm có cái nhìn đúng đắn hơn vấn đề này về cả lý luận lẫn thực tiễn nước ta.
Chương I : Lý LUậN CHUNG Về ĐầU TƯ CHIềU RộNG Và ĐầU TƯ CHIềU SÂU
I. Quan điểm chung về đầu tư và việc phân loại đầu tư theo cơ cấu tái sản xuất .
1. Đầu tư và đầu tư phát triển.
1.1. Khái niệm
Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, các của cải vật chất khác...) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong các kết quả đã đạt được trên đây những kết quả là các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế được thụ hưởng.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Như vạy nếu xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có những hoạt động sử dụng các nguộn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay đầu tư phát triển
Bản chất của các loại đầu tư trong phạm vi quốc gia
Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể phân biệt các loại đầu tư sau đây:
Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hương lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu, trái phiếu công ty). Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Với sự hoạt động của hình thức này, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một các nhanh chóng, điều đó khuyến khích người có tiền đầu tư. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhăm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán.Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và nguời đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
Đầu tư phát triển: đó là việc bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt thiết bị và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt độngc ủa các tài sản này nhăm duy trì tiềm lực hoạt động của các co sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
1.2. Vai trò và đặc điểm của đầu tư phát triển trong nền kinh tế
Vai trò của đầu tư phát triển
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ
* Đầu tư quyết định sự ra đời, sự tồn tại và sự phát triển của mỗi doanh nghiệp.
Đối với sự ra đời của doanh nghiệp: để tạo cơ sơ vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ doanh nghiệp nào thì đều phải cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản khác và thực hiện các chi phí gắn liền với sự hoạt động của một chu kỳ của các cơ sơ vật chất kỹ thuật vừa tạo ra.
Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động: Sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của các doanh nghiệp này sẽ bị hao mòn hư hỏng, Vì vậy để duy trì được sự hoạt động bình thường thì cần phải định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn hoặc cần phải đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển của nền kinh tế.
Một doanh nghiệp muốn phát triển , mở rộng sản xuất kinh doanh thì cần phải tiến hành đầu tư mua sắm các thiết bị công nghệ mới để nâng cao năng suất và đầu tư xây dựng thêm nhà xưởng để mở rộng sản xuất.
Đối với nền kinh tế
* Đầu tư là nhân tố quan trọng tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế
Hầu hết các tư tưởng, mô hình và lý thuyết về tăng trưởng kinh tế đều trực tiếp hoặc gián tiếp thừa nhận đầu tư và việc tích luỹ vốn cho đầu tư là một nhân tố quan trọng cho việc gia tăng năng lực sản xuất, cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế. Adam Smith trong cuốn “ Của cải của các dân tộc” đã cho rằng “vốn đầu tư là yếu tố quyết định chủ yếu của số lao động hữu dụng và hiệu quả”. Việc gia tăng quy mô vốn đầu tư sẽ góp phần quan trọng trong việc gia tăng sản lượng quốc gia và sản lượng bình quân mỗi lao động. Các nhà kinh tế học hiện đại cũng đều đánh giá vai trò của đầu tư có ý nghĩa nhất định đối với tăng trưởng và phát triển của các quốc gia.
* Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đầu tư có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua những chính sách tác động đến cơ cấu đầu tư. Trong điều hành chích sách đầu tư , Nhà nước có thể can thiệp trực tiếo như thực hiện chính sách phân bổ vốn, kế hoạch hoá, xây dựng cơ chế quản lý đầu tư hoặc điều tiết gián tiếp qua các công cụ chính sách như thuế, tín dụng, lãi suất để xác lập và định hướng một cơ cấu đầu tư dẫn dắt sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý hơn.
Tỷ trọng phân bổ vốn cho các ngành khác nhau sẽ mang lại những kết quả và hiệu quả khác nhau. Vốn đầu tư cũng như tủ trọng vốn đầu tư cho các ngành và các vùng kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng và cũng đồng thời ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chung của cả nền kinh tế. Không những thế, giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế cũng có mối quan hệ khăng khít với nhau, Việc đầu tư vốn nhằm mục đích mang lại hiệu quả kinh tế cao, tăng trưởng nhanh trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế cũng sẽ dẫn đến hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý. Ngược lại tăng trưởng kinh tế cao kết hợp với việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ tạo nguồn vốn đầu tư dồi dào, định hướng đầu tư vào các ngành hiệu quả hơn.
* Đầu tư tác động làm tăng năng lực khoa học công nghệ của đất nước
Đầu tư và đặc biệt là đầu tư phát triển trực tiếp tạo mới và cải tạo chất lượng, năng lực sản xuất, phục vụ của nền kinh tế và của các đơn vị cơ sở.Chính vì vậy đầu tư cũng là điều kiện tiên quyết cho quá trình đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ của quốc gia.
* Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu của nền kinh tế
Về mặt cầu:
Đầu tư (I) là một trong những bộ phận quan trọng của tổng cầu (AD = C +I + G + X – M). Vì vậy khi quy mô đầu tư thay đổi cũng sẽ có tác động trực tiếp đến quy mô của tổng cầu. Tuy nhiên, tác động của đầu tư đến tổng cầu là ngắn hạn. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư sẽ làm cho tổng cầu tăng kéo theo sự gia tăng của sản lượng và giá cấ yếu tố đầu vào.
Về mặt cung:
Trong dài hạn, khi các thành quả của đầu tư đã được huy động và phát huy tác dụng, năng lực sản xuất và cung ứng dịch vụ gia tăng thì tổng cung cũng sẽ tăng lên. Khi đó sản lượng tiềm năng sẽ tăng và đạt mức cân bằng trong khi giá cả của sản phẩm sẽ có xu hướng đi xuống. Sản lượng tăng trong khi giá cả giảm sẽ kích thích tiêu dùng và hoật đọng sản xuất cung ứng dịch vụ của nền kinh tế. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích lũy, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển
Hoạt đọng đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác, đó là:
- Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư.
-thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi thời gian dài với nhiều biến động xảy ra.
-Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn địng về tự nhiên, xã hội , kinh tế, chính trị...
- Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng nghìn năm thậm chí tồn tại vĩnh viễn.
- Các thanh quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó các điều kiện về địa lý, địa hình tại đó có ảnh hưởng lờn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như có tác dụng sau này của các kết quả đầu tư.
...
2, Phân loại các hoạt động đầu tư
Trong công tác quản lý và kế hoạch hoá hoạt động đầu tư các nhà kinh tế phân loại hoạt động đầu tư theo các tiêu thức khác nhau. Mỗi tiêu thức phân loại đáp ứng những nhu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế khác nhau. Những tiêu thức phân loại đầu tư thường được sử dụng là:
Theo bản chất của các đối tượng đầu tư
Theo cơ cấu tái sản xuất
Theo phân cấp quản lý
Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư
Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư
Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội
Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra của các kết quả đầu tư
Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư
Theo nguồn vốn
Theo vùng lãnh thổ
Trong phạm vi nội dung nghiên cứu chúng tôi chỉ đề cập đến hình thức phân loại hoạt động đầu tư theo cơ cấu tái sản xuất.
2.1, Tái sản xuất
Xã hội không thể ngừng tiêu dùng nên không thể ngừng sản xuất. Vì vậy, mọi quá trình sản xuất xét theo tiến trình đổi mới không ngừng thì đồng thời là quá trình tái sản xuất. Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp lại thường xuyên và phục hồi không ngừng.
Có thể phân loại tái sản xuất theo những tiêu chí khác nhau:
- Căn cứ theo phạm vi, có thể chia tái sản xuất thành tái sản xuất cá biệt và tái sản xuất xã hội. Tai sản xuất diễn ra trong từng đơn vị kinh tế, từng xí nghiệp gọi là tái sản xuất cá biệt. Tổng thể của tái sản xuất cá biệt trong mối liên hệ hữu cơ với nhau được gọi là tái sản xuất xã hội.
- Căn cứ vào quy mô, có thể chia tái sản xuất thành tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Tái sản xuất giản đơn là quá trình tái sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ. Loại hình tái sản xuất này thường gắn với nền sản xuất nhỏ và là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ.
Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô lớn hơn trước. Loại hình tái sản xuất này thường gắn với nền sản xuất lớn và là đặc trưng của nền sản xuất lớn.
Trong lịch sử, việc chuyển từ tái sản xuất giản đơn lên tái sản xuất mở rộng là một quá trình phát triển lâu dài gắn liền với việc chuyển từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Tái sản xuất giản đơn gắn liền với nền sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, chỉ đạt mức đủ nuôi sống con người, chưa có hoặc có rất ít sản phẩm thặng dư, những sản phẩm làm ra lại đem tiêu dùng hết cho cá nhân. Tái sản xuất mở rộng đòi hỏi xã hội phải đạt trình độ năng suất lao động vượt ngưỡng cửa sản phẩm tất yếu và tạo ra sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều. Sản phẩm thặng dư là nguồn gốc để tích luỹ tái sản xuất mở rộng.
Tái sản xuất mở rộng gồm hai hình thức là tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu.
Tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng là sự mở rộng quy mô sản xuất, tăng thêm sản phẩm làm ra nhờ sử dụng nhiều hơn các yếu tố đầu vào, các nguồn lực của sản xuất, trong khi năng suất và hiệu quả của các yếu tố sản xuất đó không đổi. Tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng chính là hình thức đầu tư theo chiều rộng.
Tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu là sự tăng lên của sản phẩm chủ yếu do tăng năng suất lao động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực, còn các nguồn lực được sử dụng có thể không thay đổi, giảm hoặc tăng lên, nhưng mức tăng của chúng nhỏ hơn mức tăng của năng suất lao động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực đó trong xã hội. Tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu chính là hinh thức đầu tư theo chiều sâu.
2.2, Đầu tư theo chiều rộng
a. Khái niệm
Theo quan điểm tái sản xuất của Mác, đầu tư theo chiều rộng là đầu tư nhằm mở rộng quy mô sản xuất nhưng không làm tăng năng suất lao động.Đầu tư theo chiều rộng cũng chính là đầu tư mới.
Theo quan điểm ngày nay thì đầu tư chiều rộng là đầu tư trên cơ sở cải tạo và mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, xây dựng mới các cơ sở vật chất với những kỹ thuật công nghệ cơ bản như cũ.
b. Đặc điểm
Đầu tư chiều rộng đòi hỏi lượng vốn lớn và vốn này nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Do đó đòi hỏi các nhà đầu tư cần có sự lựa chọn kỹ càng để lựa chọn được cơ hội đầu tư mang lại hiệu quả cao nhất, tức là phải có một quá trình nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố thị trường các điều kiện tự nhiên và các yếu tố kinh tế chính trị xã hội trước khi đưa ra quyết định đầu tư nhằm bảo đảm thu hồi vốn và có lãi. Cũng do lượng vốn lớn nên việc huy động vốn thường gặp khó khăn và tốn nhiều thời gian.
Đầu tư theo chiều rộng đòi hỏi thời gian thực hiện đầu tư và thời gian thu hồi vốn lâu: do phải thi công nhiều hạng mục công trình cho nên quá trình thực hiện đầu tư thưòng kéo dài; bên cạnh đó tác động của các yếu tố tự nhiên như thiên tai, địa hình và các yếu tố tiêu cực cũng ảnh hưởng không ít đến thời gian thi công.
Do vốn lớn nên việc sản xuất bù đắp cho lượng vốn bỏ ra mất rất nhiều thời gian cho nên thời gian thu hồi vốn lâu.
- Đầu tư chiều rộng có tính chất phức tạp và độ mạo hiểm cao: tính chất phức tạp do phải xây dựng và lắp ghép nhiều hạng mục công trình. Trong quá trình thực hiện đầu tư. Cũng do quá trình xây dựng phức tạp cộng với vốn lớn và tác động tiêu cực của các yếu tố khách quan và chủ quan cho nên đầu tư chiều rộng có độ mạo hiểm cao.
c.Vai trò
Đầu tư theo chiều rộng có vai trò hết sức quan trọng
Đối với toàn bộ nền kinh tế: Đầu tư chiều rộng là nhân tố làm tăng quy mô của nền kinh tế,tạo đà cho nền kinh tế tăng trưởng với quy mô lớn hơn trước trên cơ sơ xây dựng mới và mở rộng nhiều vùng kinh tế , nhiều khu, cum công nghiệp trên khắp cả nước. Do đó nó còn thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế, thúc đẩy, tạo điều kiện và hỗ trợ các vùng kinh tế chậm phát triển, vung sâu vùng xa được tham gia vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước một cách tích cực hơn, mạnh mẽ hơn.
Đối với các doanh nghiệp: đầu tư chiều rộng đi cùng với việc có thêm nhiều cơ sơ sản xuất kinh doanh được xây dựng thêm khiến cho quy mô sản xuất của các doanh nghiệp được mở rộng, đưa năng suất tăng lên. Nó còn góp phần tạo ra nhiều việc làm mới, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động ở các địa phưong; làm tăng doanh thu của các doanh nghiệp, góp phần làm tăng ngân sách nhà nước, đóng góp vào đà tăng trưởng chung của nền kinh tế. Đầu tư chiều rộng có hiệu quả càng nhiều thì doanh nghiệp càng có điều kiện về vốn, lao động tài nguyên, công nghệ để phát triển sản xuất.
2.3, Đầu tư theo chiều sâu
a. Khái niệm
Theo quan điểm tái sản xuất của Mác, đầu tư theo chiều sâu là đầu tư nhằm nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực.
Theo quan điểm ngày nay, đầu tư theochiều sâu là hoạt động đầu tư được thực hiển trên cơ sở cải tạo, nâng cao, đồng bộ hoá, hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, hoặc xây dựng lại hoặc đầu tư mới một dây truyền công nghệ, xây dựng một nhà máy mới nhưng kỹ thuật công nghệ phải hiện đại hơn kỹ thuật công nghệ hiện có hoặc kỹ thuật trung bình của ngành, vùng nhằm duy trì năng lực đã có .
b. Đặc điểm
Khối lượng vốn đầu tư không lớn: thông thường đầu tư chiều sâu thực hiện theo trọng điểm, do đó chỉ tập trung vào một số yếu tố nhất định như đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động hoặc trang bị thêm máy móc hoặc thay thế các nguyên liệu đầu vào mới hay áp dụng công nghệ mới, do đó khối lượng vốn đầu tư đòi hỏi không lớn và có thể thực hiện dễ dàng nhanh chóng hơn so với đầu tư chiều rộng.
Thời gian thực hiện đầu tư chiều sâu tương đối ngắn so với đầu tư chiều rộng do khối lượng công việc ít đa dạng hơn. Do đó hình thức đằu theo chiều sâu ít mạo hiểm hơn và có độ rủi ro rhấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng.
Do chỉ tập trung đầu tư cho một số hạng mục công trình cho nên hình thức này sẽ thuận lợi hơn cho việc quản lý; tuy nhiên do công việc có tính phức tạp về mặt công nghệ cho nên đòi hỏi phải thi công với kỹ thuật cao.
Đầu tư theo chiều sâu thu hồi vốn nhanh: thông thưòng trong quá trình thực hiện đầu tư việc sản xuất vẫn có thể tiếp tục song song, thêm vào đó do khối lượng vốn đầu tư tương đối nhỏ khiến cho việc thu hồi vốn diễn ra nhanh chóng.
c. Vai trò
Đối với nền kinh tế nói chung: đầu tư chiều sâu là điều kiện không thể thiếu được trong điều kiện ngày nay để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế. Không chỉ mở rộng quy mô của nền kinh tế về mặt lượng tức là đầu tư theo chiều rộng mà song song với nó phải tiến hành đầu tư theo chiều sâu để nâng cao mặt chất của nền kinh tế, tức là phải tăng năng suất lao động trên cơ sở cải tạo nâng cao trình độ của đội ngũ nhân công, sử dụng có hiệu qủa các nguồn nhiên liệu khan hiếm trên cơ sở tìm các loại nguyên vật liệu mới có hiệu quả thay thế và tăng cường hàm lượng công nghệ trong các sản phẩm của nền kinh tế trên cơ sơ đổi mới máy móc công nghệ.
Đối với các doanh nghiệp: đầu tư chiều sâu là chiến lược tồn tại, phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
Sau một thời gian mở rộng sản xuất kinh doanh nhằm chiếm lĩnh một thị phần lớn hơn của sản phẩm trên thị trường, hay sau nhiều chu ky kinh doanh máy móc thiết bị của doanh nghiệp đã bị hao mòn thì các doanh nghiệp đều cần phải tiến hành đầu tư chiều sâu nhằm đổi mới lại thiết bị, tăng cường hàm lượng công nghệ, kỹ thuật cho các yếu tố đầu vào. Có như thế sản phẩm của doanh nghiệp làm ra mới luôn luôn được đổi mới và nâng cao về chất lượng, qua đó mới có thể cạnh tranh được với các đối thủ và có được chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Nhờ đầu tư chiều sâu thì doanh nghiệp có thể nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, do đó có điều kiện giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm nhờ đó nâng cao dược khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
3. Nội dung của đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu.
a. Đầu tư chiều rộng
Đầu tư chiều rộng là đầu tư xây dựng mới nhà cửa, cấu trúc hạ tầng theo thiết kế được phê duyệt lần đầu làm tăng thêm lượng tài sản vật chất tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy vậy tinh kỹ thuật của các côn