Dân số Việt Nam vẫn đang tăng nhanh, bình quân trên 1 triệu người mỗi năm, nghĩa là bằng dân số một tỉnh thuộc loại trung bình.
Theo Tổng cục thống kê, năm 2005 Việt Nam có khoảng 83,1199 triệu người, là nước đông dân thứ 13 trên thế giới. Mật độ dân số lên tới 252 người/km2 (trong khi đó các chuyên gia LHQ tính toán để có cuộc sống thuận lợi, bình quân chỉ nên có 30-40 người/km2). Sang năm 2006,dân số Việt Nam tăng lên 84,1158 triệu người, là nước đứng thứ 14 trên thế giới,mật độ dân cư là 254 người/km2, cao gấp 6 lần so với mức chuẩn quốc tế.Dự báo đến giữa thế kỉ,Việt Nam sẽ trở thành 1 trong 16 nước có trên 100 triệu dân.
Các đặc điểm của dân số Việt Nam, trong đó lưu ý vấn đề dân số trẻ nhưng đang bước vào thời kỳ quá độ chuyển đổi sang dân số già.
Những người sinh ra sau năm 1975 ước chiếm khoảng 63% tổng dân số, tuy nhiên số người từ 60 tuổi trở lên hiện đã chiếm khoảng 9%. Sự mất cân đối giới tính đã bộc lộ những dấu hiệu rất nghiêm trọng do tâm lý thích sinh con trai.
Theo kết quả điều tra năm 1999, tỷ số giới tính chung cả nước ở mức 96,7 nam/100 nữ nhưng đối với nhóm trẻ từ 0-4 tuổi, tỷ lệ các bé trai ngày càng nhiều so với các bé gái.
Dân số phân bố không đều và mô hình di dân thay đổi. Năm 1999 trung bình trên mỗi km2 đất ở Thái Bình có 1.194 người, trong khi đó ở Kom Tum chỉ có 32 người/km2 (gấp 40 lần).
Sức ép từ nhu cầu việc làm đã dẫn đến tình trạng các luồng di dân tự do và theo dự án không ngừng tăng lên. Riêng giai đoạn 1990-1997 đã có 1,2 triệu dân di chuyển tới các vùng theo dự án.
Tại TP.HCM trong giai đoạn 1991-1996 cứ mỗi năm lại tăng thêm 213.000 người. Hướng di dân cũng thay đổi đáng kể, từ di dân Bắc-Nam sang nông thôn-đô thị và trong nước ra nước ngoài. Chỉ tính đến đầu 2004, đã có tới gần 80.000 phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan.Dự báo xu hướng di dân sẽ ngày càng sôi động hơn.
Về đại thể, Việt Nam vẫn là một nước “tam nông” (nông thôn, nông nghiệp và nông dân) do tỷ lệ dân số đô thị quá thấp. Năm 2004, tỷ lệ dân đô thị cả nước mới đạt 26,3%. Nhiều tỉnh, tỷ lệ dân đô thị chưa đạt tới 10%.
Lao động Việt Nam có 4,5% mù chữ, 47% chỉ có trình độ tiểu học, 30% tốt nghiệp THCS và 18,5% tốt nghiệp THPT, 79% lao động từ 15 tuổi trở lên không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, khu vực nông thôn lên tới 87% (số liệu 2003).
Việt Nam là một thị trường rộng lớn, có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.Bên cạnh đó nguồn nhân lực dồi dào,giá lao động rẻ, thong minh, tiếp thu nhanh là những điều kiện thuận lợi giúp các doanh nghiệp trong và ngoài nước phất triển sản xuất.Nhưng vẫn tồn tại một số vấn đề mà chúng ta vẫn chưa khắc phục được đó là:lao động không có trình độ chiếm tỉ trọng lớn, ý thức kỉ luật, ý thức lao đông kém, trình độ quản lí,tổ chúc chưa cao
26 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1355 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Môi trường kinh doanh Việt Nam thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MÔI TRƯỜNG KINH DOANH VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
A. Thực trạng
1.Dân số
Dân số Việt Nam vẫn đang tăng nhanh, bình quân trên 1 triệu người mỗi năm, nghĩa là bằng dân số một tỉnh thuộc loại trung bình.
Theo Tổng cục thống kê, năm 2005 Việt Nam có khoảng 83,1199 triệu người, là nước đông dân thứ 13 trên thế giới. Mật độ dân số lên tới 252 người/km2 (trong khi đó các chuyên gia LHQ tính toán để có cuộc sống thuận lợi, bình quân chỉ nên có 30-40 người/km2). Sang năm 2006,dân số Việt Nam tăng lên 84,1158 triệu người, là nước đứng thứ 14 trên thế giới,mật độ dân cư là 254 người/km2, cao gấp 6 lần so với mức chuẩn quốc tế.Dự báo đến giữa thế kỉ,Việt Nam sẽ trở thành 1 trong 16 nước có trên 100 triệu dân.
Các đặc điểm của dân số Việt Nam, trong đó lưu ý vấn đề dân số trẻ nhưng đang bước vào thời kỳ quá độ chuyển đổi sang dân số già.
Những người sinh ra sau năm 1975 ước chiếm khoảng 63% tổng dân số, tuy nhiên số người từ 60 tuổi trở lên hiện đã chiếm khoảng 9%. Sự mất cân đối giới tính đã bộc lộ những dấu hiệu rất nghiêm trọng do tâm lý thích sinh con trai.
Theo kết quả điều tra năm 1999, tỷ số giới tính chung cả nước ở mức 96,7 nam/100 nữ nhưng đối với nhóm trẻ từ 0-4 tuổi, tỷ lệ các bé trai ngày càng nhiều so với các bé gái.
Dân số phân bố không đều và mô hình di dân thay đổi. Năm 1999 trung bình trên mỗi km2 đất ở Thái Bình có 1.194 người, trong khi đó ở Kom Tum chỉ có 32 người/km2 (gấp 40 lần).
Sức ép từ nhu cầu việc làm đã dẫn đến tình trạng các luồng di dân tự do và theo dự án không ngừng tăng lên. Riêng giai đoạn 1990-1997 đã có 1,2 triệu dân di chuyển tới các vùng theo dự án.
Tại TP.HCM trong giai đoạn 1991-1996 cứ mỗi năm lại tăng thêm 213.000 người. Hướng di dân cũng thay đổi đáng kể, từ di dân Bắc-Nam sang nông thôn-đô thị và trong nước ra nước ngoài. Chỉ tính đến đầu 2004, đã có tới gần 80.000 phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan.Dự báo xu hướng di dân sẽ ngày càng sôi động hơn.
Về đại thể, Việt Nam vẫn là một nước “tam nông” (nông thôn, nông nghiệp và nông dân) do tỷ lệ dân số đô thị quá thấp. Năm 2004, tỷ lệ dân đô thị cả nước mới đạt 26,3%. Nhiều tỉnh, tỷ lệ dân đô thị chưa đạt tới 10%.
Lao động Việt Nam có 4,5% mù chữ, 47% chỉ có trình độ tiểu học, 30% tốt nghiệp THCS và 18,5% tốt nghiệp THPT, 79% lao động từ 15 tuổi trở lên không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, khu vực nông thôn lên tới 87% (số liệu 2003).
Việt Nam là một thị trường rộng lớn, có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.Bên cạnh đó nguồn nhân lực dồi dào,giá lao động rẻ, thong minh, tiếp thu nhanh…là những điều kiện thuận lợi giúp các doanh nghiệp trong và ngoài nước phất triển sản xuất.Nhưng vẫn tồn tại một số vấn đề mà chúng ta vẫn chưa khắc phục được đó là:lao động không có trình độ chiếm tỉ trọng lớn, ý thức kỉ luật, ý thức lao đông kém, trình độ quản lí,tổ chúc chưa cao…
2.Kinh tế
Đã có sự cải thiẹn đáng kể trong các cân đối vĩ mô. Thâm hụt ngân sách giảm, quan hệ giữa tích lũy và đầu tư trở nên hài hòa hơn. Trong lĩnh vực tiền tệ ngan hang quan hệ và sự bất hợp lí giữa lãi suất cho vay tiền VNĐ và USD đã được thu hẹp. Thời gian qua chung ta duy trì được xuất nhập khẩu ở mức cao và lien tục trong nhiều năm, dạt thành tích tốt trong xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên chất lượng tăng trưởng chưa cao do năng suất lao động và hiêu quả thấp,năng lực cạnh tranh quốc tế còn thua kém, lạm phát sau một số năm được kiềm chế tốt thì thời gian gần đây lại có biến động tăng, khó kiểm soát. Trong khi đó do chưa có luật cạnh tranh nên tình trạng bảo họ thiếu hợp lí , lạm dụng độc quỳên nhà nước thành đọc quyền doanh nghiệp trong một số lĩnh vực như điện lực , dầu khí, hàng không chậm được xóa bỏ đã trở thành rào cản cho cạnh tranh và nâng cao hiệu quả lao động và cải thiện chất lượng dịch vụ.
Việt Nam đã gia nhập WTO vào tháng 1/2007 và đạt được những bước tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong vài năm trở lại đây. Năm 2005, kinh tế của Việt Nam đã tăng trưởng 8,4% và 8,2% trong năm 2006. Năm 2007, kinh tế Việt Nam dự đoán sẽ đạt mức tăng trưởng 8,3%.
Đặc biệt,Thị trường bán lẻ Việt Nam đang phát triển nhanh chóng, kinh doanh bán lẻ tăng với tốc độ trung bình khoảng 23%/năm. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, năm 2007, chỉ số phát triển bán lẻ của VN đứng thứ 4 thế giới chỉ sau Ấn Độ, Nga và Trung Quốc. VN sẽ bắt đầu thực hiện các cam kết trong lĩnh vực bán lẻ từ ngày 1-1-2009.
Hiện tại, thu nhập dành cho tiêu dùng của người Việt Nam đang tăng thêm 2 tỷ USD mỗi năm vµ thu nhập dành cho tiêu dùng của người Việt Nam sẽ đạt con số 30 tỷ USD trong năm 2007. Hàng năm, có khoảng 1,2 triệu người Việt Nam gia nhập lực lượng lao động và tỷ lệ người lệ thuộc đang giảm mạnh. Thực tế này cũng làm cho tỷ lệ thu nhập dành cho chi tiêu trong các gia đình Việt Nam tăng thêm 83%.
Người Việt giàu hơn so với những gì được biết, thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam có thể cao hơn 30% so với mức được công bố (theo thống kê là gần 800 USD/năm) và ở những thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM, con số này có thể cao gấp đôi.
Tỷ lệ tiêu dùng trên thu nhập của người Việt Nam thuộc loại cao nhất ở Đông Nam Á. Người Việt Nam tiêu dùng trung bình khoảng 70% thu nhập hàng tháng. Thu nhập trung bình của người Việt Nam ngày càng tăng, trong đó nhóm có tốc độ tăng thu nhập nhanh nhất trong khoảng 500-1.000 USD/tháng, có tốc độ tăng trưởng thu nhập đến 15%/năm.
Hơn nữa, lượng khách du lịch đến Việt Nam ngày càng tăng và mức độ chi tiêu của họ cũng ngày càng cao là những cơ sở khiến thị trường bán lẻ tại Việt Nam được nhìn nhận là sẽ bùng nổ trong tương lai.
Về cơ sở hạ tầng, Việt Nam đã có nhiều bước tiến mới nhưng đáng chú ý nhất là sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin tạo ra nhiều kênh thông tin mới, cung cấp cho người tiêu dùng nhiều thông tin về sản phẩm, nhiều lựa chọn phù hợp với nhu cầu hơn. Các kênh thông tin điện tử với giá ngày càng rẻ hơn đã thực sự đưa sản phẩm đến với ngườitiêudùng.Người tiêu dùng ngày nay không cần phải đi ra khỏi nhà mà vẫn có thể chọn mua cho mình một sản phẩm ưng ý qua internet, điện thoại hay các kênh truyền hình tương tác... CNTT cũng làm rút ngắn chu kỳ thị trường của sản phẩm, các nhà sản xuất cũng nhờ vào tốc độ của CNTT mà có thể nắm bắt công nghệ mới nhanh hơn, điều nầy làm thâu hẹp khoảng cách về chât lượng, công nghệ giữa các sản phẩm cùng tham gia trên thị trường.
3.Chính trị-pháp luật
Việt Nam được coi là quốc gia có nền chính trị và xã hội ổn định, ít căng thẳng sắc tộc, tôn giáo.Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đang mở ra một thị trường tiềm năng cho ngành kinh tế. Quèc Héi ViÖt Nam ®· th«ng qua Luật Doanh nghiệp (DN) chung không phân biệt DN trong nước và nước ngoài, và Luật đầu tư với nhiều điểm đổi mới hấp dẫn (có hiệu lực từ 1.7.2006). Đến trước năm 2012, thuế nhập khẩu đánh vào các mặt hàng tiêu dùng sẽ giảm từ 5% đến 10%.
Hàng loạt các quy định được coi là "yếu tố cản trở" thu hút đầu tư nước ngoài đã được dỡ bỏ như: quy định buộc DN phải xuất khẩu 80%, yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa... Bên cạnh đó là những quy định "cởi mở" hơn như thống nhất giá điện giữa người trong nước và người nước ngoài.
Điều được thừa nhận rộng rãi là môi trường kinh doanh ở nước ta đã có những bước tiến lớn về phía trước theo hướng phù hợp hơn với đòi hỏi của thực tế và thông lệ quốc tế.Tuy nhiên nếu so với yêu cầu của cuôc sống , môi trường pháp lý ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập như các thể chế kinh tế thị trường chưa được xây dựng hoàn chỉnh và đồng bộ, nhiều bộ luật cơ bản như luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền..vv.. còn chậm được ban hành, chưa đủ minh bạch, thiếu sự ổn định cần thiết, tính nhất quán chưa cao và khó tiên liệu được. Đặc biệt là còn nhiều văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng và ban hành chưa sát hợp với đòi hỏi và điều kiện thực tiễn, không xuất phát từ quan điểm phục vụ và hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiêp hoặc mang tính chủ quan của mọt bộ phận cán bộ , cơ quan quản lí nhà nước.Bên cạnh đó, giữa các qui dịnh luật pháp ghi trên giấy và tổ chức thực hiện trên thực tế còn khoảng cách khá xa lạ do nhiều nguyên nhân khác nhau.
*)Thứ nhất,các qui định luật pháp còn thiéu sự động bộ, còn chứa đựng những yếu tố chưa sát hợp thực tiễn.
*)Thứ hai, tổ chức thực hiện chưa triệt để và nghiêm minh.
*)Thứ ba, tiêu cực tham nhũng trong bộ máy nhà nước chậm được đẩy lùi .Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho các qui định pháp luật bị bóp méo, sai lệch trong qua trình áp dụng để nhũng nhiễu trục lợi. Trong một môi trường pháp lí như vậy, hoạt động kinh doanh luôn gặp nhiều khó khăn, tăng thêm các loại chi phí không đáng có và cuối cùng làm giảm hiệu quả và khả năng cạnh tranh của hàng hóa và doanh nghiệp.
4.Văn hoá-xã hội
Mặc dù đã có những tiến bộ và cải thiện đáng kể trong những năm gần đây, nhưng nhìn chung thể chế văn hóa kinh doanh chưa được thiết lập đầy đủ, trình độ văn hóa kinh doanh chưa cao, đặc biệt là những nhà cung ứng dịch vụ còn thiếu và yếu, chưa có tính chuyên nghiệp cao, kỉ luật thực hiện hợp đồng kinh tế chưa nghiêm, dẫn đến tình trangj nợ đọng, nợ lòng vòng giữa các doanh nghiệp còn ở mức độ lớn. Tình trạng làm hang nhái , hang giả, xâm hại quyền sở hữu trí tuệ và sở hữu công nghiệp còn nhiều.
5. Khoa học công nghệ
Theo số liệu của Liên hiệp các Hội khoa học - kỹ thuật Việt Nam, cả nước hiện có khoảng 1.200 tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ, so năm 1995 tăng gần 2,5 lần.
Khoảng 60% tổ chức nói trên thuộc các cơ quan, đơn vị Nhà nước. Ðó là một tiềm năng chất xám đáng kể, một đối tác quan trọng của các doanh nghiệp, để hợp tác cùng nhau phát triển thị trường khoa học - công nghệ trước mắt và lâu dài.
Tuy nhiên, thị trường công nghệ ở ta mới được khởi động, mới thu hút một số ít ỏi các tổ chức khoa học và công nghệ tham gia. Bằng chứng dễ thấy nhất, là ở các Chợ công nghệ - thiết bị được tổ chức từ vài năm nay, nhằm kích thích cả nhu cầu của các doanh nghiệp đi "săn" hàng chất xám lẫn giới nghiên cứu đi chào hàng chất xám của mình, thì hầu như chưa thấy có các giao dịch, thậm chí chưa thấy bày hàng chất xám.
Cho nên các doanh nghiệp vào chợ, chủ yếu là để mua bán máy móc, thiết bị mới, mà chưa tìm kiếm các bản quyền sáng chế, hoặc tìm gặp các nhà nghiên cứu để đặt hàng là hợp đồng nghiên cứu và triển khai. Khá đông các nhà khoa học, công nghệ vào chợ, chủ yếu mới chỉ để "xem cho biết". Trong khi đó, các đối tác nước ngoài tranh thủ cơ hội này để nắm bắt nhu cầu hàng chất xám của các doanh nghiệp ta.
Nhà nước đã có chủ trương và các chính sách bước đầu nhằm mở đường cho giới nghiên cứu gắn mình với thực tiễn đời sống rộng lớn, sôi động với những bước phát triển ngày càng nhanh, để từng bước tự trang trải hoặc tiến đến mô hình doanh nghiệp chất xám. Giới khoa học, công nghệ hoan nghênh, nhưng chuyển biến còn chưa mạnh.
Tới nay, ở hầu hết các tổ chức khoa học, công nghệ nhà nước, số đề tài nghiên cứu sát với nhu cầu thực tiễn hiện vẫn ít hơn nhiều và gặp trở ngại do thiếu vốn để thực hiện, so với đề tài được giao và được Nhà nước cấp kinh phí. Nhiều tổ chức khoa học, công nghệ chưa chủ động, xông xáo đi tìm kiếm, gõ cửa các doanh nghiệp để tìm các hợp đồng nghiên cứu hiệu quả. Ngay cả việc quảng bá, chào hàng, kêu gọi các giao dịch từ đối tác bằng nhiều cách thức, trên báo chí, trên mạng internet, thì giới khoa học, công nghệ ta cũng chưa làm được là bao.
Chúng ta đều hiểu rằng nền kinh tế nước ta chỉ có thể tăng trưởng nhanh, bền vững, với các sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, khi thị trường khoa học, công nghệ phát triển cân đối với các loại hình thị trường khác như thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường dịch vụ, v.v.
Ðể kích hoạt thị trường này, thiết nghĩ vai trò hoạch định chính sách, điều tiết thị trường của Nhà nước là rất quan trọng. Nhà nước đã cho phép lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, nên xúc tiến đưa quỹ vào hoạt động, bảo đảm sử dụng quỹ một cách công khai, đầu tư có chọn lọc, đúng việc, đúng đối tượng, có hiệu quả thật sự, với sự quản lý quỹ chặt chẽ, có đánh giá định kỳ về hiệu quả dùng quỹ. Nhiều chuyên gia cho rằng trước mắt nên ưu tiên sử dụng quỹ này hỗ trợ cho việc đổi mới công nghệ, sáng tạo các sản phẩm công nghệ mà các lĩnh vực kinh tế nước ta có nhu cầu cấp thiết...
Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho công việc nghiên cứu - triển khai, và được quyền hợp tác đổi mới công nghệ với các tổ chức nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài (Nghị định 119 của Chính phủ) trên thực tế quả đã tăng sức thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ.
Tuy nhiên, nếu từng người, từng tổ chức khoa học, công nghệ tự đổi mới, thích ứng nhanh với kiểu cách tổ chức, quản lý cũng như tác phong nghiên cứu gắn với thị trường, nhanh nhạy nắm bắt nhu cầu thị trường mà tìm kiếm hợp đồng hoặc nguồn tài trợ mà nghiên cứu có hiệu quả thật sự, vẫn là quan trọng nhất. Danh tiếng, thu nhập cao của một tổ chức cũng như của cá nhân các nhà khoa học, công nghệ có được, sẽ do hiệu quả kinh tế mà sáng tạo của mình đem lại.
6. Địa lí
Về vị trí địa lí, Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một dải đất hình chữ S, nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, ở phía đông bán đảo Đông Dương, phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào, Campuchia, phía đông nam trông ra biển Đông và Thái Bình Dương. Bờ biển Việt Nam dài 3 260 km, biên giới đất liền dài 4 510 km. Trên đất liền, từ điểm cực Bắc đến điểm cực Nam (theo đường chim bay) dài 1 650km, từ điểm cực Đông sang điểm cực Tây nơi rộng nhất 600km (Bắc bộ), 400 km (Nam bộ), nơi hẹp nhất 50km (Quảng Bình).
Kinh tuyến: 102º 08' - 109º 28' đông
Vĩ tuyến: 8º 02' - 23º 23' bắc
Việt Nam là đầu mối giao thông từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương.
Về Tài nguyên Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú như: tài nguyên rừng, tài nguyên thủy hải sản, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản và tài nguyên du lịch.
Tài nguyên rừng
Rừng của Việt Nam có nhiều loại cây gỗ quý như: đinh, lim, sến, táu, cẩm lai, gụ, trắc, pơ mu... Tính chung, các loài thực vật bậc cao có tới 12.000 loài. Cây dược liệu có tới 1.500 loài. Lâm sản khác có nấm hương, nấm linh chi, mộc nhĩ, mật ong... Về động vật, ước tính ở Việt Nam có 1.000 loài chim, 300 loài thú, 300 loài bò sát và ếch nhái, chưa kể các loài côn trùng. Ngoài những loài động vật thường gặp như hươu, nai, sơn dương, gấu, khỉ... còn có những loài quý hiếm như tê giác, hổ, voi, bò rừng, sao la, công, trĩ, gà lôi đỏ... Rừng của Việt Nam hiện đang bị thu hẹp diện tích, nhất là rừng nguyên sinh. Nhiều loài thực vật, động vật quý hiếm đang bị khai thác, săn bắn lén nên gỗ và chim thú ngày càng cạn kiệt, nhiều loài thú quí đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
Tài nguyên thuỷ hải sản
Diện tích mặt nước kể cả nước ngọt, nước lợ và nước mặn là nguồn tài nguyên phong phú về tôm, cá... trong đó có rất nhiều loài quý hiếm. Chỉ tính riêng ở biển đã có 6.845 loài động vật, trong đó có 2.038 loài cá, 300 loài cua, 300 loài trai ốc, 75 loài tôm, 7 loài mực, 653 loài rong biển... Nhiều loài cá thịt ngon, giá trị dinh dưỡng cao như cá chim, cá thu, mực... Có những loài thân mềm ngon và quý như hải sâm, sò, sò huyết, trai ngọc...
Biển Việt Nam cũng là tiềm năng khai thác muối phục vụ sinh hoạt, công nghiệp và xuất khẩu.
Tài nguyên nước
Việt Nam được xếp vào hàng những quốc gia có nguồn nước dồi dào. Diện tích mặt nước lớn và phân bố đều ở các vùng. Sông suối, hồ đầm, kênh rạch, biển... chính là tiền đề cho việc phát triển giao thông thuỷ; thuỷ điện; cung cấp nước cho trồng trọt, sinh hoạt và đời sống...
Hệ thống suối nước nóng và nước khoáng, nước ngầm cũng rất phong phú và phân bố khá đều trong cả nước.
Tài nguyên khoáng sản
Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng: than (trữ lượng dự báo khoảng trên 6 tỉ tấn); dầu khí (ước trữ lượng dầu mỏ khoảng 3-4 tỷ thùng và khí đốt khoảng 50-70 tỷ mét khối); U-ra-ni (trữ lượng dự báo khoảng 200-300 nghìn tấn, hàm lượng U3O8 trung bình là 0,1%); kim loại đen (sắt, măng gan, titan); kim loại màu (nhôm, đồng, vàng, thiếc, chì...); khoáng sản phi kim loại (apatit, pyrit...).
Tài nguyên du lịch
Việt Nam là đất nước thuộc vùng nhiệt đới, bốn mùa xanh tươi. Địa hình có núi, có rừng, có sông, có biển, có đồng bằng và có cả cao nguyên. Núi non đã tạo nên những vùng cao có khí hậu rất gần với ôn đới, nhiều hang động, ghềnh thác, đầm phá, nhiều điểm nghỉ dưỡng và danh lam thắng cảnh như: Sa Pa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Đà Lạt (Lâm Đồng), núi Bà Đen (Tây Ninh)...; động Tam Thanh (Lạng Sơn), động Từ Thức (Thanh Hoá), Di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình)...; thác Bản Giốc (Cao Bằng), hồ Ba Bể (Bắc Kạn), hồ thuỷ điện Sông Đà (Hoà Bình - Sơn La), hồ thuỷ điện Trị An (Đồng Nai), hồ thuỷ điện Yaly (Tây Nguyên), hồ Thác Bà (Yên Bái), vịnh Hạ Long (Quảng Ninh, đã hai lần được UNESCO công nhận là di sản của thế giới), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), đảo Phú Quốc (Kiên Giang)... Với 3.260 km bờ biển có 125 bãi biển, trong đó có 16 bãi tắm đẹp nổi tiếng như: Trà Cổ, Bãi Cháy (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò (Nghệ An), Lăng Cô (Thừa Thiên Huế), Non Nước (Đà Nẵng), Nha Trang (Khánh Hoà), Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu)...
Với hàng nghìn năm lịch sử, Việt Nam có trên bảy nghìn di tích (trong đó khoảng 2.500 di tích được nhà nước xếp hạng bảo vệ) lịch sử, văn hoá, dấu ấn của quá trình dựng nước và giữ nước, như đền Hùng, Cổ Loa, Văn Miếu... Đặc biệt quần thể di tích cố đô Huế, phố cổ Hội An và khu đền tháp Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới. Hàng nghìn đền, chùa, nhà thờ, các công trình xây dựng, các tác phẩm nghệ thuật - văn hoá khác nằm rải rác ở khắp các địa phương trong cả nước là những điểm tham quan du lịch đầy hấp dẫn.
Với tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng, độc đáo như thế, mặc dù còn nhiều khó khăn trong việc khai thác, những năm gần đây ngành Du lịch Việt Nam cũng đã thu hút hàng triệu khách du lịch trong và ngoài nước, góp phần đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Hơn thế, bằng tiềm năng và sản phẩm du lịch của mình, ngành Du lịch đang tạo điều kiện tốt cho bè bạn khắp năm châu ngày càng hiểu biết và yêu mến đất nước Việt Nam.
Nguồn suối nước khoáng cũng rất phong phú như: suối khoáng Quang Hanh (Quảng Ninh), suối khoáng Hội Vân (Bình Định), suối khoáng Vĩnh Hảo (Bình Thuận), suối khoáng Dục Mỹ (Nha Trang), suối khoáng Kim Bôi (Hoà Bình)...
Về ô nhiễm không khí, theo kết quả nghiên cứu cho thấy, chất lượng không khí ở những khu vực xa thành phố và khu công nghiệp còn trong sạch, các chỉ tiêu chất lượng không khí còn ở dưới giới hạn cho phép. Trong khí đó, chất lượng không khí tại các khu công nghiệp và một số thành phố đã giảm sút, nhiều nơi bị ô nhiễm một cách nghiêm trọng, nhiều chỉ tiêu chất lượng, nồng độ vượt qua giới hạn cho phép. Ngay tại thủ đô Hà Nội, nồng độ bụi từ 2,1 đến 45,8mg/m3, gấp từ 4 đến 90 lần giới hạn cho phép (0,5mg/cm3). Tại Bắc Giang, nồng độ bụi cũng vượt quá giới hạn cho phép từ 2 đến 40 lần (từ 1-19mg/cm3). Việt Tri là nới ít bụi hơn hai địa phương trên nhưng nồng độ bụi lúc cao nhất cũng vượt giới hạn cho phép tơí 24 lần (0,4 đến 11,9 mg/cm3). Nếu giới hạn cho phép về nồng độ NH3 trong không khí là 0,0002 mg/cm3 thì nồng độ NH3 tại Hà Nội cũng từ 0,002 đến 0,05mg/cm3, tại Việt Trì từ 0,001 đến 0,034 mg/cm3, còn tại Bắc Giang tối đa là 0,0017 mg/cm3. Trong 3 địa điểm nói trên, chỉ có nồng độ SO2 là ở mức dưới giới hạn cho phép. Không phải chỉ hoạt động công nghiệp mới làm ô nhiễm không khí do các chất thải, hoạt động nông nghiệp cũng góp phần gây ô nhiễm môi trường khí do phát thải các khí NH3, CH4 từ phân hữu cơ, nhất là phân động vật, N2O và NO từ phân đạm, CO2 và các chất khí độc khác do đốt các sản phẩm sinh học, phế thải nông nghiệp, đốt phá rừng làm nương rẫy. Hóa chất là một trong những ngành công nghiệp thải ra nhiều chất độc hại vào cả các môi trường đất, nước và không khí, trực tiếp ảnh hưởng đến điều kiện làm việc của công nhân. Hàm lượng chất độc hại trong không khí khu vực sản xuất của các cơ sở sản xuất hóa chất thường vượt rất xa tiêu chuẩn qui định. Ngành công nghiệp dệt chiếm 65% giá trị tổng sản lượng của ngành c