Tiểu luận Nghiên cứu thái độ người tiêu dùng trước tần suất phát sóng quảng cáo trên đài truyền hình

Hiện nay tất cả các công ty dù lớn hay nhỏ ngoài việc quan tâm đến sản xuất, cung ứng thì công ty còn quan tâm chú trọng đến khâu tiêu thụ và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị trường. Và một trong những biện pháp để tăng sức mua của người tiêu dùng là hoạt động quảng cáo. Chiến dịch quảng cáo trên truyền hình là chiến dịch không thể thiếu của các công ty khi mới gia nhập thị trường. Do truyền hình có khả năng tiếp cận đến hầu hết các nhóm khách hàng. Mặc dù Việt Nam vẫn còn đang trên chặng đường dài trên con đường nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng ngành quảng cáo của Việt Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ đặc biệt là lĩnh vực quảng cáo trên truyền hình. Tuy nhiên hoạt động quảng cáo trên truyền hình hiện nay của nước ta vẫn còn lộn xộn, làm mất thiện cảm của người xem truyền hình với quảng cáo trên truyền hình. Do đó vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải tìm hiểu để khẳng định lại vấn đề quảng cáo trên truyền hình hiện nay còn được người tiêu dùng ủng hộ nữa hay không, cũng như tìm hiểu lý do tại sao người tiêu dùng lại có thái độ đó. Gồm 5 phần: - Lời mở đầu. - Phần 1: Cơ sở lý luận của quảng cáo trên truyền hình và thực trạng tần suất quảng cáo trên truyền hình. - Phần 2: Kết quả nghiên cứu thái độ của người tiêu dùng với thực trạng quảng cáo trên truyền hình hiện nay. - Phần 3: Kiến nghị đưa ra để thai đổi thái độ của người tiêu dùng. - Kết luận. Đề tài “Nghiên cứu thái độ người tiêu dùng trước tần suất phát sóng quảng cáo trên đài truyên hình”

doc26 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1481 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nghiên cứu thái độ người tiêu dùng trước tần suất phát sóng quảng cáo trên đài truyền hình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU: Hiện nay tất cả các công ty dù lớn hay nhỏ ngoài việc quan tâm đến sản xuất, cung ứng thì công ty còn quan tâm chú trọng đến khâu tiêu thụ và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị trường. Và một trong những biện pháp để tăng sức mua của người tiêu dùng là hoạt động quảng cáo. Chiến dịch quảng cáo trên truyền hình là chiến dịch không thể thiếu của các công ty khi mới gia nhập thị trường. Do truyền hình có khả năng tiếp cận đến hầu hết các nhóm khách hàng. Mặc dù Việt Nam vẫn còn đang trên chặng đường dài trên con đường nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng ngành quảng cáo của Việt Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ đặc biệt là lĩnh vực quảng cáo trên truyền hình. Tuy nhiên hoạt động quảng cáo trên truyền hình hiện nay của nước ta vẫn còn lộn xộn, làm mất thiện cảm của người xem truyền hình với quảng cáo trên truyền hình. Do đó vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải tìm hiểu để khẳng định lại vấn đề quảng cáo trên truyền hình hiện nay còn được người tiêu dùng ủng hộ nữa hay không, cũng như tìm hiểu lý do tại sao người tiêu dùng lại có thái độ đó. Gồm 5 phần: - Lời mở đầu. Phần 1: Cơ sở lý luận của quảng cáo trên truyền hình và thực trạng tần suất quảng cáo trên truyền hình. Phần 2: Kết quả nghiên cứu thái độ của người tiêu dùng với thực trạng quảng cáo trên truyền hình hiện nay. Phần 3: Kiến nghị đưa ra để thai đổi thái độ của người tiêu dùng. Kết luận. Đề tài “Nghiên cứu thái độ người tiêu dùng trước tần suất phát sóng quảng cáo trên đài truyên hình” PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢNG CÁO TRÊN TRUYỀN HÌNH VÀ THỰC TRẠNG QUẢNG CÁO TRÊN ĐÀI TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM. Quảng cáo. 1.1: Khái niệm: Trong những thập niên gần đây, quảng cáo không những đã triển khai theo chiều rộng mà cả chiều sâu. Quảng cáo có mặt ở khắp chốn, từ những quốc gia có truyền thống tư bản đến những nền kinh tế theo khuynh hướng xã hội. Quảng cáo không những đã làm biến dạng những mô thức sinh hoạt của người tiêu thụ mà còn thay đổi cả tư duy, ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa của mọi tầng lớp người trong xã hội. Mặc dù được xuất hiện phổ biến như thế nhưng vẫn chưa có một định nghĩa nào mang tính chất khái quát nhất, chung nhất về quảng cáo. Do vậy ở mỗi quốc gia khác nhau, mỗi nên kinh tế khác nhau, mỗi hiệp hội khác nhau lại có một một cách hiểu khác nhau về quảng cáo, và khái niệm về quảng cáo lại được trình bày khác nhau. Theo Hiệp hội quảng cáo Mỹ ( American Advertising Association ), một hiệp hội quảng cáo lâu đời và uy tín nhất trên thế giới, “ Quảng cáo là hoạt động truyền bá thông tin, trong đó nói rõ ý đồ của chủ quảng cáo, tuyên truyền hàng hóa, dịch vụ của chủ quảng cáo trên cơ sở có thu phí quảng cáo, không trực tiếp nhằm công kích người khác”. 1.2: Các phương tiện quảng cáo: Hoạt động quảng cáo sử dụng rất nhiều các phương tiện khác nhau nhằm thực hiện được các chức năng (đặc trưng hóa sản phẩm, cung cấp thông tin về sản phẩm, hướng dẫn sử dụng sản phẩm, mở rộng mạng lưới phân phối ). Các phương tiện đó là: Nhóm các phương tiện quảng cáo nghe nhìn: Quảng cáo trên truyền hình, quảng cáo trên đài phát thanh và quảng cáo trên Intrenet. Nhóm các phương tiện quảng cáo in ấn: Quảng cáo trên báo chí, quảng cáo trên tạp chí, quảng cáo trên catalogue, tờ rơi, … Nhóm các phương tiện quảng cáo ngoài trời: Pano quảng cáo, biển quảng cáo điện tử, hộp đèn quảng cáo. Nhóm các phương tiện quảng cáo di động: Quảng cáo trên mũ, áo phông, xe buýt,… có gắn logo của doanh nghiệp. Nhóm các phương tiện quảng cáo khác: quảng cáo bằng các sự kiện,… 1.3: Vai trò và ý nghĩa của quảng cáo: Trong thế giới kinh doanh cạnh tranh ngày càng khốc liệt quảng cáo đang và sẽ vẫn là vũ khí đắc lực trong hoạt động Mar – Mix. Quảng cáo trên truyền hình: Quảng cáo trên truyền hình là một loại hình quảng cáo khá phổ biến được sử dụng từ những năm 50 của thế kỷ XX. Quảng cáo trên truyền hình là một phương pháp truyền thông tin từ người thuê quảng cáo qua các phương tiện truyền hình đến nhiều người. 2.1: Các chức năng cơ bản của quảng cáo Như tất cả mọi hình thức quảng cáo khác, quảng cáo trên truyền hình cũng bao gồm các chức năng: Đặc trưng hóa sản phẩm: Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, doanh nghiệp nào cũng luôn luôn cố gắng tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm của mình qua quảng cáo. Bên cạnh đó, ngoài việc hoạt động quảng cáo nhằm thu hút sự chú ý của người tiêu dùng đối với sản phẩm của doanh nghiệp thì qua hoạt động quảng cáo doanh nghiệp còn muốn nâng cao hình ảnh, uy tín của mình trong tâm trí của khách hàng cũng như khách hàng mục tiêu. Đặc trưng hóa sản phẩm dẫn đến đặc trưng hóa nhãn hiệ, tên tuổi của doanh nghiệp trên thị trường là một trong những chức năng cơ bản của quảng cáo. Cung cấp thông tin về sản phẩm: Có thể cho rằng hoạt động quảng cáo là một công cụ hiệu quả nhất để thực hiện chức năng thông tin sản phẩm. Đối với một sản phẩm bắt đầu xuất hiện trên thị trường, việc cung cấp thông tin chính xác về sản phẩm là vô cùng cần thiết. Việc tuyên truyền các thông tin về sản phẩm thông qua hoạt động quảng cáo còn lôi kéo một lượng khách hàng tiềm năng chưa sử dụng sản phẩm, hoặc đang sử dụng sản phẩm của đối thủ cạnh tranh chuyển sang sử dụng sản phẩm của công ty. Hướng dẫn sử dụng sản phẩm: Đối với một số sản phẩm có tính năng tương đối phức tạp, hoặc cần có một số hiểu biết nhất định mới sử dụng được sản phẩm thì hoạt động quảng cáo là một sự lựa chọn tốt nhất để tiếp xúc với lượng lớn người tiêu dùng trong thời gian ngắn nhất. Với việc hướng dẫn cách sử dụng cho khách hàng hoạt động quảng cáo nhằm tạo cho khách hàng sự an tâm khi sử dụng sản phẩm của công ty. Ví dụ trong chương trình “ Sự lựa chọn hoàn hảo” các nhà làm quảng cáo đã thông tin rất rõ về việc sử dụng sản phẩm như thế nào, tính năng công dụng của từng sản phẩm. Mở rộng mạng lưới phân phối: Bằng việc thực hiện các chương trình quảng cáo, doanh thu từ việc bán hàng sẽ tăng lên thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng hơn nữa số lượng các nhà phân phối, các đại lý, các nhà bán buôn bán lẻ để đáp ứng được tốt nhất nhu cầu của khách hàng. 2.2: Các nhân tố ảnh hưởng đến quảng cáo trên truyền hình : Nhân tố kinh tế xã hội. Hoạt động quảng cáo trên truyền hình được xem như là một phần của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nên nó chịu ảnh hưởng khá sâu sắc bởi yếu tố kinh tế xã hội. Ở môi trường kinh tế xã hội khác nhau, chiến lược quảng cáo trên truyền hình được tiến hành khác nhau cho từng nhóm hàng, từng nhóm sản phẩm khác nhau. Nhân tố kinh tế xã hội thể hiện ở các yếu tố: mức thu nhập bình quân cá nhân, mức thu nhập của hộ gia đình, sự phân bố dân cư, trình độ học vấn của người tiêu dùng… Vấn đề văn hóa, tôn giáo. Do các dân tộc khác nhau có nền văn hóa, tôn giáo khác nhau nên khi triển khai một chương trình quảng cáo thì doanh nghiệp phải tính đến yếu tố văn hóa tôn giáo. Có thể, chương trình quảng cáo của doanh nghiệp áp dụng ở nước này đối với dân tộc này là thành công nhưng đối với nước khác, dân tộc khác lại là một quảng cáo vô duyên ngớ ngẩn và rất có thể sẽ thất bại không ngờ đến. Trình độ kỹ thuật. Trình độ kỹ thuật giúp cho doanh nghiệp có thể thực hiện nhiều sáng tạo cho quảng cáo trên truyền hình nhằm thu hút sự chú ý của khan giả. Tuy nhiên do trình độ kỹ thuật ở các nước khác nhau nên có thể hiệu quả quảng cáo ở các nước sẽ rất khác nhau. Đặc tính của sản phẩm. Các nhóm sản phẩm khác nhau tất nhiên sẽ có các đặc tính riêng khác nhau. Đối với các sản phẩm tiêu dùng hàng ngày mà cần sử dụng nhiều lần sẽ được quảng cáo nhiều lần hơn so với các sản phẩm chỉ mang tính chất thời vụ. Chi phí, giá thành. Chi phí giá thành luôn là yếu tố mà doanh nghiệp cần quan tâm khi tiến hành bất cứ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Mục tiêu cuối cùng của tất cả các doanh nghiệp khi tiến hành một hoạt động sản xuất kinh doanh nào là đều tính đến việc tối đa hóa lợi nhuận. Do đó, doanh nghiệp luôn muốn đạt hiệu quả tốt nhất khi đầu tư vào hoạt động quảng cáo cho doanh nghiệp. Có rất nhiều doanh nghiệp thấy rằng quảng cáo trên truyền hình là rất quan trọng, rất hiệu quả nhưng lại không đủ chi phí để đáp ứng khoản phí mà đài truyền hình thu khi muốn có một chương trình quảng cáo, hoặc khoản tiền thu được khi tiến hành quảng cáo trên truyền hình lại không đủ bù đắp cho chi phí quảng cáo và chi phí khác. Do đó, có thể nói chi phí và giá thành có ảnh hưởng rất mạnh đến hoạt động quảng cáo trên truyền hình. 2.3: Đối tượng của quảng cáo trên truyền hình: Bên thuê quảng cáo trên truyền hình: Là các cá nhân hay tổ chức tìm cách bán sản phẩm của mình hoặc ít ảnh hưởng đến khách hàng thông qua hoạt động quảng cáo trên truyền hình. Công ty quảng cáo: Là một tổ chức độc lập chuyên hoạch định, phát triển và thực hiện chiến dịch quảng cáo nói chung và chiên sdichj quảng cáo trên truyền hình nói riêng thay mặt cho bên thuê quảng cáo. Các đài truyền hình: Là kênh thông tin mà qua đó thông điệp cần được quảng cáo sẽ tiếp cận đến đối tượng mà bên thuê quảng cáo cần nhằm tới. Các dịch vụ hỗ trợ: Là các cá nhân hay tổ chức tham gia trong quá trình sản xuất mẫu quảng cáo trên truyền hình. Các dịch vụ này có thể độc lập hoặc là một bộ phận trong công ty quảng cáo. 2.4: Các hình thức quảng cáo trên truyền hình: - Bảo trợ: Là hành động một doanh nghiệp bỏ chi phí ra để tiến hành sản xuất hoặc mua phát một hay nhiều chương trình có bản quyền nào đó trên truyền hình. Ví dụ như bảo trợ các chương trình phim truyện có bản quyền hoặc tiến hành bảo trợ các chương trình giải trí. - Tự giới thiệu: Là hành động doanh nghiệp mời phóng viên của đài truyền hình đến quay và giới thiệu về hoạt động và sản phẩm của doanh nghiệp mình như một đoạn phóng sự ngắn. - Mua Spot: Mỗi spot có thời gian bằng với thời gian một phim quảng cáo dao động trong khoảng 15 – 30 giây. 2.5: Ưu điểm của quảng cáo trên truyền hình: Quảng cáo trên truyền hình có phạm vi truyền thông tin quảng cáo rộng, khả năng tiếp cận được thị trường lớn. Có thể nhận thấy rằng, truyền hình là thuộc về mọi người, truyền hình hầu như không có tính chọn lọc khan giả như những phương tiện truyền thông khác như trên báo, tạp chí – phương tiện truyền thông cho mà những người có thu nhập ổn định có thể tiếp cận. Và quảng cáo trên truyền hình chiếm được lượng khán giả theo dõi nhiều nhất trong số các phương tiện truyền thông khác. Quảng cáo trên truyền hình tạo sức hút mạnh mẽ nhất trong số các loại phương tiện truyền thông do quảng cáo trên truyền hình là sự kết hợp giữa hình ảnh của quảng cáo ấn phẩm và quảng cáo ngoài trời, âm thanh của quảng cáo trên radio, cử động, các kỹ xảo truyền hình, do đó tạo sự chú ý, cuốn hút, kích thích trí tò mò của người xem để đạt được mục tiêu quảng cáo. Các mẫu quảng cáo trên truyền hình có thể dễ dàng chuyển sang các phương tiện truyền thông khác. Chẳng hạn quảng cáo trên truyền hình có thể dễ dàng chuyển các hình ảnh sang pano, báo hoặc âm thanh quảng cáo trên truyền hình có thể chuyển sang quảng cáo trên radio dễ dàng. Truyền hình là một phương tiện quảng cáo để giao lưu văn hóa giữa các quốc gia. Do đó các mẫu quảng cáo ở nước này có thể sử dụng để mang sang nước khác để quảng cáo. Khái quát chung về hoạt động quảng cáo trên truyền hình tại Việt Nam.  Đài truyền hình Việt Nam luôn dẫn đầu trong lĩnh vực truyền thông và quảng cáo truyền Khi đời sống ngày càng phát triển, thì nhu cầu về thông tin giải trí ngày càng lớn. Theo số liệu thống kê ở Tayor Nelson Sofres Việt Nam, thì hiện có khoảng gần 90% số hộ gia đình có sở hữu ít nhất một chiếc ti vi. Nếu đem so sánh tỷ lệ này của nước ta so với các nước trong khu vực thì có thể nói là cao thậm chí còn vượt cả Trung Quốc ( tỷ lệ sở hữu Tivi ở Trung Quốc chỉ vào khoảng 75% ). Các hộ gia đình có mức thu nhập trung bình thường xem các chương trình truyền hình nhiều hơn các gia đình có thu nhập cao hoặc thấp hoặc tương đối thấp. Theo số liệu của công ty nghiên cứu thị trường TNS, trong năm 2007, lần đầu tiên số lượng người xem truyền hình cáp vượt qua sô lượng khán giả của các kênh truyền hình miễn phí tại bốn thành phố lớn ở Việt Nam là: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Cần Thơ. Tổng lượng thời gian xem các kênh truyền hình miễn phí cũng đang giảm dần xuống trên phạm vi cả nước, trong khi đó con số này ở các kênh truyền hình cáp lại không ngừng tăng lên. Từ năm 2000 trở lại đây, đã có nhiều chiến dịch quảng cáo trên truyền hình khác nhau được tung ra để khẳng định các nhãn hiệu cũng như thương hiệu của các doanh nghiệp. Bằng việc xuất hiện nhiều lần trên truyền hình mà tên của một số nhãn hiệu đã được người tiêu dùng sử dụng để thay thế cho tên một mặt hàng nào đó. Nhãn hiệu bột giặt Omo được Unilever cho xuất hiện trên truyền hình với số lần phát sóng nhiều nhất trong 5 năm trở lại đây với hơn 3000 lần, và nhãn hiệu khác của Unilever là dầu gội đầu Sunsilk cũng được xuất hiện với số lần trên 2000 lần. Trong năm 2000, nhãn hiệu dầu gội đầu Clear của Unilever Việt Nam đứng sô 1 về quảng cáo trên truyền hình. Số lần quảng cáo trên truyền hình của nhãn hiệu này trong năm 2000 là 2010 vượt xa nhãn hiệu kem đánh răng P/s với 1609 lần phát sóng. Bảng 1: Các nhãn hiệu được xuất hiện nhiều nhất trên truyền hình năm 2003. Nhãn hiệu Chi phí quảng cáo trên truyền hình năm 2003 (1000USD) Số lần xuất hiện trên truyền hình. Bia Tiger 1197 1803 Nước mềm vải Comfort 849 1602 Nước tăng lực Number 1 368 1585 Bột giặt Viso 616 1084 Toshiba 572 952 Nguồn:Tổng hợp số liệu của Tayor Nelson Sofres Việt Nam, 6 tháng đầu năm 2003. Năm 2006 được coi là một năm thành công của quảng cáo trên truyền hình tại Việt Nam, nhiều mẫu quảng cáo với ý tưởng đẹp đã thành công, điển hình như “Cười lên Việt Nam ơi” của P/s, Vinaphone với “Không ngừng vươn xa”, Mobiphone với “ Mọi lúc, mọi nơi”,… Về các chương trình quảng cáo nổi bật trong một số năm hiện nay trước hết phải kể đến quảng cáo của nhãn bia Heineken. Bền bỉ và sáng tạo các chương trình quảng cáo của Heineken hầu như loại bỏ đi những lời thuyết minh, tập trung đưa ra những hình ảnh hấp dẫn và luôn kết thúc với hình ảnh một chai bia Heineken bên cạnh là dòng chữ “Chỉ có thể là Heineken” đã gây được ấn tượng tốt với người tiêu dùng Việt Nam, đăc biệt với giới trẻ Việt Nam. Bên cạnh những mặt tốt đạt được của quảng cáo trên truyền hình: quảng cóa gây ấn tượng sâu sắc,có chất lượng thì vẫn còn một số bất cập. Đó là hiện tượng quảng cáo phóng đại, lừa bịp, gây nhầm lẫn, bực bội cho người xem. Không những thế quảng cáo trong thời gian 3 năm trở lại đây còn có phần vô duyên, lố bịch. Bạn đang xem một chương trình yêu thích, đột nhiên dòng chữ hiện ra, đoạn phim quảng cáo bắt đầu với hình ảnh một cô gái đưa cái nhíp cho người yêu rồi nói: “Anh ơi giúp em với!” và phần kết của quảng cáo là một loại kem tẩy lông nào đó. Chưa dừng lại ở đó, khi chuyển sang kênh khác bạn lại nghe thấy : “Nam thận bảo. bổ thận nam. Một người khỏe, hai người vui”. Hoặc trong một lúc bnaj đnag thưởng thức ngon miệng bữa cơm cùng gia đình loạt hình ảnh quảng cáo về thuốc đăc trị bệnh trĩ, hay nước vệ sinh bồn cầu làm nghẹn miếng cơm của bạn. đây là tình trạng xảy ra không chỉ ngày một ngày hai mà nó đã và vân còn đang tiếp tục trở thành một đề tài mà người ta đề cập hàng ngày, đó là sự vô duyên của quảng cáo. Đánh giá trên của TNS Vietnam, một doanh nghiệp chuyên về lĩnh vực nghiên cứu thị trường, được công bố chiều ngày 28/10/2010, tại TP.HCM.  Truyền hình vẫn là kênh quảng cáo truyền thống đối với doanh nghiệp Việt Nam. Chi phí trong hầu hết các ngành hàng tiêu dùng tiếp tục tăng, nhưng sự tăng trưởng đã giảm từ 15% đến 50% so với 2008. Người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu, song các doanh nghiệp lại tăng cường quảng cáo nhằm gia tăng thị phần.  Nghiên cứu của TNS Vietnam cho thấy, tổng chi phí quảng cáo cho đến thời điểm này tăng 23% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó truyền hình tăng khoảng 26% và trên báo tăng 12%... Góp vào sự tăng trưởng này đứng đầu là ngành hàng nước giải khát, tiếp đến là viễn thông, thực phẩm, chăm sóc sắc đẹp… Trong khi truyền hình vẫn là kênh hút quảng cáo hàng đầu với 75%, thì internet là kênh hút quảng cáo “lẹt đẹt” nhất với tỷ lệ 0,4%. Ngoài ra, hiện đang có một hiện tượng không được hay lắm trên đài truyền hình Việt Nam, đó là phim nào trở nên “hot” được nhiều người quan tâm là y như rằng quảng cáo lũ lượt kéo tới. Mỗi tập phim chỉ khoảng 45 phút mà quảng cáo chiếm thời gian lấy gần một nửa khiến mạch phim bị đứt đoạn liên tục, khán giả mới xem được bộ phim chưa đến 15 phút thì đã lại chen ngang quảng cáo tầm 7–8phút. Nhất là những lúc phim đang đến hồi gay cấn, nhà đài lại cắt đi chen ngang quảng cáo. Nhằm mang lại hiệu quả tối đa cho việc quảng bá thương hiệu, các doanh nghiệp đang đổ xô vào mua quảng cáo đặc biệt trên các phim truyền hình. Và với những bộ phim có lượng người xem (rating) cao, quảng cáo luôn được lồng ghép khá nhiều vào thời gian phát sóng. Những đài lớn như Truyền hình Việt Nam VTV, Truyền hình Hà Nội, Truyền hình TP HCM... đạt doanh thu quảng cáo cao ngất ngưởng. Trước đây thời lượng quảng cáo của VTV phân bố rộng khắp nhưng nay được chọn lọc dồn vào những giờ nhất định, tập trung nhất là vào giờ vàng trên kênh VTV1 và VTV3. PHẦN II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THÁI ĐỘ NGƯỜI TIÊU DÙNG HÀ NỘI VỚI THỰC TRẠNG QUẢNG CÁO TRÊN TRUYỀN HÌNH. Các phương pháp nghiên cứu trong đề tài, cấu trúc bảng hỏi. Sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tìm kiếm thông tin trên báo, Internet. Phương pháp phỏng nhóm tập trung: Tiến hành nghiên cứu định tính. Tiến hành điều tra với 01 nhóm gồm 06 người, theo tiêu thức: + Giới tính: nữ. + Độ tuổi: 20 – 40 tuổi. + Đặc điểm: là những người nội trợ thường xuyên xem các chương trình truyền hình. + Thời gian: ngày 11 tháng 03 năm 2010, thời gian phỏng vấn: 30 phút. Thảo luận với mục đích kiểm tra lại tính hợp lý của các thông tin thu được sau điều tra định lượng; thu thập thêm một số thông tin khó điều tra. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: thiết kế bảng hỏi, phát phiếu điều tra, thống kê, xử lý dữ liệu. Tiến hành nghiên cứu định lượng. Số liệu thu thập được sẽ được làm sạch mã hóa. Số liệu thu thập được sẽ được phân tích sử dụng các phương pháp phân tích nhân tố hoặc phân tích độ tin cậy để nhóm các biến; các chỉ tiêu tần số và số bình quân để đánh giá chung về nhận thức, thái độ của người tiêu dùng; sử dụng bảng chéo và so sánh số bình quân sẽ được sử dụng để xem xét sự khác nhau trong thái độ và hành vi của những nhóm người tiêu dùng khác nhau đối với quảng cáo trên truyền hình. Số liệu được phân tích xong sẽ được trình bày dưới dạng bảng số liệu và đồ thị. Điều tra khách hàng được tiến hành bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp sử dụng phiếu điều tra. Bảng hỏi trong cuộc điều tra này gồm 2 phần: Phần 1: thông tin cá nhân của người tham gia trả lời: Họ và tên; Tuổi; Giới tính; Nghề nghiệp; Địa chỉ liên lạc. Phần 2: Phần nội dung gồm 2 mục lớn: Mục 1 là hỏi về các thói quen của người tiêu dùng; Mục 2 là hỏi về thái độ của người tiêu dùng về quảng cáo trên truyền hình. Đối tượng phỏng vấn được gạn lọc là những người đang hoặc đã từng thường xuyên xem các chương trình của đài truyền hình Việt Nam. Địa bàn nghiên cứu: Thành phố Hà Nội. Mẫu nghiên cứu gồm 40 người, với 13 người hiện đang là học sinh sinh viên, 16 người là người hiện đang đi làm, 11 người đang làm công việc nội trợ ở nhà hoặc đã về hưu. Thời điểm tiến hành điều tra: 26/02/2010 đến 07/03/2010. Vài nét về người tiêu dùng tại Hà Nội. Hà Nội là nơi hội tụ và đỉnh cao của nền văn hóa dân tộc, nên vùng đất và con người Thăng Long cũng là nơi có tinh thần ham học và quý trọng tri thức. Trong số lượng khán giả xem truyền hình thì phần lớn là nữ giới chiếm khoảng 54 – 58 %, người xem truyền hình là nam giới chiếm khoảng 42 – 46 %. Nếu xét về độ tuổi xem truyền hình thì độ tuổi từ 35 đến 49 tuổi chiếm tỷ kệ cao nhất cới mức 24 % trong khi đó số lượng người xem ở độ tuổi trên 50 tuổi chiếm tỷ lệ thấp nhất ở mức 18%. Còn các độ tuổi từ 15 đến 34 có mức độ xem tương đối hơn so với các nhóm tuổi khác chiếm 40% lượng khán giả theo dõi các chương trình truyền hình ( tuổi từ 15 – 24 chiếm 20
Tài liệu liên quan