Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Việt Nam luôn coi trọng quan hệ đối ngoại với các nước trong khu vực bởi tính chất địa-chính trị của nó, đồng thời vì đó cũng là cơ hội để ta bắc cầu vào hội nhập thế giới. Vì vậy, quan hệ với ASEAN luôn là một vấn đề quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam ta.
Năm 2010 vừa qua là một cột mốc đáng ghi nhớ, đánh dấu 15 năm Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN, đồng thời cũng là năm Việt Nam chính thức đảm nhận cương vị Chủ tịch ASEAN. Trong chặng đường 15 năm đó, Việt Nam đã hội nhập mạnh mẽ và đã có nhiều đóng góp quan trọng tạo nên sự trỗi dậy mạnh mẽ của ASEAN trong bối cảnh thế giới với đầy những biến động phức tạp. Tuy nhiên, trước khi đạt được những thành tựu ấy, mối quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN đã phải trải qua không ít những thăng trầm, sóng gió.
Bài tiểu luận này chúng tôi sẽ đi sâu vào những chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước ASEAN trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1986. Năm 1986 được đưa ra, bởi đó là năm đánh dấu bước ngoặt của của đối ngoại Việt Nam-năm đổi mới. Là năm Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới toàn diện cả đối nội lẫn đối ngoại, mở cửa, hội nhập với thế giới, được thể hiện ở Đại hội Đảng VI (12-1986). Chính vì như vậy mà Việt Nam đã chủ động đẩy mạnh quan hệ với các nước trong khu vực và thế giới, tham gia các tổ chức quốc tế, khu vực đặc biệt là ASEAN. Vì vậy có thể nhìn nhận giai đoạn từ 1975-1986 là giai đoạn từ khi Việt Nam thống nhất cho tới khi có những đổi mới tư duy về quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại.
16 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3726 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những bước chuyển biến trong chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước Asean trước và sau sự kiện Campuchia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO
BỘ MÔN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
-----------------
TIỂU LUẬN
NHỮNG BƯỚC CHUYỂN BIẾN TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC ASEAN
TRƯỚC VÀ SAU SỰ KIỆN CAMPUCHIA
Nhóm thực hiện : Nhóm 6 Lớp CT36D
Nhóm trưởng : Nguyễn Anh Quang
Hà Nội ngày 17 tháng 3 năm 2011
MỤC LỤC
A. LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................2
B. NỘI DUNG
I. Giai đoạn 1975 - 1979
1. Bối cảnh .........................................................................................................4
a. Tình hình thế giới ...............................................................................4
b. Tình hình trong nước .........................................................................4
2. Chính sách của Việt Nam .............................................................................5
3. Đánh giá .........................................................................................................6
II. Giai đoạn 1979 - 1986
1. Bối cảnh .........................................................................................................6
2. Chính sách của Việt Nam ............................................................................8
3. Đánh giá ........................................................................................................9
III. So sánh Chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước ASEAN trong hai giai đoạn trên .......................................................................................................9
IV. Trả lời câu hỏi mở rộng .....................................................................................11
1. Ngoài nước ..................................................................................................11
2. Trong nước ..................................................................................................12
a. Ý thức hệ ...........................................................................................12
b. Cơ sở hạ tầng ....................................................................................13
C. KẾT LUẬN ...........................................................................................................14
Đánh giá tinh thần tham gia của các thanh viên nhóm
Tài liều tham khảo
LỜI MỞ ĐẦU
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Việt Nam luôn coi trọng quan hệ đối ngoại với các nước trong khu vực bởi tính chất địa-chính trị của nó, đồng thời vì đó cũng là cơ hội để ta bắc cầu vào hội nhập thế giới. Vì vậy, quan hệ với ASEAN luôn là một vấn đề quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam ta.
Năm 2010 vừa qua là một cột mốc đáng ghi nhớ, đánh dấu 15 năm Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN, đồng thời cũng là năm Việt Nam chính thức đảm nhận cương vị Chủ tịch ASEAN. Trong chặng đường 15 năm đó, Việt Nam đã hội nhập mạnh mẽ và đã có nhiều đóng góp quan trọng tạo nên sự trỗi dậy mạnh mẽ của ASEAN trong bối cảnh thế giới với đầy những biến động phức tạp. Tuy nhiên, trước khi đạt được những thành tựu ấy, mối quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN đã phải trải qua không ít những thăng trầm, sóng gió.
Bài tiểu luận này chúng tôi sẽ đi sâu vào những chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước ASEAN trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1986. Năm 1986 được đưa ra, bởi đó là năm đánh dấu bước ngoặt của của đối ngoại Việt Nam-năm đổi mới. Là năm Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới toàn diện cả đối nội lẫn đối ngoại, mở cửa, hội nhập với thế giới, được thể hiện ở Đại hội Đảng VI (12-1986). Chính vì như vậy mà Việt Nam đã chủ động đẩy mạnh quan hệ với các nước trong khu vực và thế giới, tham gia các tổ chức quốc tế, khu vực đặc biệt là ASEAN. Vì vậy có thể nhìn nhận giai đoạn từ 1975-1986 là giai đoạn từ khi Việt Nam thống nhất cho tới khi có những đổi mới tư duy về quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại.
Để phân tích, xem xét cụ thể hơn nữa những chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN từ 1975-1986, chúng tôi xin chia giai đoạn này thành 2 giai đoạn nhỏ, lấy năm 1979 làm cột mốc:
1975 - 1979: Mở rộng quan hệ
1979 - 1986: Đấu tranh chống bao vây, cô lập.
Năm 1979 có thể coi là mốc quan trong quan hệ Việt Nam – ASEAN bởi đây là năm diễn ra nhiều biến động trong quan hệ đối ngoại của Việt nam.Việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia khiến cho quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN giai đoạn này trở nên lạnh nhạt, đối đầu. ASEAN cho rằng Việt Nam đưa quân vào Capuchia là hành động xâm lược, và cùng nhiều nước khác tham gia vào chính sách bao vây, cô lập Việt Nam. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến những khó khăn thách thức trong quá trình gia nhập ASEAN của Việt Nam.
Việc phân chia giai đoạn 1975-1986 dựa trên sự kiện Campuchia1979 như trên nhằm trả lời rõ hơn cho câu hỏi lớn mà chúng tôi đưa ra cho bài tiểu luận:
“ Những bước chuyển biến trong chính sách đối ngoại Việt Nam với các nước ASEAN trước và sau sự kiện Campuchia”.
Mở rộng hơn nữa, trong quá trình nghiên cứu, có một vấn đề chúng tôi luôn đặt câu hỏi, đó là, ngay từ những năm đầu sau thống nhất 1975, Việt Nam luôn có những chính sách mở rộng quan hệ với các nước ASEAN. Nhưng trong hơn 10 năm từ 1975 đến 1986, vẫn chưa thể gia nhập vào tổ chức này, nguyên nhân tại sao? Phải chăng có những nhân tố tác động đến chính sách đối ngoại của ta vào giai đoạn này, dẫn đến những hạn chế, làm chậm bước tiến hội nhập khu vực của Việt Nam?
NỘI DUNG
I. Giai đoạn 1975-1978
1. Bối cảnh
Sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ mùa xuân năm 1975, một trang mới trong lịch sử dân tộc được mở ra, hòa bình được lập lại trên toàn vẹn lãnh thổ. Cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống lại kẻ thù mạnh nhất lúc đó - Đế quốc Mỹ. Với thắng lợi của Việt Nam và các nước Đông Dương, có thể nói hệ thống xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới đã không ngừng được mở rộng, phong trào cách mạng thế giới phát triển ngày càng mạnh mẽ.
a. Tình hình thế giới
Việc Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á lục địa đã khiến cho nền chính trị thế giới bước vào thời kỳ "sau Việt Nam". Cục diện quan hệ giữa các nước lớn cũng diễn biến phức tạp. Nước Mỹ suy giảm thế và lực, khủng hoảng toàn diện về chính trị, kinh tế, xã hội. Trong khi đó, Tây Âu và Nhật Bản vươn lên, trở thành các trung tâm kinh tế thế giới cạnh tranh với Mỹ, các khối quân sự trở nên lỏng lẻo hoặc tan rã ( SEATO). Xu hướng độc lập với Mỹ trong thế giới phương Tây không ngừng tăng lên.
Năm 1975, Liên Xô thúc đẩy ký Định ước Helsinki, kết thúc 30 năm đối đầu ở châu Âu. Liên Xô cũng tăng cường mở rộng ảnh hưởng đến Mỹ Lantinh, châu Á, châu Phi, đặc biệt là ở các nước thuộc khối thuộc địa của Bồ Đào Nha mới giành được độc lập và bắt đầu quan tâm nhiều hơn tới Đông Nam Á, châu Á – Thái Bình Dương.
Trên mặt trận quốc tế lúc này, xu thế hòa hoãn đang thay thế dần xu thế đối đầu.
b. Tình hình trong nước
Tranh thủ tình hình quốc tế thuận lợi với Việt Nam sau chiến tranh, Đảng và nhà nước đã mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác kinh tế với nước ngoài nhằm thu hút vốn, thiết bị kỹ thuật phục vụ công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng lại đất nước. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một số thành tựu quan trọng .
2. Chính sách của Việt Nam
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12-1976), Đảng ta xác định nhiệm vụ đối ngoại là “ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học kỹ thuật, củng cố quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia; sẵn sàng thiết lập, phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Nhìn lại quá khứ, vào những năm 1960 khi cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam đang ở cao trào và có sự tham gia (trực tiếp hay gián tiếp) của một số nước ASEAN, hai bên hầu như không có quan hệ với nhau (trừ mối quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Indonesia). Cho tới những năm 1970, quan hệ Việt Nam - ASEAN đã dần được thiết lập và phát triển cùng với thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.
Ngày 27/11/1971 các nước ASEAN ra tuyên bố ở Kuala Lumpur thành lập "một khu vực hòa bình, tự do và trung lập ở Đông Nam Á" (ZOPFAN). Tiếp đó, ngày 24/2/1976, các nước ASEAN đã ký kết "Hiệp ước thân thiện và hợp tác" ở Bali với mục tiêu là xây dựng những mối quan hệ hòa bình, thân thiên và hợp tác giữa các nước trong khu vực, tạo nên "một cộng đồng Đông Nam Á hùng mạnh" trên cơ sở tự cường khu vực. Hiệp ước này có điều khoản để ngỏ cửa cho các nước khác ở Đông Nam Á tham gia. (Hồ Sỹ Khoách Quan hệ Việt Nam - ASEAN chuyển sang đối thoại, hợp tác và hội nhập để phát triển - Tập san KHXH nhân văn số 4/1997)
Ngày 5/7/1976, để từng bước xóa tan mối lo ngại từ phía các nước ASEAN, trả lời phỏng vấn Thông tấn xã Việt Nam, Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Duy Trinh đã công bố chính sách bốn điểm của nước ta đối với các nước Đông Nam Á, mà chủ yếu là các nước ASEAN. Nội dung bốn điểm đó là:
( Thiết lập quan hệ hữu nghị láng giềng thân thiện, hợp tác kinh tế, văn hoá toàn diện trên cơ sở công bằng và tôn trọng lẫn nhau;
( Nỗ lực phát triển hợp tác vì sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh theo điều kiện riêng của mỗi nước vì lợi ích độc lập dân tộc, hòa bình, trung lập thực sự ở ĐNÁ;
( Không để lãnh thổ nước mình cho bất kì nước ngoài nào sử dụng làm căn cứ xâm lược và can thiệp vào công cuộc nội bộ và hợp tác khu vực Đông Nam Á;
( Nguyên tắc quan trong nhất là tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi và chung sống hoà bình.
Có thể nói, tuyên bố bốn điểm của Việt Nam đã được các nước ASEAN hoan nghênh, vì nó phù hợp với các nguyên tắc của Hiệp ước Bali. Nó đã thể hiện lòng mong muốn của Việt Nam là hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á trong cùng tồn tại hòa bình và vì một Đông Nam Á hòa bình, trung lập thực sự, không có căn cứ quân sự và quân đội của nước ngoài.
Sau khi công bố chính sách bốn điểm này, Việt Nam nhanh chóng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Philippin ngày 12/7/1976, với Thái Lan ngày 6/8/1976. Nếu tính cả Indonesia đã có quan hệ ngoại giao với ta từ 1964, Malaysia và Singapore đã có quan hệ với ta từ năm 1973 sau khi Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết, thì ta đã có quan hệ ngoại giao với cả 5 nước ASEAN (khi đó chưa có Brunei). Các cuộc viếng thăm các nước ASEAN của Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh cuối năm 1976 và đầu năm 1977, của Thủ tướng Phạm Văn Đồng tháng 9 và tháng 10/1978 đã giúp các nước ASEAN hiểu rõ hơn chính sách hữu nghị và hợp tác của Việt Nam, làm tăng thêm hứa hẹn về tương lai quan hệ giữa các nước trong khu vực.
3. Đánh giá
Có thê thấy điểm nổi bật trong Chính sách đối ngoại với các nước ASEAN giai đoạn 1976-1979 là Chính sách Bốn điểm. Chính sách này đã thể hiện lòng mong muốn của Việt Nam là hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á trong cùng tồn tại hòa bình và vì một Đông Nam Á hòa bình, trung lập thực sự, không có căn cứ quân sự và quân đội của nước ngoài.
Cũng tranh thủ tình hình quốc tế thuận lợi đối với Việt Nam sau chiến tranh, Đảng và Nhà nước Việt Nam sau đó đã mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác kinh tế với nước ngoài.
Sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã hoàn thành, cả nước đã bắt đầu đi vào hàn gắn nhứng vết thương chiến tranh. Vì vậy trên mặt trận đối ngoại, ngoài việc tăng cường quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương tập trung mở rộng quan hệ với các nước láng giếng, các nước trong khu vực, đặc biệt là với các nước ASEAN. Việc bước đầu thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trong tổ chức ASEAN trong giai đoạn này sẽ tạo thuận lợi cho việc triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau nhằm xây dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hòa bình hữu nghị và hợp tác.
Tuy nhiên, giai đoạn này, những nỗ lực ngoại giao của chúng ta là chưa đủ. Bởi sự thật mặc dù đã bình thường hóa quan hệ với ta trên cở sở chính sách bốn điểm trên nhưng các nước ASEAN vẫn thật sự không yên tâm với ý đồ lâu dài của ta. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải kể đến các lực lượng đế quốc và phản động quốc tế đang mưu mô chia rẽ ta với thế giới.
II. Giai đoạn 1979 - 1985
Tuy nhiên, công cuộc xây dựng tiến hành chưa được bao lâu thì quan hệ giữa Việt Nam và các nước láng giềng có chung biên giới xuất hiện nhiều trắc trở và phát triển theo chiều hướng ngày càng phức tạp.
1. Bối cảnh
Từ 1975-1978, tin vào sự hậu thuẫn của chính quyền Trung Quốc, chính quyền Khmer Đỏ đã nhiều lần tấn công biên giới Tây Nam Việt Nam, tàn sát dân thường, đánh phá các cơ sở kinh tế và quân sự dọc biên giới với mục đích làm kiệt quệ đối phương. Những hành động này, cùng với làn sóng di tản của người Campuchia chạy trốn chính quyền Khmer Đỏ đã làm quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia đổ vỡ hoàn toàn. Sợ rằng Việt Nam sẽ có phản ứng về mặt quân sự, Pol Pot phát lệnh tấn công phủ đầu Việt Nam. Ngày 30/4/1977, quân Khmer đỏ đồng loạt mở các cuộc tấn công lớn vào 14 xã trên tuyến biên giới thuộc các tỉnh từ Tây Ninh đến Kiên Giang, thị xã Hà Tiên bị chiếm. Sau mọi cố gắng đề nghị thương lượng của Việt Nam bị bác bỏ, kể cả các đề nghị thông qua trung gian của Liên Hợp Quốc và Phong trào Không liên kết. Ngày 25/12/1978, bộ đội chủ lưc Việt Nam tổ chức phản công đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia, và tới ngày 7 tháng 1 năm 1979 họ đã tiến quân vào thủ đô Phnôm Pênh, chấm dứt sự thống trị của Khmer đỏ.
Phản ứng quốc tế cũng như trong khu vực đối với việc Việt Nam đưa quân vào Cam-pu-chia nói chung không thuận. Chỉ có Liên Xô, Lào và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu ra tuyên bố ủng hộ. Các thế lực thù địch thì lên án Việt Nam đưa quân vào Cam-pu-chia, đòi Việt Nam rút quân và tiến hành tập hợp lực lượng, thực hiện chính sách bao vây cấm vận nhằm làm suy yếu và tạo sức ép với Việt Nam. Còn các nước ASEAN lo ngại chiến tranh có thể lan rộng sang Thái Lan và có thể kéo họ vào cuộc xung đột khu vực; nên dẫn đến những căng thẳng và đối đầu trong quan hệ giữa các nước ASEAN và Việt Nam kéo dài hơn một thập kỷ về vấn đề Cam-pu-chia.
Việc Việt Nam nhanh chóng đánh bại Khmer Đỏ khiến Thái Lan lo ngại cuộc chiến sẽ lan rộng do Campuchia không còn là vùng đệm giữa Việt Nam và Thái Lan. Đặc biệt Thái Lan sợ rằng mình sẽ là quân bài Đô-mi-nô tiếp theo. Vì vậy, nước này đã đồng ý cho lực lượng đối lập Campuchia thiết lập căn cứ tại vùng biên giới để tạo thành một vùng đệm giữa Việt Nam và Thái Lan, đồng ý cung cấp các phương tiện giao thông vận tải phục vụ Khmer Đỏ và để các lãnh đạo Khmer Đỏ đi qua đất Thái Lan khi ra nước ngoài.
2. Chính sách của Viêt Nam
Trước tình hình khu vực diễn ra đặc biệt phức tạp và sau nhiều Hội nghị ngoại trưởng ba nước Đông Dương với ASEAN được diễn ra, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ V (1982) xác định nội dung chính trong chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước ASEAN: "Việt Nam chủ trương thiết lập những quan hệ láng giềng tốt với ASEAN, sẵn sàng cùng ASEAN xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định, kêu gọi đối thoại với ASEAN, thi hành chính sách tranh thủ và đấu tranh với ASEAN".
Với chủ trương, chính sách này của Đảng và Nhà nước, một loạt các biện pháp đã được triển khai để thúc đẩy đối thoại giữa ta với các nước ASEAN. Trước hết, vào tháng Giêng năm 1980, Hội nghị Ngoại trưởng ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia tỏ ý sẵn sàng đàm phán để kí kết Hiệp định song phương về không xâm lược với các nước Đông Nam Á và bàn về vấn đề xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, độc lập, tự do, trung lập, ổn định, phồn vinh. Những động thái tích cực từ phía các nước Đông Dương còn được thể hiện trong việc mong muốn tăng cường hợp tác kinh tế, văn hóa giữa hai nhóm nước này. Đặc biệt, ngày 28/9/1981, Lào đã thay mặt Đông Dương nêu tại Liên Hợp Quốc những nguyên tắc chỉ đạo mối quan hệ cùng tồn tại hòa bình giữa Đông dương và các nước Đông Nam Á vì khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác.
Về phía Việt Nam, bên cạnh việc kêu gọi đối thoại, chúng ta còn gắn việc yêu cầu Thái Lan phải chấm dứt viện trợ cho các nhà lãnh đạo của Khmer Đỏ, khẳng định chúng ta sẽ không đưa quân sang phía họ. Tại Hội nghị ngoại trưởng ba nước Đông Dương họp tháng Bảy năm 1982, Việt Nam và Campuchia đã tuyên bố việc Việt Nam rút một bộ phận quân tình nguyện ở Campuchi về nước. Song song với đó, chúng ta cũng luôn nêu rõ sự có mặt của quân đội Việt Nam ở Camphchia là theo yêu cầu của nước bạn và sẽ rút hết quân về nước khi an ninh nước này được đảm bảo. Từ thực tế trên chúng ta có thể thấy rõ chính sách của Việt Nam giai đoạn này là vừa tranh thủ vừa đấu tranh với các nước ASEAN.
3. Đánh giá
Giai đoạn 1979 - 1985 là giai đoạn quan hệ giữa Việt Nam với ASEAN ở trong tình trạng đối đầu căng thẳng, có nhiều khó khăn trở ngại mà nguyên nhân chính là vấn đề Campuchia. Mặc dù Việt Nam cũng như Lào và Campuchia đã có nhiều cố gắng để cải thiện tình hình, nhưng không được các ASEAN chấp nhận, họ cho rằng cần phải giải quyết vấn đề Campuchia trước rồi mới giải quyết vấn đề hòa bình, hợp tác khu vực. Quan điểm của cả hai bên còn khá xa nhau.
Có thể nói, tư tưởng coi Việt Nam là một nước cấu thành khu vực Đông Nam Á đã được đưa ra trong chính sách 4 điểm nổi tiếng của Chính phủ ta ngày 5/7/1976, tức là ngay sau khi nước ta hoàn toàn thống nhất, thể hiện những quan điểm đúng đắn của Việt Nam trong quan hệ với Đông Nam Á, trước hết là ASEAN. Nhưng rất tiếc trong một thời gian khá dài sau đó cho đến cuối thập kỉ 80, chúng ta đã quán triệt tư tưởng đó chưa sâu sắc. Đồng thời, chúng ta cũng đã chịu ảnh hưởng khá nhiều từ ý thức hệ. "Việt Nam đã xem ASEAN là một khối quân sự - chính trị trá hình được lập ra thay thế SEATO chống Việt Nam, Trung Quốc và các lực lượng cách mạng ở Đông Nam Á. Cách đánh giá võ đoán trên đã khiến nước ta không thấy được mặt tích cực trong chính sách đối ngoại của ASEAN, ngay từ khi tổ chức này được thành lập. Việc xem ASEAN là một tổ chức thân Mỹ hoàn toàn thù địch với ba nước Đông Dương đã làm cho hố ngăn cách giữa Việt Nam và các nước láng giềng Đông Nam Á ngày càng sâu, rộng thêm". Và kết quả là Việt Nam chúng ta vẫn chưa thể gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) này.
III. So sánh Chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước ASEAN trong hai giai đoạn trên
Giai đoạn 1975 - 1985, Ngoại giao Việt Nam ngoài việc đặt quan hệ hòa bình, hữu nghị với bạn bè quốc tế còn phải góp phần ngăn chặn thêm 2 cuộc chiến tranh mà trong đó có chiến tranh biên giới Tây Nam với Campuchia. Dù rằng đã sử dụng mọi biện pháp Ngoại giao đề nghị, thương lượng nhưng đối phương không hợp tác, dẫn đến chiến tranh. Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận được những nỗ lực đấu tranh Ngoại giao của Chính phủ Việt Nam. Dẫu vậy vấn đề Campuchia đã bị các lực lượng đế quốc và phản động quốc tế khai thác để bao vây, cấm vận về kinh tế và cô lập về chính trị nước ta trong thời gian khá dài sau này.
Chính sách đối ngoại của ta thời kỳ này đã thể hiện sự khóe léo, nhạy bén trước tình hình để đưa ra được những sách lược đúng đắn. Chính phủ đã tập trung hơn vào việc đặt quan hệ Ngoại giao, giúp phát triển các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, gìn giữ hòa bình thế giới sau ngày nước nhà được độc lập. Vấn đề phát triển kinh tế được chú tâm hàng đầu. Đại hội V đã xác định: Công tác đối ngoại phải ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế