Có nhiều khái niệm về Ngân hàng thương mại, các Ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò của nó đối với nền kinh tế. Nếu ta dựa trên việc cung cấp dịch vụ thì “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán- và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Sự đa dạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến việc chúng được gọi là các “Bách hoá tài chính” (financial departement stores). (“Quản trị Ngân hàng thương mại”- Peter S.Rose).
Hoặc dựa vào hoạt động chủ yếu của Ngân hàng, “Luật các tổ chức tín dụng” ghi “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Tóm lại, ta có thể hiểu Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt vì hoạt động kinh doanh của nó chủ yếu dựa trên một loại hàng hoá đặc biệt là tiền tệ. Ngân hàng thương mại là tổ chức hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng, cung cấp các dịch vụ ngân hàng thông qua việc nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán đối với những chủ thể kinh tế như các doanh nghiệp, chính phủ, dân cư
Xét về chức năng, NHTM không trực tiếp tham gia sản xuất và lưu thông hàng hoá như các doanh nghiệp thông thường mà nó thực hiện chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và dịch vụ tiền tệ, tư vấn tài chính cho khách hàng Ngân hàng kinh doanh chủ yếu không phải bằng vốn tự có mà bằng vốn của những người gửi tiền qua vai trò trung gian tín dụng, làm môi giới cho các nhà đầu tư và những người có tích luỹ. Do vậy NHTM đôi khi nắm trong tay một bộ phận lớn nhất của cải xã hội dưới dạng giá trị, không có quyền sở hữu nhưng có quyền sử dụng với những điều kiện ràng buộc. Và điều đó cũng đặt cho ngân hàng trách nhiệm vật chất đối với những chủ sở hữu thực sao cho sử dụng vốn đúng với điều kiện ràng buộc một cách hiệu quả nhất.
Về đặc điểm sản phẩm của ngân hàng, nếu các doanh nghiệp sản xuất sáng tạo ra hàng hoá hữu hình thì sản phẩm của NHTM lại mang tính phi vật chất và nguyên liệu chính là “tiền tệ”- loại nguyên liệu có tính xã hội hoá và tính nhạy cảm cao. Ngân hàng chỉ cung ứng sản phẩm dịch vụ của mình khi hợp đồng giao dịch thương mại, tín dụng hoặc nghĩa vụ tài chính nào đó phát sinh, vì vậy NHTM luôn bị động và phụ thuộc lớn vào khách hàng. Tính xã hội và tính nhạy cảm của tiền tệ được thể hiện qua lãi suất của ngân hàng buộc NHTM luôn luôn phải đối mặt với mức độ cạnh tranh gấp bội và những rủi ro liên quan đến quy luật biến động giá cả của tiền tệ. Thêm vào đó khó khăn trong việc tạo ra khác biệt hoá sản phẩm và dịch vụ ngân hàng khiến cho ngân hàng không tìm cách tối đa hoá lợi nhuận từ những hoạt động hiện có mà tìm “khả năng sinh lời từ quan hệ khách hàng”.
58 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những thực trạng chung trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những thực trạng chung trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.Khái quát về Ngân hàng thương mại 3
2. Nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại 4
3. Các hình thức của nghiệp vụ tín dụng tài trợ Xuất Nhập khẩu 8
CHƯƠNG 2: NHỮNG THỰC TRẠNG CHUNG TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Tổng quan về hoạt động XNK và TTQT tại Việt Nam 21
2. Thực trạng các hình thức tín dụng tài trợ XNK tại các NHTM Việt Nam 26
3. Những hạn chế trong quá trình thực hiện tín dụng XNK 44
CHƯƠNG 3:GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM
1. Định hướng hoạt động và một số dự báo về tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam trong thời gian tới. 48
2. Giải pháp đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu 50
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NHTM
Khái quát về Ngân hàng thương mại
Khái niệm
Có nhiều khái niệm về Ngân hàng thương mại, các Ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò của nó đối với nền kinh tế. Nếu ta dựa trên việc cung cấp dịch vụ thì “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán- và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Sự đa dạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến việc chúng được gọi là các “Bách hoá tài chính” (financial departement stores). (“Quản trị Ngân hàng thương mại”- Peter S.Rose).
Hoặc dựa vào hoạt động chủ yếu của Ngân hàng, “Luật các tổ chức tín dụng” ghi “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Tóm lại, ta có thể hiểu Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt vì hoạt động kinh doanh của nó chủ yếu dựa trên một loại hàng hoá đặc biệt là tiền tệ. Ngân hàng thương mại là tổ chức hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng, cung cấp các dịch vụ ngân hàng thông qua việc nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán đối với những chủ thể kinh tế như các doanh nghiệp, chính phủ, dân cư…
Xét về chức năng, NHTM không trực tiếp tham gia sản xuất và lưu thông hàng hoá như các doanh nghiệp thông thường mà nó thực hiện chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và dịch vụ tiền tệ, tư vấn tài chính cho khách hàng…Ngân hàng kinh doanh chủ yếu không phải bằng vốn tự có mà bằng vốn của những người gửi tiền qua vai trò trung gian tín dụng, làm môi giới cho các nhà đầu tư và những người có tích luỹ. Do vậy NHTM đôi khi nắm trong tay một bộ phận lớn nhất của cải xã hội dưới dạng giá trị, không có quyền sở hữu nhưng có quyền sử dụng với những điều kiện ràng buộc. Và điều đó cũng đặt cho ngân hàng trách nhiệm vật chất đối với những chủ sở hữu thực sao cho sử dụng vốn đúng với điều kiện ràng buộc một cách hiệu quả nhất.
Về đặc điểm sản phẩm của ngân hàng, nếu các doanh nghiệp sản xuất sáng tạo ra hàng hoá hữu hình thì sản phẩm của NHTM lại mang tính phi vật chất và nguyên liệu chính là “tiền tệ”- loại nguyên liệu có tính xã hội hoá và tính nhạy cảm cao. Ngân hàng chỉ cung ứng sản phẩm dịch vụ của mình khi hợp đồng giao dịch thương mại, tín dụng hoặc nghĩa vụ tài chính nào đó phát sinh, vì vậy NHTM luôn bị động và phụ thuộc lớn vào khách hàng. Tính xã hội và tính nhạy cảm của tiền tệ được thể hiện qua lãi suất của ngân hàng buộc NHTM luôn luôn phải đối mặt với mức độ cạnh tranh gấp bội và những rủi ro liên quan đến quy luật biến động giá cả của tiền tệ. Thêm vào đó khó khăn trong việc tạo ra khác biệt hoá sản phẩm và dịch vụ ngân hàng khiến cho ngân hàng không tìm cách tối đa hoá lợi nhuận từ những hoạt động hiện có mà tìm “khả năng sinh lời từ quan hệ khách hàng”.
2. Nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại
2.1 Tín dụng
Tín dụng là một hệ thống các quan hệ phân phối mang tính chất có hoàn trả giữa các chủ thể kinh tế.
Sự hoàn trả của quan hệ phân phối trong tín dụng là bắt buộc và không kèm theo bất cứ một điều kiện nào, vì vậy có thể gọi quan hệ phân phối trong tín dụng là quan hệ phân phối hoàn trả không điều kiện
2.2 Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế quốc dân
Xét về bản chất, tín dụng là một loại quan hệ phát sinh từ nhu cầu thực tế của con người, với người đang có một lượng vốn đang tạm thời nhàn rỗi thì nhu cầu nảy sinh sẽ là làm cho lượng vốn nhàn rỗi đó đem lại một lợi ích nào đó cho bản thân, còn đối với những người đang tạm thời thiếu vốn, họ sẵn sàng bỏ ra một khoản chi phí phụthêm để có được lượng vốn cần thiết phục vụ cho các nhu cầu của mình. Khi hai nhu cầu này gặp nhau thì tín dụng tự nhiên hình thành, vì vậy có thể nói tín dụng là một hiện tượng khách quan.
Có thể thấy tín dụng có một số vai trò như sau:
2.2.1 Tín dụng làm tăng tính linh hoạt của nền kinh tế
Với khả năng tập trung và tích tụ vốn vào dưới sự quản lý của các trung gian tài chính, tín dụng đã làm cho sản xuất kinh doanh trong xã hội có thể dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn cần thiết hơn, vì họ có thể dễ dàng tìm đến những nguồn vốn sẵn có mà nếu không có sự tồn tại của hệ thống trung gian tín dụng, họ sẽ mất nhiều chi phí tìm kiếm. Do đó tín dụng góp phần làm tăng quy mô sản xuất và lưu thong hàng hóa, từ đó góp phần làm cho nền kinh tế có được tính linh hoạt cao hơn.
2.2.2 Tín dụng tiết kiệm chi phí lưu thong và tăng tốc độ chu chuyển vốn
Vì tín dụng làm tích tụ vốn, đồng thời thực hiện việc chu chuyển vốn chủ yếu thong qua việc chuyển khoản chứ không dùng tiền mặt nên lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư sẽ giảm đi, từ đó chi phí bỏ ra trong việc tiêu dùng tiền mặt cũng sẽ giảm đi đáng kể. Đồng thời, khi thanh toán giữa các chủ thể kinh tế không thực hiện việc trao tiền tận tay mà là sự thanh toán qua chuyển khoản ngân hàng, đặc biệt là khi thực hiện thanh toán cho những hợp đồng mua bán quốc tế, tin dụng có thể giúp cho tốc độ chu chuyển vốn tăng lên đáng kể, giảm thiểu thời gian đọng vốn.
2.2.3 Các vai trò khác
Khi không dùng tới tiền mặt mà sử dụng vốn trong các tài khoản, tín dụng có thể làm mở rộng số nhân tiền trong nền kinh tế. Bên cạnh đó hiện tượng tiền mặt hóa nền kinh tế cũng sẽ được kiềm chế.
Tín dụng cũng hút được một lượng tiền nhàn rỗi lớn trong dân cư vào các quỹ tiết kiệm, lượng tiền này sẽ được sử dụng vào những mục đích sinh lợi, do đó cũng sẽ làm cho nền kinh tế phát triển hơn.
2.3 Tín dụng Xuất - Nhập khẩu
Thương mại quốc tế phát triển, nhu cầu về thị trường tiêu thụ hàng hoá, thị trường đầu tư là vấn đề cấp bách của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Do khả năng tài chính có hạn, không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ tiền để thanh toán hàng nhập khẩu hoặc mua hàng xuất khẩu, từ đó cần sự giúp đỡ tài trợ của ngân hàng và hình thành quan hệ vay mượn. Ngoài việc là chỗ dựa tài chính, ngân hàng còn có thể tư vấn cho các nhà hoạt động ngoại thương về kỹ thuật nghiệp vụ.
Hình thức đơn giản đầu tiên của nghiệp vụ tín dụng XNK là ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các đơn vị nhập khẩu như cho vay để bổ sung vốn lưu động thu mua chế biến sản xuất hàng xuất khẩu theo các hợp đồng đã được ký kết, cho vay để thanh toán các nguyên liệu, hàng hoá, vật tư nhập từ nước ngoài. Từ chủ yếu cho vay ngắn hạn, các ngân hàng mở rộng cho vay trung và dài hạn để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh XNK. Ngân hàng cho vay để mua sắm máy móc thiết bị, cải tiến công nghệ, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Ngân hàng còn cho vay gián tiếp tức là đứng ra bảo lãnh để vay vốn nước ngoài cho các doanh nghiệp XNK, nhờ đó doanh nghiệp có thể vay vốn mà không cần thế chấp hay cầm cố tài sản, bảo lãnh mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu, bảo lãnh hối phiếu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng…
Ngoài ra ngân hàng cũng thực hiện một số hình thức khác như chiết khấu hối phiếu, tín dụng bao thanh toán…
Cùng với sự phát triển của trình độ kỹ thuật nghiệp vụ và sự đa dạng của các phương thức thanh toán quốc tế, nghiệp vụ tín dụng XNK phát triển dưới nhiều hình thức ngày càng phong phú hơn, phục vụ tích cực và hiệu quả cho hoạt động XNK.
Tài trợ của NHTM về bản chất cũng là khoản tín dụng được cấp bởi ngân hàng. Trong nhiều trường hợp ngân hàng chỉ tham gia tài trợ với một số vốn có tỷ lệ nhất định trong tổng vốn cho dự án hoặc hợp đồng ngoại thương, phần vốn còn lại là vốn của doanh nghiệp.
Như vậy có thể khái quát lại: “Tín dụng xuất nhập khẩu” là những khoản tín dụng cấp cho các hoạt động thương mại liên quan tới việc mua bán và thanh toán hàng hoá, dịch vụ ở phạm vi quốc tế hoặc những hàng hoá, dịch vụ chịu thuế xuất nhập khẩu.
Khác với nghiệp vụ tín dụng thông thường của NHTM bao gồm hoạt động cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê…thì với hoạt động tín dụng XNK, NHTM cung cấp dựa theo các hình thức thanh toán quốc tế mà doanh nghiệp lựa chọn nhằm xác định và phân tích tính rủi ro của các khoản tín dụng đó.
3. Các hình thức của nghiệp vụ tín dụng tài trợ Xuất Nhập khẩu
Tín dụng XNK của NHTM gắn liền với nghiệp vụ thanh toán quốc tế được thực hiện qua 2 loại hình chủ yếu là tài trợ bằng cách cho vay và tài trợ bằng cách bảo lãnh.
Cho vay thanh toán bằng L/C
Phương thức thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) là một sự thoả thuận trong đó ngân hàng mở L/C đáp ứng những yêu cầu của khách hàng- người xin mở L/C cam kết hay cho phép một ngân hàng khác (ngân hàng ở nước xuất khẩu) chi trả hoặc chấp nhận những yêu cầu của người hưởng lợi theo đúng điều kiện và những chứng từ thanh toán phù hợp với L/C.
Phương thức thanh toán L/C hiện nay là phương thức thanh toán phổ biến trong thương mại quốc tế. Nội dung phương thức thanh toán L/C được quy định cụ thể trong Qui tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ UCP 500 do Phòng thương mại quốc tế ICC ban hành từ năm 1994, hiện nay phiên bản UCP 600 đã có hiệu lực từ ngày 1- 1- 2007.
(9) Chuyển tiền
(7) Đòi tiền
(3b) Thông báo về L/C
Ngân hàng mở L/C
Ngân hàng thông báo L/C
(10)
Thanh toán
(8)
Trả tiền
(6)
Gửi bộ chứng từ yêu cầu thanh toán
(4)
Thông báo
cho
nhà xuất khẩu
(3a)
Ngân hàng đồng ý mở L/C
(2)
Xin mở L/C
(5) Nhà XK giao hàng
Nhà nhập khẩu
Nhà xuất khẩu
(1) Hợp đồng thanh toán L/C
Sơ đồ thanh toán L/C
L/C trong thanh toán hàng nhập khẩu:
a) Mở L/C: đối với nhà nhập khẩu, mở L/C được xem là hình thức tài trợ của ngân hàng. Mọi thư tín dụng đều được mở theo đề nghị của nhà nhập khẩu. Khi ngân hàng đồng ý mở L/C cho nhà nhập khẩu có nghĩa là ngân hàng cam kết thanh toán cho người hưởng lợi L/C nếu có bộ chứng từ hợp lý. Ngân hàng sẽ chịu rủi ro nếu như nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán nhưng để đảm bảo uy tín của mình ngân hàng mở L/C phải thanh toán cho phía nước ngoài, điều này có nghĩa là ngân hàng mở L/C cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu.
b) Cho vay ký quỹ L/C: trong trường hợp khách hàng xin được bảo lãnh, khách hàng phải nộp một khoản tiền nhất định vào tài khoản tại ngân hàng và sẽ bị phong toả đến khi chấm dứt nghĩa vụ bảo lãnh, khoản tiền này được tính tỷ lệ với giá trị bảo lãnh, nếu thương vụ tiềm ẩn rủi ro cao hoặc khách hàng thiếu tin cậy thì có thể ký quỹ 100%.
Ký quỹ nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng trong quá trình bảo lãnh cho khách hàng. Trong trường hợp ngân hàng phải trả thay cho người được bảo lãnh, tiền ký quỹ sẽ được sử dụng trước để thanh toán cho người thụ hưởng bảo lãnh, phần còn lại ngân hàng mới dùng vốn của mình thanh toán sau.
Ký quỹ nhằm khẳng định khách hàng có năng lực nhất định về vốn và ràng buộc khách hàng làm tròn nghĩa vụ của người được bảo lãnh. Khách hàng phải ký quỹ khi đề nghị ngân hàng phát hành L/C, xác nhận L/C hoặc bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn nước ngoài.
Cho vay ký quỹ là hình thức tài trợ nhập khẩu bởi do tính rủi ro của hợp đồng ngoại thương hoặc đơn giản đó là quy định của NHNN. Vì khoản tiền ký quỹ bị phong toả có thể dẫn đến việc vốn lưu động của doanh nghiệp bị thu hẹp, khi đó căn cứ trên uy tín của khách hàng, hiệu quả của hợp đồng hoặc tài sản đảm bảo, ngân hàng có thể xét cho vay ký quỹ.
Bằng hình thức tài trợ này, doanh nghiệp được giải quyết khó khăn về vốn lưu động, ngân hàng tăng tính an toàn và hiệu quả tín dụng mà vẫn tuân thủ quy định của NHNN về ký quỹ bảo lãnh.
c) Cho vay thanh toán hàng nhập khẩu hoặc tài trợ thanh toán bộ chứng từ giao hàng: theo hình thức này, khách hàng phải lập phương án sản xuất kinh doanh có tính khả thi cho lô hàng nhập, đồng thời lên kế hoạch tài chính xác định khả năng thanh toán, đến thời điểm thanh toán dự kiến khoản thiếu hụt cần ngân hàng tài trợ. Tất cả các bước trên phải thực hiện trước khi chứng từ giao hàng của người xuất khẩu về đến ngân hàng tài trợ vì ngân hàng có rất ít thời gian xem xét bộ chứng từ cũng như đánh giá khả năng hoàn vốn của khách hàng.
Cho vay bắt buộc: về nội dung cũng là cho vay thanh toán chứng từ giao hàng, tuy nhiên tình trạng vay bắt buộc phát sinh khi người nhập khẩu không thanh toán hoặc không tập trung đủ tiền để thanh toán bộ chứng từ giao hàng. Khi đó ngân hàng sẽ cho vay trên giá trị tiền hàng còn thiếu để thanh toán đúng hạn cho ngân hàng nước ngoài. Lãi suất của khoản nợ bắt buộc thường sẽ tương ứng với lãi suất vay quá hạn .
L/C trong thanh toán hàng xuất khẩu có các hình thức sau:
Cho vay thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở:
Thư tín dụng vừa là một công cụ thanh toán vừa là một công cụ tín dụng. Khi nhận L/C nhà xuất khẩu được đảm bảo thanh toán sau khi giao hàng nếu xuất trình bộ chứng từ phù hợp với những điều kiện đã ghi trong L/C. Nhà xuất khẩu còn có thể dựa vào đó để nhờ ngân hàng phục vụ mình cấp một khoản tín dụng để thực hiện xuất hàng theo L/C qui định. Có thể nói L/C phục vụ cho nhiều mối liên quan như là phương tiện trong lĩnh vực cho vay hàng xuất. Trên cơ sở L/C đã được chấp nhận ngân hàng có thể cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu để tiếp tục sản xuất tức là sẵn sàng chấp nhận chiết khấu các hối phiếu của L/C này.
Đối với L/C trả chậm cũng được sử dụng như một phương tiện đi vay. Nhà xuất khẩu có thể nhận được tiền dưới dạng tín dụng chuyển nhượng toàn bộ quyền thụ hưởng L/C cho ngân hàng cấp phát tín dụng, đặc biệt khi L/C trả chậm có xác nhận.
b) Cho vay chiết khấu hoặc ứng trước chứng từ hàng xuất khẩu:
Nhà xuất khẩu sau khi giao hàng xong có thể thương lượng với ngân hàng thực hiện chiết khấu bộ chứng từ hoặc ứng trước tiền khi bộ chứng từ được thanh toán. Chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu là hình thức ngân hàng tài trợ nhà xuất khẩu thông qua việc mua lại hoặc cho vay trên cơ sở giá trị bộ chứng từ xuất khẩu hoàn hảo được người xuất khẩu trình. Có 2 hình thức chiết khấu:
· Chiết khấu miễn truy đòi (chiết khấu đóng): ngân hàng mua lại bộ chứng từ xuất khẩu hoàn hảo của người xuất khẩu với giá thấp hơn giá trị bộ chứng từ do trừ phí chiết khấu và thời gian trung bình cần thiết để đòi tiền người nhập khẩu nước ngoài. Chiết khấu miễn truy đòi có nghĩa là người xuất khẩu bán hẳn bộ chứng từ cho ngân hàng, nhận tiền và không còn trách nhiệm hoàn trả, trách nhiệm thu tiền và quyền sử dụng số tiền thu được hoàn toàn thuộc về ngân hàng. Ở nước ta, các ngân hàng ít sử dụng hình thức chiết khấu này vì nó tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng.
Chiết khấu được phép truy đòi (chiết khấu mở):
Ngân hàng thực hiện cho vay trên cơ sở bộ chứng từ hoàn hảo, thời gian cho vay được tính bằng thời gian cần thiết trung bình để đòi tiền nhà nhập khẩu nước ngoài. Khi đó trách nhiệm người xuất khẩu vẫn còn cho đến khi ngân hàng đòi được tiền từ người nhập khẩu. Trong trường hợp này ngân hàng chịu ít rủi ro hơn nên mức phí chiết khấu sẽ thấp hơn.
Tác dụng hoạt động chiết khấu của ngân hàng nhằm tài trợ vốn lưu động cho người xuất khẩu để đảm bảo sản xuất kinh doanh liên tục, không bị gián đoạn trong thời gian chờ người nhập khẩu nước ngoài thanh toán tiền hàng. Phạm vi chiết khấu bộ chứng từ thường chỉ được áp dụng trong phương thức thanh toán L/C do có sự ràng buộc chặt chẽ việc giao hàng của người xuất khẩu và trách nhiệm thanh toán của người nhập khẩu thông qua các ngân hàng phục vụ các bên, rủi ro thấp so với các phương thức thanh toán khác.
3.2. Phương thức nhờ thu
Đây là phương thức thanh toán mà nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu thực hiện giao dich thương mại thông qua ngân hàng.
Nhờ thu gồm hai loại sau:
Nhờ thu chấp nhận chứng từ: D/A (Document against Acceptance)
Người xuất khẩu sau khi xuất chuyển hàng hoá, lập các chứng từ hàng hoá kèm theo Hối phiếu (Bill of Exchange hay còn gọi là Draft) cho Ngân hàng mà mình nhờ thu (Remitting Bank). Ngân hàng này có thể dùng đại lý của mình hoặc thông qua một Ngân hàng khác mà Ngân hàng này có tài khoản của người mua (Collecting Bank) để thực hiện việc thu hộ tiền hàng. Collecting Bank sẽ gửi bản sao của bộ chứng từ và hối phiếu cho người mua. Người mua sẽ ký chấp nhận lên hối phiếu và gửi lại cho Ngân hàng nhờ thu, khi đó Ngân hàng nhờ thu mới gửi bộ chứng từ hàng hóa gốc cho nhà nhập khẩu để nhận hàng. Đến hạn thanh toán thì nhà nhập khẩu sẽ chuyển tiền cho ngân hàng nhờ thu để chuyển lại cho nhà xuất khẩu.
Phương thức thanh toán này ít được sử dụng trong thanh toán thương mại quốc tế vì nó không đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu.
(9)
Thanh toán
(7)
Thanh toán
(6)
Gửi
bộ chứng từ
gốc
(5)
Chấp nhận Hối phiếu
(4)
Gửi Hối phiếu
(3) Gửi bộ chứng từ kèm hối phiếu
(2)
Gửi bộ chứng từ kèm hối phiếu
(1) Chuyển hàng
Collecting Bank
(Ngân hàng của nhà NK)
Remitting Bank
(Ngân hàng của nhà XK)
Nhà Nhập khẩu
Nhà Xuất khẩu
(8) Chuyển tiền
Sơ đồ thanh toán D/A
Nhờ thu kèm chứng từ D/P ( Document against Payment )
Người xuất khẩu sau khi xuất chuyển hàng hoá, lập các chứng từ hàng hoá kèm theo Hối phiếu (Bill of Exchange hay còn gọi là Draft) cho Ngân hàng mà mình nhờ thu (Remitting Bank). Ngân hàng này có thể dùng đại lý của mình hoặc thông qua một Ngân hàng khác mà Ngân hàng này có tài khoản của người mua (Collecting Bank) để thực hiện việc thu hộ tiền hàng.Người mua sẽ gửi cho ngân hàng lệnh chi hoặc ký chấp nhận lên hối phiếu có kỳ hạn, khi đó Ngân hàng mới giao bộ chứng từ hàng hóa cho người mua.
Theo phương thức này ngân hàng không chỉ là người thu hộ tiền mà còn là người khống chế bộ chứng từ hàng hoá. Với cách khống chế này quyền lợi của người xuất khẩu được đảm bảo hơn.
(6) Chuyến tiền
(3) Gửi bộ chứng từ kèm hối phiếu
(1) Chuyển hàng
Collecting Bank
(Ngân hàng của nhà NK)
Nhà Nhập khẩu
Remitting Bank
(Ngân hàng của nhà XK)
Nhà Xuất khẩu
(2)
Gửi bộ chứng từ kèm hối phiếu
(7)
Thanh toán
(5)
Bộ chứng từ hàng hóa
(4)
Gửi tiền
Sơ đồ thanh toán D/P
Tài trợ trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ gồm các cách thức:
Nhờ thu đến trong thanh toán hàng nhập: ngân hàng tiếp nhận chứng từ từ ngân hàng nước ngoài, xuất trình hối phiếu đòi tiền nhà nhập khẩu. Nếu nhà nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán, thì cần phải có sự tài trợ của ngân hàng cho vay thanh toán hàng nhập khẩu.
Nhờ thu đi trong thanh toán hàng xuất: tương tự như phương thức tín dụng chứng từ, ngân hàng có thể cho vay thu mua, sản xuất hàng xuất khẩu, chiết khấu được ứng trước bộ chứng từ hàng xuất khẩu.
3.3 Cho vay trên cơ sở hối phiếu
3.3.1 Chiết khấu hối phiếu
Tín dụng chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực hiện dưới hình thức khách hàng chuyển quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận được một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí chiết khấu.
Thông qua loại tín dụng này, ngân hàng cung ứng một khoản vốn cho các nhà xuất khẩu để họ có điều kiện tiếp tục quá trình tái sản xuất. Đây là khoản vốn mà nhà sản xuất cần bù đắp vì trước đó họ đã cung ứng khoản tín dụng thương mại (bán chịu) cho nhà nhập khẩu.
Ngân hàng xác định lượng tín dụng cấp ra (giá trị chiết khấu) căn cứ vào mệnh giá của hối phiếu được áp dụng làm đối tượng chiết khấu trừ đi lợi tức chiết khấu và lệ phí nhờ thu, công thức