Từ trước đến nay khi nghiên cứu cơ cấu kinh tế của Việt Nam, chúng ta vẫn thường hay sử dụng chỉ tiêu cơ cấu kinh tế theo ngành sản xuất và theo thành phần kinh tế. Từ 25/12/1992 Chính phủ đã ra quyết định sử dụng hệ thống SNA ở Việt Nam từ năm 1993. Trong hệ thống tài khoản quốc gia 1993, phân loại theo khu vực thể chế là một nhân tố quan trọng để nghiên cứu cơ cấu kinh tế và được Liên Hợp Quốc khuyến nghị các nước thực hiện. Trước khi xem xét tài khoản sản xuất Việt Nam 2005 phân theo khu vực thể chế, chúng ta sẽ tìm hiểu khu vực thể chế là gì và tại sao lại cần nghiên cứu cơ cấu kinh tế theo khu vực thể chế.
31 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2428 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. TÀI KHOẢN SẢN XUẤT CỦA VIỆT NAM NĂM 2005 THEO KHU VỰC THỂ CHẾ
Từ trước đến nay khi nghiên cứu cơ cấu kinh tế của Việt Nam, chúng ta vẫn thường hay sử dụng chỉ tiêu cơ cấu kinh tế theo ngành sản xuất và theo thành phần kinh tế. Từ 25/12/1992 Chính phủ đã ra quyết định sử dụng hệ thống SNA ở Việt Nam từ năm 1993. Trong hệ thống tài khoản quốc gia 1993, phân loại theo khu vực thể chế là một nhân tố quan trọng để nghiên cứu cơ cấu kinh tế và được Liên Hợp Quốc khuyến nghị các nước thực hiện. Trước khi xem xét tài khoản sản xuất Việt Nam 2005 phân theo khu vực thể chế, chúng ta sẽ tìm hiểu khu vực thể chế là gì và tại sao lại cần nghiên cứu cơ cấu kinh tế theo khu vực thể chế.
1. Nội dung phân loại theo khu vực thể chế.
Để phản ánh mối quan hệ giao dịch giữa các đơn vị trong hoạt động kinh tế, hệ thống SNA đã chia các đơn vị theo khu vực thể chế. Sự phân loại này xét theo các tiêu chí:
Nguồn vốn hoạt động
Lĩnh vực hoạt động
Mục đích hoạt động
Tư cách pháp nhân
Đơn vị thường trú
Theo những tiêu chí này, hoạt động kinh tế của một quốc gia được chia làm sáu khu vực thể chế:
Khu vực Nhà nước
Khu vực phi tài chính
Khu vực tài chính
Khu vực hộ gia đình
Khu vực vô vị lợi
Khu vực nước ngoài
Theo nguồn vốn được xem xét: Vốn hoạt động do ngân sách nhà nước cấp hay từ các nguồn khác. Nếu nguồn vốn hoạt động từ ngân sách nhà nước thì xếp vào khu vực Nhà nước. Khu vực này bao gồm các đơn vị quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, các tổ chức chính trị xã hội, các đơn vị cung cấp hàng hoá công cộng miễn phí cho cộng đồng như y tế, giáo dục, văn hoá thể thao… Thu nhập của các đơn vị này chủ yếu được cấp qua ngân sách.
Theo lĩnh vực hoạt động: Các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá và dịch vụ phi tài chính được xếp vào khu vực phi tài chính. Đây là khu vực lớn nhất trong nền kinh tế. Thu nhập của các đơn vị trong khu vực phi tài chính dựa vào kết quả kinh doanh hàng hoá và dịch vụ.
Các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực tài chính thì xếp vào khu vực tài chính. Đây là các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ và chức năng cơ bản là kinh doanh tiền tệ, tín dụng, bảo hiểm, xổ số kiến thiết… Đây là khu vực đảm bảo hoạt động của nền kinh tế về mặt giá trị.
Theo mục đích hoạt động: hoạt động sản xuất mang tính kinh doanh, vì mục tiêu lợi nhuận tối đa hay hoạt động mang tính phi lợi nhuận. Nếu đơn vị sản xuất hàng hoá dịch vụ không phải để thu lời như các tổ chức được lập như hội nghề nghiệp, các tổ chức tôn giáo, tổ chức nhân đạo, hội từ thiện… thì được xếp vào khu vực vô vị lợi. Nguồn kinh phí hoạt động cho các đơn vị ở khu vực này là từ sự đóng góp tự nguyện của các thành viên trong xã hội.
Theo tư cách pháp nhân: Nếu đơn vị không có tư cách pháp nhân (không có con dấu, hệ thống sổ sách kế toán đầy đủ, tài sản riêng) thì thuộc khu vực hộ gia đình, nếu có tư cách nhân thì xếp vào khu vực khác. Khu vực hộ gia đình bao gồm các hộ thuần tuý tiêu dùng cuối cùng và các hộ vừa sản xuất vừa tiêu dùng cuối cùng tức là các hộ thuộc thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ.
Theo đơn vị thường trú: có hai loại đơn vị hoạt động là thường trú và không thường trú. Nếu là đơn vị không thường trú thì xếp vào khu vực nước ngoài.
Tuy nhiên trong nghiên cứu chúng ta thường quan tâm nhiều hơn đến các đơn vị thường trú đó là khu vực phi tài chính, khu vực tài chính, khu vực nhà nước, khu vực hộ gia đình và khu vực vô vị lợi.
2. Sự cần thiết nghiên cứu cơ cấu kinh tế theo khu vực thể chế.
Trước tiên sự cần thiết phải nghiên cứu cơ cấu kinh tế theo khu vực thể chế xuất phát từ mục đích so sánh quốc tế. Việc chúng ta chuyển từ việc sử dụng hệ thống MPS sang sử dụng hệ thống SNA trong nghiên cứu kinh tế vĩ mô là do so sánh quốc tế đòi hỏi phải tuân thủ các quy tắc và chuẩn mực quốc tế trong việc xây dựng các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, do vậy tiêu chí đánh giá khu vực thể chế là cần thiết.
Thứ hai, việc phân loại theo khu vực thể chế cho thấy mục đích phân loại không phải là vấn đề sở hữu yếu tố sản xuất mà là các khu vực hoạt động trong toàn bộ nền kinh tế, từ đó nó cho thấy mối quan hệ trong quá trình hoạt động của các khu vực này. Chúng ta đã thừa nhận kinh tế thị trường vì vậy phải tôn trọng cơ chế hoạt động của nó. Điều quan trọng trong cơ chế thị trường không còn là vấn đề sở hữu như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung mà là hiệu quả của quá trình hoạt động cũng như mối quan hệ giữa các khu vực hoạt động của nền kinh tế. Điều này khó có thể nghiên cứu và nhận thấy được khi nghiên cứu cơ cấu kinh tế theo ngành và thành phần kinh tế. Chẳng hạn: Nếu khu vực thể chế phi tài chính là khu vực sản xuất vật chất, tạo ra chủ yếu thu nhập cho xã hội thì khu vực tài chính có chức năng đảm bảo về mặt giá trị cho nền kinh tế. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì để khu vực tài chính đáp ứng được khả năng đảm bảo về mặt giá trị cho nền kinh tế thì thu nhập của khu vực này trong tổng thu nhập của nền kinh tế ít nhất phải là 3%. Nếu như tỉ trọng của khu vực này của chúng ta là nhỏ hơn 3%, thì phải có những chính sách thúc đẩy hoạt động của khu vực này. Hoặc là, nếu tỉ trọng của khu vực khu vực hộ gia đình quá cao thì cũng thể hiện tính chất sản xuất nhỏ của nền kinh tế…
Tóm lại, bên cạnh yêu cầu khách quan của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu cơ cấu kinh tế theo khu vực thể chế thì các phân loại này cũng giúp chúng ta có một cái nhìn sâu sắc hơn về bản chất hoạt động của nền kinh tế. Nhất là đối với các nhà hoạch định chính sách thì việc nghiên cứu kinh tế theo khu vực thể chế rất cần thiết bên cạnh việc nghiên cứu kinh tế theo ngành và theo thành phần kinh tế.
3. Bảng tài khoản sản xuất của Việt Nam năm 2005 theo KVTC
TÀI KHOẢN SẢN XUẤT CỦA VIỆT NAM NĂM 2005
(Theo khu vực thể chế)
Đơn vị tính: 1000 tỷ đồng
Sử dụng
Phân loại theo khu vực thể chế
Nguồn
VA
IC
839.2
806.2
1. Toàn bộ nền kinh tế
1645.4
482.5
466.6
2. KVTC phi tài chính
1149.1
15.1
2.2
3. KVTC tài chính
17.3
89.2
20.1
4. KVTC Nhà nước
109.3
252.4
117.3
5.KVTC hộ gia đình
369.7
Nhận xét:
Khu vực phi tài chính là khu vực lớn nhất trong nền kinh tế. Thu nhập của khu vực này dựa vào sản xuất và kinh doanh hàng hóa và dịch vụ phi tài chính. Năm 2005, tỷ trọng khu vực này là 57.5% GDP (tương đương với 482.5 nghìn tỷ đồng) và năm 2001 là 50.8% (tương đương với 244.5%). Như vậy, ta thấy tỷ trọng khu vực tài chính đã tăng lên cả về quy mô cũng như tỷ lệ.
Tỷ trọng khu vực tài chính năm 2005 là 1.8% GDP. Nếu so với năm 2001 thì tỷ lệ này không tăng. Điều này cho thấy nền kinh tế vẫn chưa được đảm bảo tốt về mặt giá trị. Chúng ta cần phải có những chính sách phát triển khu vực thể chế này.
Tỷ trọng khu vực Nhà nước là 10.6% GDP (tương đương với 89.2 nghìn tỷ đồng) so với năm 2001 là 8.1%. Khu vực Nhà nước là khu vực sử dụng ngân sách Nhà nước cho nên việc tăng tỷ trọng khu vực này là một xu hướng chưa tích cực. Cần phải giảm tỷ trọng khu vực này đến một tỷ lệ nhất định mà Nhà nước vẫn phải đảm bảo tốt chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế của mình.
Khu vực hộ gia đình chiếm 30.1% GDP. Đây vẫn là một tỷ trọng cao. Điều này nói lên tính chất nhỏ lẻ, manh mún của nền kinh tế. Trong những năm qua tỷ trọng khu vực này thường xoay quanh tỷ lệ 37-40% (Nguồn: Tổng cục Thống kê). Như vậy, nền kinh tế Việt Nam đang chuyển dịch một cách tích cực từ quy mô nhỏ lẻ sang quy mô lớn hơn.
Xét toàn bộ nền kinh tế thì tỷ trọng IC/GO đã giảm từ 51.6% năm 2001 xuống còn 50.0% năm 2005. Qua đó, ta thấy tỷ trọng chi phí trung gian đã giảm và giá trị gia tăng lên. Đây cũng là một xu hướng tốt cho nền kinh tế, thể hiện chất lượng tăng trưởng được cải thiện.
II. PHÂN TÍCH QUY MÔ VÀ TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu đầu tiên của tất cả các nước thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn của các quốc gia.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế, sự gia tăng thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ.
1.Về quy mô tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trong nước từ 2000-2005
Đơn vị: 1000 tỷ đồng
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
GDP (giá so sánh)
273,7
292,5
313,2
336,2
362,4
393,0
GDP (giá hiện hành)
441,6
481,3
535,7
613,4
715,3
839,2
(Nguồn: niên giám thống kê2006)
Từ bảng số liệu trên cho thấy: GDP năm sau luôn cao hơn năm trước, năm 2005 GDP theo giá hiện hành gấp 1,9 lần so với năm 2000, gấp đôi so với năm 1995; nếu tính theo giá so sánh, con số này cũng đạt 1,44 lần. Điều này chứng tỏ quy mô nền kinh tế ngày càng tăng.
Năm 2005 GDP theo giá hiện hành đạt 839,2 tỷ đồng, bình quân đầu người trên 10 triệu đồng (tương đương 640USD) cao hơn mức trung bình của nhóm nước có thu nhập thấp.
Quy mô nền kinh tế Việt Nam hiện nay còn nhỏ, tổng sản phẩm trong nước chỉ xấp xỉ = 1/2 Philipin, 1/3 Malayxia,1/4 Thái Lan. Mặc dù một số hàng xuất khẩu như gạo, cà phê… có ảnh hưởng nhất định trên thị trường thế giới nhưng hoạt động quy mô kinh tế của Việt Nam còn quá nhỏ bé nên ít được thế giới chú trọng.
2. Về tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Đơn vị: %
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
Bình quân
Tốc độ tăng GDP
6.89
7.08
7.34
7.79
8.43
7.51
Nông-lâm-thủy sản
2.98
4.17
3.62
4.36
4.04
3.83
Công nghiệp - xây dựng
10.39
9.48
10.48
10.22
10.65
10.24
Dịch vụ
6.10
6.54
6.45
7.26
8.48
6.96
(Nguồn: Niên giám thống kê 2006)
Từ bảng số liệu cho thấy tốc độ tăng GDP của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005 liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước với mức tăng bình quân hàng năm là 7,51%.
- Năm 2001, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6.89% mở đầu cho một giai đoạn tăng trưởng khá cao và ổn định.
- Năm 2002, chúng ta đã phát huy mạnh mẽ nội lực, tháo gỡ từng khó khăn trong sản xuất và kinh doanh… nhờ đó, tình hình kinh tế, xã hội đã có những chuyển biến tích cực qua từng tháng nhất là trong những tháng cuối năm; kết quả là tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm đạt 7,08%.
- Năm 2003, nền kinh tế nước ta lại phải đương đầu với những khó khăn thách thức hết sức gay gắt do hạn hán kéo dài và do dịch bệnh SARS, nhưng nhờ sự chỉ đạo nhanh nhạy, kịp thời, sự nỗ lực rất cao của các ngành các cấp, nền kinh tế nước ta đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ; tăng trưởng kinh tế đạt 7,34%.
- Năm 2004, tình hình kinh tế cũng có nhiều biến động phức tạp, dù phải đương đầu với những khó khăn và thiệt hại không thể lường trước như dịch cúm gia cầm và giá nguyên vật liệu nhập khẩu tăng cao, nhưng với sự chỉ đạo điều hành nhạy bén và quyết liệt của Chính phủ, tăng trưởng vẫn đạt 7,79%. Kết quả này có phần vượt trên cả dự báo của nhiều chuyên gia, bởi chỉ riêng dịch cúm gia cầm mấy tháng đầu năm đã gây thiệt hại cho nền kinh tế vào khoảng gần 2% GDP.
Nền kinh tế giữ được mức tăng trưởng tương đối cao như vậy, trước hết là nhờ sản xuất công nghiệp liên tục phát triển, GDP công nghiệp tăng 10,22%; GDP dịch vụ tăng 7,26%. Cũng trong năm 2004, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội cho phát triển kinh tế đạt 192,2 nghìn tỷ đồng trong đó đầu tư cho công nghiệp và xây dựng chiếm 44,6%. Bên cạnh đó, tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm tăng 31,5% - cao nhất trong cả thời kì 2001-2005 đạt 26,5 tỷ USD.
- Năm 2005 là năm đánh dấu bước chuyển biến mới và toàn diện trong toàn nền kinh tế; các chủ trương, chính sách lớn đề ra tạo ra động lực mới, đồng thời kích thích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 326 nghìn tỷ, cao nhất trong thời kì 2001-2005 trong đó vốn đầu tư của dân cư và tư nhân là 107,6 nghìn tỷ, gấp hơn 2,5 lần so với năm 2001 (42,6 nghìn); vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 53,0 nghìn tỷ, cao hơn hẳn so với các năm trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,43%, vượt xa con số 7,79% của năm 2004. Đây là năm có tốc độ tăng trưởng đạt mức cao nhất trong vòng 9 năm qua kể từ 1997.
Nhìn chung trong 5 năm (2001-2005) nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá nhanh và bền vững. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm là 7,51%, đạt mục tiêu đề ra.Trong bối cảnh hết sức khó khăn ở cả trong và ngoài nước, tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục tăng lên qua các năm và cao hơn 5 năm trước (1996-2000) 0.6 điểm% là một thành tựu lớn (tốc độ tăng GDP bình quân của giai đoạn 1996-2000 là 6.9%).
Trong 5 năm 2001-2005, kinh tế nước ta không những tăng trưởng tương đối cao mà cơ cấu kinh tế còn tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tương ứng với mức tăng trưởng chung của cả nền kinh tế, tất cả các khu vục kinh tế đều tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn; trong đó nông; lâm nghiệp và thủy sản đạt 3,83%, công nghiệp và xây dựng đạt 10,24%, dịch vụ đạt 6,96%. Một nước có nền kinh tế kém phát triển nay từng bước xây dựng một nền công nghiệp theo hướng hiện đại. Đồng thời cơ cấu kinh tế không ngừng chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dich vụ, tỷ trọng nông nghiệp giảm dần tương ứng.
Tỷ trọng giá trị sản phẩm tăng thêm theo giá thực tế chiếm trong tổng sản phẩm trong nước
Đơn vị:%
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
Công nghiệp và xây dựng
38.13
38.49
39.47
40.21
41.02
Nông – lâm - thủy sản
23.24
23.03
22.54
21.81
20.97
Dịch vụ
38.63
38.48
37.99
37.98
38.01
(Nguồn: niên giám thống kê)
Tỷ trọng của ba khu vực qua các năm như trên đã thể hiện rất rõ nền kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005 còn được thể hiện qua đồ thị.
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực xảy ra cuối năm 1997 đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta. Tổng sản phẩm trong nước trong những năm 1992-1997 thường đạt mức tăng trưởng hàng năm 8 - 9% đã đột ngột giảm xuống còn tăng 5,8% vào năm 1998 và tăng 4,8% vào năm 1999. Nhưng từ năm 2000 thì nền kinh tế đã lấy lại được đà tăng trưởng với tốc độ tăng năm sau luôn lớn hơn năm trước. Điều này được thể hiện trên đồ thị (hình trên) với xu hướng đi lên từ 2001-2005, chứng tỏ chu kỳ sản xuất đang đi lên.
Với tốc độ tăng trưởng bình quân mỗi năm của tổng sản phẩm trong nước là 7,51%, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam không những cao hơn hẳn tốc độ tăng bình quân 6,95% mỗi năm trong kế hoạch 5 năm 1996-2000 mà còn đứng vào hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao của khu vực và thế giới
So sánh tốc độ tăng GDP của Việt Nam và các nước
Đơn vị: %
Tên nước
Tốc độ tăng GDP
Trung Quốc
8.5
Việt Nam
7.5
Hàn Quốc
5.5
Thái Lan
5.0
Malayxia
5.0
Indonexia
4.6
Philipin
4.5
Xingapo
4.1
(Theo số liệu của WB và ESCAP)
Từ bảng số liệu ta dễ thấy Việt Nam là nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế đứng thứ hai sau Trung Quốc, vượt xa so với các nước còn lại.
Kinh tế liên tục tăng trưởng với nhịp độ khá nhanh là điều kiện đảm bảo nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân - thước đo quan trọng để đánh giá thành công của một nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế lớn hơn nhiều so với tốc độ tăng dân số (khoảng 1.3-1.4 %), nhờ đó GDP bình quân đầu người cũng tăng lên rõ rệt, từ 412.9 USD năm 2001 lên 637.3 USD năm 2005, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Mặc dù mức thu nhập của Viêt Nam còn thuộc nhóm các nước có thu nhập thấp, nhưng trong thời gian qua mức thu nhập bình quân của Việt Nam đã vượt qua mức thu nhập bình quân của 60 nước trong nhóm này. Năm 1991 thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam là 200 USD, chỉ bằng 53.6 % so với mức thu nhập bình quân của 60 nước, thì đến năm 2005 thu nhập của Việt Nam là 600 USD, bằng 120 % mức thu nhập bình quân 500 USD của các nước kể trên.
3. Nguyên nhân có mức tăng trưởng cao.
Sở dĩ tổng sản phẩm trong nước đạt được tốc độ tăng trưởng như trên là do hầu hết các ngành, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế đều có mức tăng trưởng khá cao:
+ Nông lâm nghiệp và thủy sản: 3.83%.
+ Công nghiệp và xây dựng: 10.24%.
+ Dịch vụ: 6.96%.
Ước tính năm 2005 so với năm 2000:
- Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 30% với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 5,42%, trong đó:
+ Nông nghiệp tăng: 4,11%/năm.
+ Lâm nghiệp tăng: 1,37%/năm.
+ Thuỷ sản tăng: 12,12%/năm.
- Giá trị sản xuất công nghiệp gấp 2,1 lần, bình quân mỗi năm tăng 16,02% trong đó:
+ Công nghiệp Nhà nước gấp 1,73 lần, bình quân mỗi năm tăng 11,53%,
+ Công nghiệp ngoài Nhà nước gấp 2,69 lần, bình quân mỗi năm tăng 21,91%.
+ Công nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài gấp 2,17 lần, bình quân mỗi năm tăng 16,8%.
+ Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế gấp 1,96 lần.
+ Tổng mức lưu chuyển hàng hoá ngoại thương gấp 2,3 lần, bình quân mỗi năm tăng 18,18%, trong đó: Xuất khẩu gấp 2,24 lần, bình quân mỗi năm tăng 17,5%. Nhập khẩu gấp gần 2,36 lần, bình quân mỗi năm tăng 18,58%.
Bên cạnh đó để có được tốc độ tăng trưởng cao như vậy có một nguyên nhân quan trọng đó là Việt Nam có nhiều tiềm năng lớn. Trước hết là quy mô dân số 82 triệu dân, xếp thứ 13 trong 200 nước trên thế giới vì vậy cho phếp tăng đồng loạt các ngành công nghiệp và dịch vụ. Nhiều công ty đa quốc gia đánh giá lao động Việt Nam rất khéo tay, cầu tiến và có khả năng hấp thụ nhanh tri thức về công nghệ và quản lý. Liên quan đến đội ngũ tri thức lao động, một tiền năng lớn là số đông người Việt Nam ở nước ngoài có khả năng lãnh đạo về công nghệ quản lý và kinh doanh, nếu được tạo điều kiện để họ đóng góp vào xây dựng đất nước sẽ tạo ra một lưc lượng sản xuất lớn. Ước tính có khoảng 500 nghìn người có trình độ đại học hoặc trên đại học trong số hơn 3 triệu người Việt Nam sống ở nước ngoài.
Việt Nam còn có nhiều tài nguyên nông sản, thủy sản, khoáng sản có vị trí địa lý thuận lợi. Thêm vào đó sự ổn định chính trị, xã hội của Việt Nam cũng là một tiềm năng lớn, văn hóa Việt Nam rất dễ hòa đồng với các nước khác. Việt Nam có dân số đông nhưng người Việt Nam không có sự khác biệt lớn về tôn giáo, ngôn ngữ. Chính tiềm năng này mà các công ty đa quốc gia, công ty Nhật Bản đã xem Việt Nam là mục tiêu hấp dẫn trong tương lai.
4. Hạn chế và bất cập.
Bên cạnh những thành tựu đạt được nêu trên, diễn biến và thực trạng kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 cho thấy nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều hạn chế và yếu kém, thể hiện trên một số điểm chủ yếu sau:
Nền kinh tế vẫn trong tình trạng kém phát triển, sức cạnh tranh thấp và chứa đựng nhiều mặt mất cân đối.
Những năm 2001-2005 vừa qua nền kinh tế nước ta tăng trưởng bình quân mỗi năm 7,51% là một thành công, nhưng do xuất phát điểm thấp nên quy mô của nền kinh tế còn nhỏ bé, nguy cơ tụt hậu lớn, giá trị tăng thêm của 1% tăng lên không cao và do vậy đến nay nước ta vẫn chưa ra khỏi danh sách các nước đang phát triển có thu nhập thấp.
Thu nhập
Thấp
=<765
Trung bình thấp
766-3035
Bình quân cao
3036-9385
Cao
>=9386
(Đơn vị: USD/người/năm)
Trong khi đó bình quân đầu người của nước ta năm 2005 chỉ đạt 637.5 USD, tuy tăng 58,7% so với năm 2000 nhưng mới bằng 83,4% cận trên của nhóm thu nhập thấp.
So với các nước trong khu vực thì GDP bình quân đầu người của Việt Nam mới bằng 71.2 % của Indonesia, bằng 55 % của Philippines, bằng 32.8% của Thái Lan, bằng 25.2 % của Malaysia và 9.6 % của Singapo. Giả định là kinh tế các nước không tăng trưởng, mà với tốc độ của VN trong giai đoạn vừa qua, thì số năm mà Việt Nam cần để đuổi kịp Indoneisia cũng phải mất hơn 6 năm, Philippines là gần 11 năm, Thái Lan gần 21 năm, Malaysia gần 25 năm và Sigapo gần 49 năm.Từ đó cho thấy, nếu Việt Nam muốn rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực thì tốc độ tăng trưởng 7.5 % bình quân trong 5 năm qua vẫn là chưa đủ.
Tăng trưởng chưa thực sự vững chắc, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, chậm được cải thiện. Đóng góp vào tăng trưởng chủ yếu vẫn là yếu tố vốn và lao động, yếu tố về khoa học công nghệ tuy có tăng nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. Năng suất lao động thấp, tiến bộ về xã hội chưa tương xứng với