Nho- Phật- Đạo là ba hệ tư tưởng cấu thành trụ cột của tinh thần văn hoá truyền thống Trung Quốc, trong đó Nho- Đạo là các hệ tư tưởng nội sinh, còn Phật giáo là hệ tư tưởng ngoại lai du nhập. Trong lĩnh vực văn nghệ đây cũng là ba hệ tư tưởng đã đề xuất những quan niệm văn nghệ cốt yếu và những quan niệm này thống ngự trong hàng mấy nghìn năm ở Trung Quốc. Tuy nhiên các quan niệm văn nghệ của Nho- Phật- Đạo, do có cơ sở triết học khác nhau, cách hình dung “thiên văn” và “nhân văn” khác nhau nên cũng có nhiều điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Nhưng sự khác nhau này là cần thiết, một sự bổ sung cho nhau không thể thiếu được, nếu thiếu sự khác nhau này chắc chắn diện mạo văn nghệ Trung Quốc nói riêng và cả vùng Đông Á nói chung vốn đã rất cằn cỗi càng trở nên cằn cỗi hơn. Chỉ ra được những nét khác biệt, bổ sung cho nhau này là một công việc khó khăn, phức tạp. Lí do thì có nhiều, nhưng một trong những lí do chính đó là do: trong khi tư tưởng văn nghệ của Nho giáo đã được lí luận hoá, cụ thể hoá từ thời Khổng Tử và nó luôn được các tín đồ của nó bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với từng thời kì- mặc dù những nét cơ bản do Khổng Tử đề xuất vẫn được bảo lưu- thì tư tưởng văn nghệ của Đạo gia và Phật giáo “tuy hàm chứa những tiềm năng lớn về cảm quan mỹ học, nhưng lại chưa được lí luận hoá thành những khái niệm thực thụ”(1). Vì thế, theo chúng tôi để có một cái nhìn toàn diện và khoa học về sự khác nhau trong tư tưởng văn nghệ của Nho- Phật- Đạo, đòi hỏi nhà nghiên cứu phải cụ thể hoá từ thực tiễn sáng tác văn học nghệ thuật qua các thời kì về sự ảnh hưởng của Đạo gia và Phật giáo thành những khái niệm, những phạm trù, từ đó mới có được nội hàm so sánh cụ thể với tư tưởng văn nghệ của Nho giáo. Với ý tưởng đó, trong bài viết này chúng tôi xuất phát từ thực tiễn thơ viết về thiên nhiên đi so sánh tự nhiên quan của Nho gia và tự nhiên quan của Đạo gia.
16 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1555 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận So sánh tự nhiên quan của nho gia và tự nhiên quan của đạo gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
------***------
TIỂU LUẬN
SO SÁNH TỰ NHIÊN QUAN CỦA NHO GIA
VÀ TỰ NHIÊN QUAN CỦA ĐẠO GIA
Giáo viên : PGS.TS Trần Nho Thìn
Sinh viên : Đinh Vạn Anh Tuấn
Lớp : K47- Văn CLC
Hà Nội - 2006
Nho- Phật- Đạo là ba hệ tư tưởng cấu thành trụ cột của tinh thần văn hoá truyền thống Trung Quốc, trong đó Nho- Đạo là các hệ tư tưởng nội sinh, còn Phật giáo là hệ tư tưởng ngoại lai du nhập. Trong lĩnh vực văn nghệ đây cũng là ba hệ tư tưởng đã đề xuất những quan niệm văn nghệ cốt yếu và những quan niệm này thống ngự trong hàng mấy nghìn năm ở Trung Quốc. Tuy nhiên các quan niệm văn nghệ của Nho- Phật- Đạo, do có cơ sở triết học khác nhau, cách hình dung “thiên văn” và “nhân văn” khác nhau…nên cũng có nhiều điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Nhưng sự khác nhau này là cần thiết, một sự bổ sung cho nhau không thể thiếu được, nếu thiếu sự khác nhau này chắc chắn diện mạo văn nghệ Trung Quốc nói riêng và cả vùng Đông Á nói chung vốn đã rất cằn cỗi càng trở nên cằn cỗi hơn. Chỉ ra được những nét khác biệt, bổ sung cho nhau này là một công việc khó khăn, phức tạp. Lí do thì có nhiều, nhưng một trong những lí do chính đó là do: trong khi tư tưởng văn nghệ của Nho giáo đã được lí luận hoá, cụ thể hoá từ thời Khổng Tử và nó luôn được các tín đồ của nó bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với từng thời kì- mặc dù những nét cơ bản do Khổng Tử đề xuất vẫn được bảo lưu- thì tư tưởng văn nghệ của Đạo gia và Phật giáo “tuy hàm chứa những tiềm năng lớn về cảm quan mỹ học, nhưng lại chưa được lí luận hoá thành những khái niệm thực thụ”(1). Vì thế, theo chúng tôi để có một cái nhìn toàn diện và khoa học về sự khác nhau trong tư tưởng văn nghệ của Nho- Phật- Đạo, đòi hỏi nhà nghiên cứu phải cụ thể hoá từ thực tiễn sáng tác văn học nghệ thuật qua các thời kì về sự ảnh hưởng của Đạo gia và Phật giáo thành những khái niệm, những phạm trù, từ đó mới có được nội hàm so sánh cụ thể với tư tưởng văn nghệ của Nho giáo. Với ý tưởng đó, trong bài viết này chúng tôi xuất phát từ thực tiễn thơ viết về thiên nhiên đi so sánh tự nhiên quan của Nho gia và tự nhiên quan của Đạo gia.
Chọn so sánh tự nhiên quan của Nho gia và Đạo gia, trước hết chúng tôi muốn làm rõ sự khác nhau trong tự nhiên quan của Nho gia và Đạo gia- nghĩa là cùng đứng trước đối tượng là thiên nhiên Nho gia khác Đạo gia chỗ nào? mối quan hệ chủ thể- khách thể (ở đây là phong cảnh thiên nhiên) của Nho gia và Đạo gia có gì giống và khác nhau? Thứ hai, qua đây chúng tôi muốn xác lập một tiêu chí để phân định loại hình người ẩn dật của tư tưởng Nho gia và loại hình người ẩn dật của tư tưởng Đạo gia. Thứ ba, qua trường hợp so sánh cụ thể này (thơ viết về thiên nhiên), chúng tôi muốn đi tìm những nét chính của tư tưởng Nho gia và tư tưởng Lão- Trang đã ảnh hưởng tới văn nghệ.
Trong thực tiễn sáng tác văn học của Trung Quốc nói riêng và vùng Đông Á nói chung, bộ phận thơ viết về đề tài thiên nhiên không những nhiều về số lượng, mà còn khá đa dạng. Sự đa dạng mà chúng tôi muốn nói ở đây là sự đa dạng về mặt thẩm mỹ, cùng viết về đối tượng là thiên nhiên nhưng nếu tác giả là nhà Nho thì có cách nhìn khác với tác giả là người theo tư tưởng Đạo gia. Đó là do tự nhiên quan của Nho gia khác tự nhiên quan của Đạo gia. Cũng từ trong thực tiễn thơ viết về thiên nhiên ta thấy có sự giao thoa giữa tự nhiên quan của Nho gia và tự nhiên quan của Đạo gia trong loại hình nhà Nho ẩn dật (ở đây nhà Nho ẩn dật có xu hương ảnh hưởng tự nhiên quan của Đạo gia), để chỉ ra con đương vay mượn này ta phải đi làm rõ loại hình người ẩn dật của Nho gia và người ẩn dật của Đạo gia. Như chúng ta đã biết, phương thức sống ẩn dật, là phương thức ứng xử mà cả Nho giáo và Đạo gia đều có. Với Nho giáo, thì đây là một trong hai phương thức ứng xử đã được hai nhà sáng lập “kinh điển” của Nho giáo là Khổng Tử và Mạnh Tử đề xuất cho các môn đệ của mình, nó được đưa ra xuất phát từ chính cuộc đời “bất đắc ý” của cả hai người được các môn đồ tôn là Thánh nhân và Á thánh này. Các nhà Nho hành đạo chân chính, với quan niệm “hữu vi” của Nho giáo, họ luôn quan niệm phải có tinh thần “hữu trách” và họ tin vào “thiên phận” cao cả của mình, trên thì khuyên vua: chăm chỉ vì dân vì nước, không ham mê dục vọng, thực hiện đường lối cai trị Nhân Nghĩa… dưới thì khuyên nhân dân, hướng Đạo cho nhân dân, để xây dựng một xã hội lí tưởng vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn. Nhưng thực tế không diễn ra như nhà Nho mong muốn, trong xã hội chuyên chế phương Đông, rất ít ông vua nếu không muốn nói là không một ông vua nào thoả mãn được các yêu cầu mà nhà Nho mong ước, trong lịch sử “nhan nhản “hôn quân bạo chúa”- sản phẩm tất yếu của chế độ độc tài cực quyền”(1). Không những thế, bộ phận nhà Nho chân chính, những người luôn có tinh thần “nhân sinh chí đạo”(hết lòng vì đạo) thì hạn chế, phần lớn nhà Nho là những kẻ ham công danh, phú quý, tranh giành quyền lực. Thực tế xã hội phương Đông luôn làm nhà Nho rơi vào mâu thuẫn giữa lí tưởng và hiện thực. Khi rơi vào mâu thuẫn đó, nhà Nho chọn cuộc sống ẩn dật- đây là phương thức ứng xử mà Không Tử và Mạnh Tử đã đề xuất như đã nói ở trên. Khổng Tử viết “nước đang nguy thì không nhập, nước đang loạn thì chớ ở, Thiên hạ có Đạo thì hãy xuất hiện, không có Đạo thì hãy tránh đi....”, hay: “dụng tắc hành, sả tắc tàng”. Mạnh Tử thì viết: “cùng, tắc độc thiện kì thân; đạt tắc kiêm thiên hạ”…
Đạo gia thì dựa vào quan niệm “vô vi”, phát huy tinh thần độc thiện. Cả Lão Tử và Trang Tử (đặc biệt là Trang Tử) cho rằng tinh thần “hữu vi” chỉ đem lại sự bó buộc cho con người, càng làm cho xã hội thêm loạn, vì vậy chủ trương “vô vi”. Tư tưởng Lão- Trang cho rằng cuộc đời, công danh chỉ là hư ảo, tất cả chỉ là mộng ảo, từ đó chọn phương thức sống: “đạo phát tự nhiên”. Con người sống theo “đạo pháp tự nhiên” là phải: vô vi tự nhiên, không làm trái với quy luật phát triển tự nhiên, không can thiệp vào tự nhiên. Mức độ cao nhất mà con người tuân theo “đạo pháp tự nhiên” là trở về với trạng thái “chất phác”, trở về thời kì “anh nhi”(còn thơ). Để trở về được trạng thái đó, con người phải thực hiện phương thức sông: “vô tư, vô dục” (không riêng, không ham muôn); “bất tranh”(không tranh); “tri túc, thiểu tri”(biết đủ, biết ít); không bộc lộ sắc sảo; chọn cuộc sống gần gũi tự nhiên… Đó là phương thức sống ẩn dật, xuất thế của tư tưởng Lão- Trang .
Lối sống ẩn dật cả Nho giáo và tư tưởng Lão- Trang đều có. Các nhà Nho về ở ẩn là những tín đồ trung thành của học thuyết Nho giáo, ứng dụng phương thức ứng xử mà Khổng Tử và Mạnh Tử đã đề xuất. Tuy nhiên, nhà Nho về ở ẩn, sống cuộc sống gần gũi thiên nhiên, cuộc sống cá nhân cô độc, tìm thú vui trong thiên nhiên để thoát khỏi sự ràng buộc của con người chức năng, nhưng lí luận Nho giáo không trang bị cho nhà Nho triết lí sống cá nhân, không cung cấp cho họ thế giới quan để nhìn: “một thế giới tự nhiên không những vô cùng, vô tận mà còn phong phú huyền ảo hấp dẫn, khuyến khích con người phóng khoáng, thoát li mọi ràng buộc, mở rộng trí tưởng tượng, lấy cá nhân làm điểm xuất phát”(1). Vì thế buộc nhà Nho ẩn dật phải vay mượn tư tưởng Lão- Trang…Nhận xét về sự vay mượn này G Trần Đình Hượu khái quát: “xuất hay xử là lí thuyết của Nho giáo, nhưng với người ẩn dật, lí luận Nho giáo không cung cấp đủ thức ăn tinh thần. Nho giáo không cho họ triết lí để sống cô độc, không cho thấy cái đẹp của thiên nhiên để vui thú, nhìn ra cái vô cùng của cuộc sống để xa lánh, thây kệ yên tâm hưởng cảnh thanh nhàn. Những người ẩn dật thường tìm chỗ thiếu hụt đó ở Trang Tử”(2), đó là con đường đi “từ Nho sang Trang”, là quá trình nhà Nho ẩn dật trở thành “chung huyết thống với Nho gia”. Điều này đã làm cho việc phân định người nào là ẩn sĩ của Nho giáo, người nào là ẩn sĩ của Đạo gia trở nên khó khăn và phức tạp. Trên thực tế, việc xác định tiêu chí để phân loại một cách rành mạch người ẩn dật của Nho giáo và người ẩn dật của Đạo gia là không thể, bởi nhà Nho ẩn dật có xu hướng vay mượn tư tưởng Lão- Trang, làm cho họ “không phải Nho thuần tuý mà cũng không phải Trang thuần tuý. Thường thường họ là loại văn nhân gần với “Đương- Tống bất đại gia” (tám tác giả lớn đời Đường- Tống) hơn là một nhà tư tưởng, một học giả…kiểu như Đổng Trọng Thư, Chu Hy hay Trang Chu”(1). Nhưng vì, nhà Nho ẩn dật vay mượn tư tưởng Lão- Trang (triết lí sống cô độc, nhìn ra vẻ đẹp của tự nhiên để vui thú…), nên việc so sánh tự nhiên quan của Nho giáo và tư tưởng Lão- Trang là cần thiết, từ đó cho ta cơ sở để xác định được khoảnh khắc nhà Nho ẩn dật vượt ra ngoài tư tưởng Nho giáo, vay mượn tư tưởng Lão- Trang.
Cả tư tưởng Nho gia và tư tưởng Lão- Trang đều là tư tưởng nội sinh, ra đời gần như là cùng một thời điểm, vì vậy có nhiều diểm giống nhau. Trong mối quan hệ chủ thể- khách thể (mối quan hệ giữa con người và thế giới) đều ảnh hưởng bởi thuyết giao cảm trong Kinh Dịch. Theo quan niệm trong Kinh Dịch thì “nhất âm, nhất dương chi vị đạo” (một âm, một dương gọi là đao)(2), đây là quy luật phổ biến tồn tại trong tất cả các sự vật của thế giới tự nhiên. “Từ trời suy ra người”, cuộc sống trong xã hội cũng được hình dung theo nguyên lí một âm- một dương. Theo quan niện này thế giới (cả vũ trụ, cả xã hội con người) đều được hình dung theo các cặp phạm trù đối lập: âm- dương; trơi- đất; cương- nhu; nam- nữ; gần- xa… Các cặp phạm trù đối lập này không tách rời nhau, mà chúng tác động tương hỗ với nhau, làm ra sự vận động, biến đổi và phát triển của vũ trụ. Rõ nhất là sự tác dụng giữa hai cặp đối lập nam- nữ: “trời đất mờ mịt, vạn vật hoá thuần. Nam nữ cấu tinh, vạn vật hoá sinh” (Hệ từ hạ truyện). Trong Kinh Dịch còn nói nhiều tới sự tác động này: “Trời và đất (giao) cảm nên vạn vật hoá sinh; Thánh nhân cảm lòng người nên thiên hạ hoà bình”. (Soán từ thượng truyện. Hàm quái); “Trời đất giao cảm nên vạn vật tương thông, trên dưới giao cảm nên ý chí giống nhau” (Soán từ thượng truyện. Thái quái); “Trời đất không giao cảm thì vạn vật không tương thông; trên dưới không giao cảm thì thiên hạ không còn nước”. (Soán từ thượng truyện. Bĩ quái)…Sự tác động tương hỗ giữa các mặt đối lập này Kinh Dịch gọi là trạng thái Giao cảm. Giao cảm chính là cơ sở cho sự sinh trưởng và phát triển của vạn vật trong vũ trụ. Sự giao cảm này không chỉ diễn ra ở các sự vật của giới tự nhiên, mà còn có sự giao cảm giữa giới tự nhiên và con người, tình cảm và đạo đức của con người có thể tương thông với Trời, tạo thành “thiên nhân hợp nhất”.
Nho giáo ảnh hưởng tư tưởng “thiên nhân hợp nhât”- giữa con người tự nhiên đều có mối tương thông, tương giao. Trong Luận ngữ , thiên Hương đảng đệ thập ghi lại: “{Khổng Tử đi bên khe núi, có nhiều chim rừng núi}, thấy người có sắc mặt nghiêm trang, chim rừng bay lên rồi sà xuống. Thấy vây, Khổng Tử nói: “con chim trĩ mái đậu trên đầu núi, hiểu thời lắm thay”. Công Tôn Ni Tử (có người cho răng ông là “đệ tử tái truyền của Khổng Khâu”), trong Nhạc ký- Nhạc bản thiên cũng cho thấy mối quan hệ giao cảm giữa con người và thiên nhiên, giữa khách thể và chủ thể: “Phàn âm nhạc nổi lên, là từ lòng người sinh ra. Lòng người động, là do sự vật gây ra. Cảm bởi vật mà động, cho nên hình thành ở thanh. Thanh ứng nhau, nên sinh biến. Biến có phương gọi là âm, liền âm lại mà hát và múa lông, múa cờ, gọi là nhạc. Nhạc là do âm sinh ra, gốc của nó là ở chỗ lòng người cảm động từ sự vật vậy”(1). Ở đây cho dù theo Khâu Chấn Thanh quan niệm của Công Tôn Ni Tử là “mang nhân tố duy vật chất phác”(2), mệnh đề “tâm vật cảm ứng” của Công Tôn Ni Tử hoàn toàn đối lập với “thiên nhân hợp nhất”- mang màu sắc duy tâm- thì đó vẫn là mối quan hệ giao cảm giữa chủ thể và khách thể. Thuyết giao cảm này cũng ảnh hưởng tới nhiều nhà lí luận sau này, Lục Cơ cho rằng: “tuỳ theo mùa mà cảm thán, xem xét vạn vật mà suy nghĩ”; Còn Chung Vinh trong Thi phẩm lại dựa vào mối quan hệ giao cảm này giải thích nguồn gốc của văn học: “Khí lay động mọi vật, vật cảm động lòng người, nên tính tình xao động, thể hiện ra lời ngâm điệu múa, soi rọi cõi Tam Tài (trời, đất, người), tô điểm cho muôn vật; như món ăn thành kính cho mọi người, đem (nội dung) sâu sắc vi diệu để bầy tỏ; cảm động trời đất, xúc động quỷ thần, không gì bằng thơ”(1) Tư tưởng này cũng thể hiện rõ trong thiên Vật sắc- Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp...
Mối quan hệ giao cảm giữa chủ thể và khách thể càng được thể hiện rõ trong tư tưởng Lão- Trang. Trang Tử chủ trương xuất thế, mặc sức tiêu dao, đạt tới trạng thái “vong ngã vật hoá”; “trời đất và ta cùng sinh, vạn vật và ta đều là một”…Trong Nam hoa kinh, Trang Tử nhiều lần nói tới trạng thái hoà vào thiên nhiên, hợp nhất với thiên nhiên: “Thầy Trang và thầy Huệ, chơi trên đập hào. Thầy Trang nói: - kìa đàn cá lượn lờ chơi bời, đàn cá mưới sướng chứ! Thầy Huệ hỏi: Bác không phải là cá, sao biết cái sướng của cá?” (Tiêu dao du)… Như vậy, cả Nho giáo và tư tưởng Lão- Trang đều ảnh hương mối quan hệ giao cảm giữa con người và thiên nhiên, ảnh hưởng tư tưởng “thiên nhân hợp nhất” trong Kinh Dịch. Nhưng do có cơ sở triết học khác nhau, nên đi sâu vào tìm hiểu tự nhiên quan của Nho giáo và tự nhiên quan của tư tưởng Lão- Trang có nhiều nét khác biệt.
Như trên chúng ta đã chứng minh cả Nho giáo và tư tưởng Lão- Trang đều ảnh hưởng tư tưởng “thiên nhân hợp nhất’’, giữa con người và nhiên nhiên luôn có mối quan hệ tương giao, tương cảm. Không những thế, cả Nho giáo và tư tưởng Lão- Trang đều thể hiện tình cảm yêu mến trước vẻ đẹp của thiên nhiên, gần gũi tự nhiên. Khi nói tới Nho giáo người ta thường cho rằng con người của học thuyết Nho giáo luôn mang tinh thần “nhân sinh chí đạo” (hết lòng vì đạo), các nhà Nho là những con nguời luôn đặt lí trí lên trên tình cảm, loại trừ cảm xúc trước thiên nhiên, vô cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Thực tế không hoàn toàn là như vậy. Cả Nho giáo và tư tưởng Lão- Trang đều thể hiện thể hiện tình cảm yêu mến phong cảnh thiên nhiên, đều có ước vọng được chiêm ngưỡng cảnh sơn thuỷ hữu tình, non xanh nước biếc, chỉ có điều lí tưởng thẩm mĩ của hai tư tưởng này khác nhau. Trong Luận ngữ có nhiều chỗ thể hiện rõ tình cảm yêu mến cảnh đẹp thiên nhiên của Khổng Tử. Khổng Tử nói: “Trí giả nhạo sơn, nhân giả nhạo thuỷ’’ (bậc trí giả thích cảnh sông nước, bậc nhân giả thích cảnh núi non). (Luận ngữ. Ung dã đế lục); Hay sau khi nghe Tăng Điểm trả lời: “Xuân muộn, y phục mùa xuân đã may rồi, cùng các chàng trai trẻ năm, sáu người; thiếu niên sáu, bảy người tắm ở sông nghị, hóng gió ở đền Vũ Vu, vừa hát ca, vừa quay về’’, Khổng Tử lộ rõ ước muốn được như Tăng Điểm.(Luận ngữ. Tiên tiến đệ thập nhất)... Nhưng tự nhiên quan của Nho giáo lại bị khúc xạ qua tư tưởng “trung dung’’. Nho giáo cho rằng Tâm của con người có hai phần chính và tà, có tình, có dục, mà cũng có tính, có thiên lí, để cho Tâm của con người không bị phần tà, phần tình và phần dục lấn át phần chính, phần thiên lí thì khi đứng trước sự phong phú, đa dạng của sự vật nói chùng và phong cảnh thiên nhiên nói riêng con người phải tiết chế, không chạy theo sự phong phú của sự vật: “Vật gây ra cảm xúc cho con người thật vô cùng, nếu sự ham muốn của con người không tiết chế được thì vật đến thì hoá người làm vật. Người hoá làm vật tức là bỏ thiên lí mà theo nhân dục cho đến cung’’.(Nhạc kí). Với quan niệm đó, các nhà Nho đứng trước vẻ đẹp của thiên nhiên luôn phải tiết chế lòng mình không chạy theo sự phong phú, đa dạng của cảnh thiên nhiên, không mặc sức tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên. Họ luôn đi vào những hình ảnh thiên nhiên phù hợp với ý nghĩa đạo đức của Nho giáo, thưởng thức thiên nhiên của nhà Nho không rời xa phương diện đạo đức của Nho giáo. Điều đó giải thích tại sao: “có một thực tế quan trọng khác, là nhà Nho chỉ yêu những loại thiên nhiên nào có khả năng thể hiên được những tư tưởng chủ quan của mình...nhà Nho không có rung cảm hồn nhiên, bản năng thuần tuý có tính chất chiêm ngưỡng cái đẹp của ngoại giới. Họ chỉ rung cảm với loại thiên nhiên nào có khả năng thực hiện chức năng thể hiện cái chủ quan của mình’’(1). Các nhà Nho đến với thiên nhiên, thưởng thức thiên nhiên, nhưng quan trọng đối họ không phải là vẻ đẹp của thiên nhiên, họ luôn coi: “thiên nhiên là trung tâm, là ngọn nguồn ban phát các phẩm chất của nó cho con người. Thiên nhiên là mẫu mực để hình dung ngoại hình con người. Bức tranh thiên nhiên được sử dụng để miêu tả cảm xúc nội tâm của con người’’(2). Tư tưởng này được thể hiện rõ trong tự nhiên quan của Khổng Tử. Khổng Tử đến với thiên nhiên cũng luôn tìm ý nghĩa đạo lí cho các hình ảnh thiên nhiên. Khảo sát về các hiện tượng thiên nhiên trong Luận ngữ Gs.Trần Đình Hượu khái quát: “Ta thấy Khổng Tử chú ý nhiều đến hiện tượng trong giới tự nhiên và trong mỗi hiện tượng rất bình thường, thánh nhân cũng đều tìm kiếm những ý nghĩa đạo lí. Với cách tìm ý nghĩa đạo lí như vậy phong cảnh là núi, sông, núi là sự yên tĩnh, vững chãi, sông là sự lưu chuyển không ngừng; mặt trăng là sự tròn khuyết, sự thịnh suy; bốn mùa là sự thay đổi... Giới tự nhiên không còn là thế giới khách quan sinh động mà chỉ là sự khác biệt chứng minh cho sự phong phú về hình thức của Đạo... Thực tế bị ép mất đi sức sinh động mà biến thành những mẫu, những vật tượng trưng để nói về Đạo’’(3). Khổng Tử nói: “Tuế hàn nhiên hậu tri tùng bách chi hậu điêu dã’’ (tiết lạnh đến mới hay cây tùng, cây bách là những cây điêu tàn sau nhất), các nhà Nho sau này đều ảnh hưởng tư tưởng này, mượn cảnh vật tự nhiên để kí thác những phẩm chất đạo đức cao quý của mình, ví dụ như Khuất Nguyên lấy “quất tụng’’, Đào Uyên Minh lấy hoa cúc... Từ thực tiễn sáng tác thơ vịnh thiên nhiên của các nhà Nho, nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc viết: “Theo quan niệm của Nho giáo, cái mẫu mực thuộc về quá khứ, và cái trong sạch chủ yếu lại ở trong thiên nhiên. Các nhà Nho theo quan niệm xuất xử của Nho giáo, gặp thời thịnh trị thì ra làm việc, phò vua giúp nước, gặp thời loạn thì lui về ở ẩn, lấy thiên nhiên để di dưỡng tính tình. Họ tìm thấy trong thiên nhiên những phẩm chất đạo đức cao quý của con người theo quan niệm Nho giáo: cây tùng là hình ảnh người đại trượng phu, cây trúc là hình ảnh người sĩ quân tử, cúc, mai, là biểu hiện của sự trong trắng, tinh khiết; ngư, tiêu, canh, mục là những nghề trong sạch; tuyết, nguyệt, phong, hoa là những cái thú thanh tao... Họ làm thơ vịnh thiên nhiên là vì vậy’’(1). Như vậy, về tự nhiên quan của Nho giáo, Nho giáo ảnh hưởng tư tưởng “thiên nhân hợp nhất”, giữa con người và thiên nhiên có sự giao cảm, tương thông, nhưng sự hợp nhất này không phải lấy vẻ đẹp và sự phong phú của thiên nhiên làm chủ, mà nó đi vào phương diện đạo đức ẩn sau phong cảnh thiên nhiên làm chủ. Trạng thái hợp nhất giữa con người và thiên nhiên ở đây là sự hợp nhất giữa thiên nhiên và tinh thần đạo đức của con người Nho giáo.
Về tự nhiên quan của tư tưởng Lão- Trang, có lẽ không có một học thuyết nào trong “bách gia’’ có thể “tranh minh’’ được với tư tưởng Lão- Trang về phương diện yêu mến cảnh đẹp của thiên nhiên. Tư tưởng “đạo pháp tự nhiên’’ của Lão Tử không chỉ chủ trương xuất thế; bất tranh; tri túc; không bộc lộ sắc sảo...mà còn yêu cầu con người phải sống gần gũi tự nhiên, hướng tới vẻ đẹp thuần khiết của tự nhiên. Tư tưởng hướng tới tự nhiên đến Trang Tử lại được phát triển coi trong hơn. Trong Nam hoa kinh, Trang Tử có nhiều thiên thể hiện sự yêu thích của con người với vẻ đẹp của thiên nhiên: “sơn lâm dữ? cao nhưỡng dữ? sử ngã hân hân nhiên nhi thuỷ dữ? Lạc vị tất dã, ai hựu kế chi’’ (núi rừng ư? gò đất cao bên sông ư? tất cả đều làm ta vui vẻ, vậy vui vẻ ở đâu? Vui vẻ cuối cùng cũng qua đi, bi thương lai tiếp tục), (Bắc trí du). Hay: “Nghiêu tri dân dưới trời, sắp chính trong bể, đi sang núi Rưởu Cô Dịch, ra mắt bốn thần(Hứa Do; Vương Nghệ; Bị Y; Khiết Khuyêt) bâng khuâng quên mất thiên hạ của mình’’ (Tiêu dao du)... Lão Tử và Trang Tử cho rằng xã hội văn minh, tinh thần “hữu vi’’ của Nho giáo chỉ đem lại bi ai, kìm kẹp cho con người, từ đó phản đối các luật lệ hà khắc, phản đối sự văn minh các xã hội. Con người chỉ có trở về thời kì “thuần phác’’; “anh nhi’’, mới có lạc thú, mới thoát khỏi những ràng buộc của gông cùm của luật lệ xã hội. Con người chỉ có hoà vào thiên nhiên mới có lac thú. Trong Nam