Giống như các thực thể sống, doanh nghiệp cũng có các giai đoạn ra đời, phát triển, suy vong, và chấm dứt hoạt động. Trong quãng đời của mình, doanh nghiệp có nguy cơ bị Toà án tuyên bố phá sản bất cứ khi nào lâm vào tình trạng phá sản.
Thuật ngữ "Phá sản" thường được sử dụng để chỉ những chủ thể bị lâm vào tình trạng hỗn loạn về tài chính và không còn khả năng thanh toán các khoản nợ.
Có nhiều mức độ phá sản khác nhau, bao gồm từ tình trạng bị mất khả năng thanh toán tạm thời cho đến những trường hợp chấm dứt sự hoạt động của doanh nghiệp với tư cách một thực thể kinh doanh.
52 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1234 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự cần thiết về việc xây dựng một quy chế pháp lý riêng trong phá sản các ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 03 năm 2011
Giảng viên
Thầy DƯƠNG KIM THẾ NGUYÊN
Sinh viên thực hiện
LÊ NAM PHƯƠNG- LỚP TC003k35
SỰ CẦN THIẾT VỀ VIỆC XÂY DỰNG MỘT QUY CHẾ PHÁP LÝ RIÊNG TRONG PHÁ SẢN CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Đề tài:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
…………0o0…………
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
2
I. PHÁ SẢN
2
1. Khái niệm
2
2. Các tác động của phá sản
2
3. Có các hình thức phá sản.
3
4. Vấn đề pháp lý trong phá sản
4
II. RÀNG BUỘC TÀI CHÍNH MỀM
5
III. NGÂN HÀNG
5
1. Ngân hàng Thương mại
5
a. Khái niệm
5
b. Vai trò của ngân hàng thương mại (NHTM)
5
2. Ngân hàng Trung Ương
8
CHƯƠNG 2: ĐI TÌM TRIẾT LÝ CỦA LUẬT PHÁ SẢN
9
1. Khi các tổ chức tín dụng (TCTD) cổ phần bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt
9
2. Sự cần thiết của Luật Phá sản
9
3. Vì sao Luật phá sản ít được dùng
10
4. Một số góp ý luật Phá sản
14
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
17
1 . Đánh giá năng lực cạnh tranh
17
2. Thực trạng năng lực cạnh tranh
17
3. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
21
CHƯƠNG 4: TẠI SAO CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM KHÔNG BAO GIỜ BỊ PHÁ SẢN?
23
1. Bài học từ Ngân hàng Việt Hoa là một ví dụ điển hình.
23
2. Tác động của việc phá sản các ngân hàng.
24
Nguy cơ khó khăn của Ngân hàng
27
3. Việc Phá sản các tổ chức tín dụng ở Việt Nam
29
a. Điều kiện xác định TCTD lâm vào tình trạng phá sản
28
b. Trình tự Phá sản các tổ chức Tín dụng (TCTD)
30
c. Những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
30
4. Kiểm soát và cơ chế kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại.
34
5. Vai trò của NHTW là người cho vay cuối cùng Trong điều kiện Ngân hàng thương mại, mất khả năng thanh toán
36
CHƯƠNG 5. THỰC TRẠNG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI HIỆN NAY
37
1. Cùng với việc châu Âu và Mỹ mạnh tay hơn trong việc đóng cửa những ngân hàng có tài sản xấu, nhiều ngân hàng vừa và nhỏ đang đứng trước nguy cơ phá sản
37
2. Chương thứ 11 Luật phá sản Mỹ
39
2. 12 vụ phá sản tồi tệ nhất nước Mỹ
40
TÀI LIỆU THAM KHẢO
48
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
I. PHÁ SẢN
1. Khái niệm
Giống như các thực thể sống, doanh nghiệp cũng có các giai đoạn ra đời, phát triển, suy vong, và chấm dứt hoạt động. Trong quãng đời của mình, doanh nghiệp có nguy cơ bị Toà án tuyên bố phá sản bất cứ khi nào lâm vào tình trạng phá sản.
Thuật ngữ "Phá sản" thường được sử dụng để chỉ những chủ thể bị lâm vào tình trạng hỗn loạn về tài chính và không còn khả năng thanh toán các khoản nợ. Có nhiều mức độ phá sản khác nhau, bao gồm từ tình trạng bị mất khả năng thanh toán tạm thời cho đến những trường hợp chấm dứt sự hoạt động của doanh nghiệp với tư cách một thực thể kinh doanh.
2. Các tác động của phá sản Xét tổng thể, các tác động của phá sản là tiêu cực dưới các mặt sau: Về mặt kinh tế: Một doanh nghiệp bị phá sản trong điều kiện ngày nay có thể dẫn đến những tác động tiêu cực. Khi quy mô của doanh nghiệp phá sản càng lớn, tham gia vào quá trình phân công lao động của ngành nghề đó càng sâu và rộng, số lượng bạn hàng ngày càng đông, thì sự phá sản của nó có thể dẫn đến sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp bạn hàng theo "hiệu ứng domino" - phá sản dây chuyền. Về mặt xã hội: Phá sản doanh nghiệp để lại những hậu quả tiêu cực nhất định về mặt xã hội bởi nó làm tăng số lượng người thất nghiệp, làm cho sức ép về việc làm ngày càng lớn và có thể làm nảy sinh các tệ nạn xã hội, thậm chí các tội phạm. Về mặt chính trị: Phá sản dây chuyền sẽ dẫn tới sự suy thoái và khủng hoảng nền kinh tế quốc gia, thậm chí khủng hoảng kinh tế khu vực và đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những khủng hoảng sâu sắc về chính trị. Như vậy, xét ở ba mặt trên, phá sản với tính cách là một hiện tượng xã hội tiêu cực cần được hạn chế và ngăn chặn đến mức tối đa. Để hạn chế các tác động tiêu cực, phá sản cần phải được coi là sự lựa chọn cuối cùng và duy nhất của chính phủ đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Yêu cầu này cần phải được thể hiện một cách nhất quán trong pháp luật phá sản qua các nội dung như: tiêu chí xác định một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, vấn đề hồi phục doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, thứ tự ưu tiên thanh toán các khoản nợ khi tuyên bố phá sản…
3. Có các hình thức phá sản.
Nếu căn cứ vào đối tượng có thể bị tuyên bố phá sản, có hai loại Phá sản cá nhân và Phá sản doanh nghiệp. Cá nhân ở đây có thể là các chủ thể như chủ doanh nghiệp tư nhân, cá nhân đăng ký kinh doanh, thành viên hợp doanh trong các công ty hợp danh…
Nếu căn cứ vào mục đích sử dụng các khoản vay có nguy cơ không được thanh toán, có hai loại Phá sản trong tiêu dùng và Phá sản trong kinh doanh. Phá sản trong tiêu dùng xảy ra khi cá nhân bị vỡ nợ dân sự do vay mượn vì mục đích tiêu dùng. Tương tự, phá sản trong kinh doanh xảy ra khi doanh nghiệp/ cá nhân lâm vào tình trạng phá sản dùng khoản vay vào mục đích kinh doanh.
Nếu căn cứ vào tính chất của vụ phá sản, có hai loại Phá sản về hiệu quả kinh tế và Phá sản về tài chính:
Phá sản về hiệu quả kinh tế là tình trạng các khoản lợi nhuận ròng thu được từ hoạt động kinh doanh không tương xứng với vốn đầu tư đã bỏ ra. Mức lợi nhuận tương xứng ở đây được hiểu là mức lợi nhuận cơ hội tương ứng với mức rủi ro của cuộc đầu tư đó. Một doanh nghiệp có thể bị lâm vào tình trạng phá sản về hiệu quả kinh tế ngay cả trong trường hợp doanh nghiệp đó không có bất cứ món nợ nào. Bởi lẽ, đối tượng chính được đề cập trong hình thức phá sản này là lợi nhuận kinh doanh được đo lường độc lập với chi phí trả lãi vay của doanh nghiệp;
Phá sản về tài chính được dùng để chỉ một doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng không được thực hiện các nghĩa vụ trả nợ mà nó đã cam kết với các chủ nợ theo đúng kỳ hạn. Một doanh nghiệp bị thua lỗ liên tục trong kinh doanh (phá sản về hiệu quả kinh tế) sẽ bị gánh nặng nợ nần chồng chất và sẽ dẫn tới tình trạng bị phá sản về tài chính.
Nếu căn cứ vào nguyên nhân phá sản, có Phá sản trung thực và Phá sản man trá. Phá sản trung thực là hậu quả khách quan và trực tiếp của tình trạng không thích ứng của doanh nghiệp mắc nợ trước các đòi hỏi khắt khe và nghiệt ngã của thương trường Tức là việc phá sản xuất phát từ những nguyên nhân khách quan như thiên tai, địch hoạ, khủng hoảng kinh tế, chiến tranh, chênh lệch tỷ giá hối đoái… Phá sản man trá hoàn toàn là hậu quả của những thủ đoạn, hành vi gian dối, có sự sắp đặt từ trước của chủ doanh nghiệp mắc nợ lợi dụng cơ chế phá sản để chiếm đoạt tài sản của các chủ nợ. Chẳng hạn, con nợ gian lận trong việc ký kết các hợp đồng chuyển giao tài sản, báo cáo sai hoặc đưa ra những thông tin không trung thực... Đây là một hành vi cạnh tranh nguy hiểm và vì vậy thường được xử lý rất nghiêm khắc về mặt hình sự.
Nếu dựa vào cơ sở làm phát sinh quan hệ pháp lý về phá sản, có Phá sản tự nguyện (Voluntary Bankruptcy) và Phá sản bắt buộc (Involuntary Bankruptcy). Phá sản tự nguyện là do chủ doanh nghiệp mắc nợ tự đề nghị khi thấy doanh nghiệp hoàn toàn mất khả năng thanh toán, không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho các chủ nợ. Phá sản bắt buộc được thực hiện trên cơ sở yêu cầu của các chủ nợ, nằm ngoài ý muốn chủ quan của doanh nghiệp mắc nợ. 4. Vấn đề pháp lý trong phá sản Pháp luật phá sản là một tổng thể thống nhất các quy phạm pháp luật nhằm hướng đến việc giải quyết đúng đắn yêu cầu tuyên bố phá sản, trong đó luật phá sản đóng vai trò trung tâm vì nó quy định những vấn đề có tính nguyên tắc của thủ tục giải quyết một vụ phá sản. Pháp luật về phá sản điều chỉnh các nhóm vấn đề chính sau đây: i) Tiêu chí xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản; ii) Thủ tục phá sản; iii) Thanh lý tài sản phá sản; iv) Xử lý các khoản nghĩa vụ; v) Thi hành phán quyết phá sản của Toà án. Pháp luật về phá sản luôn là một hệ thống mở và vận động để phù hợp với các yêu cầu của mỗi nền kinh tế ở các giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên sự hình thành nhanh chóng các công ty đa quốc gia cùng với toàn cầu hoá trong điều kiện hiện nay đòi hỏi các nền kinh tế phải có cách nhìn nhận hiện tượng phá sản một cách thống nhất, và sư hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia để bảo đảm an ninh kinh tế chung trên cơ sở giảm thiểu các bất lợi bắt nguồn từ phá sản. Mới đây, vấn đề phá sản của các công ty xuyên quốc gia lần đầu tiên được Liên minh Châu Âu quy định trong một quy chế được áp dụng đối với tất cả các quốc gia thành viên. Theo đó, quyết định tuyên bố phá sản của toà án thuộc một trong những quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu đương nhiên có hiệu lực thi hành tại tất cả các quốc gia thành viên.
II. RÀNG BUỘC TÀI CHÍNH MỀM
Ràng buộc tài chính “mềm” là một thuật ngữ chuyên môn chỉ tình trạng một doanh nghiệp không quan tâm nghiêm túc đến việc thua lỗ tài chính và luôn luôn kỳ vọng rằng chính phủ hay một bên thứ ba sẽ đứng ra cứu giúp khi phải đối mặt với phá sản. Chính sách bao cấp của chính phủ đối với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước là cơ sở cho tình trạng này.
III. NGÂN HÀNG
Ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ vật quý cho những người sở hữu nó tránh mất mát, đổi lại người chủ sở hữu phải trả cho người cầm giữ hộ một khoản tiền công. Khi xã hội phát triển, thương mại phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn thì ngân hàng trở thành nơi giữ tiền cho những người có tiền và cung cấp tiền cho những người cần tiền. Ngân hàng là một định chế tài chính trung gian, sẽ huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội và dùng chính tiền đó cho các cá nhân và tổ chức vay lại, và rất hiếm khi có tình trạng cùng một lúc tất cả chủ tiền gửi đến đòi nợ ngân hàng, đó chính là nguyên tắc cơ bản đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng. Căn cứ vào chức năng, ngân hàng được chia làm hai loại: Ngân hàng Thương mại và Ngân hàng Nhà nước.
1. Ngân hàng thương mại
a. Khái niệm
Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu. Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa đặc biệt đó là "vốn- tiền", trả lãi suất huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi nhuận của ngân hàng thương mại.. Hoạt động của ngân hàng thương mại phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội. Khác hẳn với ngân hàng thương mại, ngân hàng Nhà nước (ngân hàng Trung ương) không hoạt động vì mục đích lợi nhuận và cũng không kinh doanh tiền tệ. Mỗi một quốc gia chỉ có một ngân hàng Nhà nước duy nhất, có thể gọi là ngân hàng mẹ có chức năng phát hành tiền, quản lý, thực thi và giám sát các chính sách tiền tệ; và có rất nhiều ngân hàng thương mại, có thể coi là các ngân hàng con có chức năng thực hiện lưu chuyển tiền trong nền kinh tế. Trong trường hợp ngân hàng thương mại đứng trên bờ vực phá sản, ngân hàng Trung ương sẽ là nguồn cấp vốn cuối cùng mà ngân hàng thương mại tìm đến.
Trong ngân hàng thương mại, tiền huy động được của người gửi gọi là tài sản "nợ", tiền cho công ty và các cá nhân vay cũng như tiền gửi ở các ngân hàng khác và số trái phiếu ngân hàng sở hữu gọi là tài sản "có" của ngân hàng. Phần chênh lệch giữa số tiền huy động được và số tiền đem cho vay, gủi ngân hàng và mua trái phiếu gọi là vốn tự có. Phần tài sản có tính thanh khoản cao được giữ để đề phòng trường hợp tiền gửi vào ngân hàng bị rút đột ngột gọi là tỉ lệ dự trữ của ngân hàng. Toàn bộ số vốn của ngân hàng được chia làm hai loại vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Vốn cấp 1 còn gọi là vốn nòng cốt, về cơ bản bao gồm vốn điều lệ, lợi nhuận không chia và các quỹ dự trữ lập trên cơ sở trích từ lợi nhuận của tổ chức như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển. Vốn cấp 2 bao gồm: phần giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản của tổ chức, nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ bên ngoài (như trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số công cụ nợ khác).
Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, ngân hàng thương mại thực sự đóng một vai trò rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu. Năm 2005-2006 Việt Nam đã tích cực đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại Nhà nước với mục đích quan trọng nhất là nâng cao năng lực tài chính của các tổ chức này. Tính đến tháng 2-2007 đã có 34 ngân hàng thương mại hoàn tất việc cổ phần hóa với tổng số vốn điều lệ trên 21.000 tỷ đồng , trong đó Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn Thương tín có số vốn điều lệ cao nhất là trên 2.089 tỷ đồng.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng vay tiền của người gửi và cho các công ty và cá nhân vay lại. Tiền huy động được của người gửi gọi là tài sản “nợ” của ngân hàng. Tiền cho công ty và cá nhân vay lại cũng như tiền gửi ở các ngân hàng khác và số trái phiếu ngân hàng sở hữu gọi là tài sản “có” của ngân hàng. Phần chênh lệch giữa số tiền huy động được và số tiền đem cho vay, gửi ngân hàng và mua trái phiếu gọi là vốn tự có của ngân hàng thương mại. Phần tài sản có tính thanh khoản được giữ để đề phòng trường hợp tiền gửi vào ngân hàng bị rút ra đột ngột gọi là tỷ lệ dự trữ của ngân hàng. Toàn bộ số vốn của ngân hàng được chia làm hai loại: vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Vốn cấp 1, còn gọi là vốn nòng cốt, về cơ bản bao gồm vốn điều lệ cộng với lợi nhuận không chia cộng với các quỹ dự trữ được lập trên cơ sở trích lập từ lợi nhuận của tổ chức tín dụng như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển. Vốn cấp 2 về cơ bản bao gồm: (i) phần giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản của tổ chức tín dụng (ii) nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ bên ngoài (bao gồm trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số công cụ nợ thứ cấp nhất định) và (iii) dự phòng chung cho rủi ro tín dụng.
b. Vai trò của ngân hàng thương mại (NHTM)
Vai trò tập trung vốn của nền kinh tế Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng một cách triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra lưu thông) nhưng họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có những chủ thể cần tiền để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết nhau và cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân hàng thương mại với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay vay. Thực hiện được điều này NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế; mặt khác với số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế để sản xuất kinh doanh. Qua đó nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay và với số lãi suất chênh lệch có được nó sẽ duy trì họat động của mình.Vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu,… NHTM có thể làm trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư; chuyển giao mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhận việc mua trái phiếu công ty…
Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán Chức năng này có nghĩa là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khỏan. Khi các khách hàng gởi tiền vào ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh chóng tiện lợi, nhất là đối với các khỏan thanh tóan có giá trị lớn, ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém khó khăn và không an toàn (ví dụ: chi phí lưu thông, vận chuyển, bảo quản…).Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông và độc quyền quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán..) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều vể chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Ở các nước phát triển phần lớn thanh toán được thực hiện qua sec và được thực hiện bằng việc bù trừ thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Ngoài ra việc thực hiện chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán đã tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay.Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử dụng hình thức chuyển tiền bằng đện tử là chuyện bình thường và chính điều này đưa đến việc không sử dụng sec ngân hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng cách nối mạng các máy vi tính của các ngân hàng thương mại trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài khoản người này sang người khác một cách nhanh chóng.
Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp Vào cuối thế kỉ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân hàng không còn họat động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng là ngân hàng của các ngân hàng. Các ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ họat động trong hệ thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.
2. Ngân hàng Trung Ương
Ngân hàng trung ương là ngân hàng độc quyền phát hành tiền. Với vai trò phát hành độc quyền tiền trên toàn quốc như phương tiện trao đổi, ngân hàng trung ương trực tiếp quản lý cung ứng tiền mặt. Việc quản lý mức độ cung ứng tiền mặt là công cụ thứ nhất giúp ngân hàng trung ương điều tiết mức cung ứng tiền tổng hợp.
Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của hệ thống các ngân hàng trung gian. Ngân hàng trung ương là trung tâm thanh toán, chuyển nhượng, bù trừ của các ngân hàng trung gian.
Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng, đại lý và cố vấn cho chính phủ. Ngân hàng trung ương là ngân hàng trực tiếp quản lý dự trữ quốc gia
CHƯƠNG 2: ĐI TÌM TRIẾT LÝ CỦA LUẬT PHÁ SẢN
Đối chiếu với tình trạng nợ đọng phổ biến của doanh nghiệp Nhà nước và sự bùng nổ của hàng chục vạn doanh nghiệp dân doanh mỗi năm trong đó vô số doanh nghiệp làm ăn yếu kém hoặc vỡ nợ lặn lẽ rút lui dần khỏi thị trường, sự vắng bóng của một trật tự pháp luật dàn xếp quyền lợi của chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ một cách văn minh đang đặt ra nhiều vấn đề cần có lời giải đáp.
1. Khi các tổ chức tín dụng (TCTD) cổ phần bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt
Theo Điều 5 Quy chế kiểm soát đặc biệt đối với các TCTD cổ phần Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 215/1998/QĐ-NHNN5 ngày 23/6/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, các TCTD cổ phần có thể được đặt vào trong tình trạng kiểm soát đặc biệt khi lâm vào một hoặc một số trường hợp sau đây:
(i) Có nguy cơ mất khả năng chi trả, biểu hiện bằng 03 lần liên tiếp trong 1 tháng không duy trì được giá trị tài sản động tương đương với các khoản phải chi trả trong 3 ngày làm việc tiếp theo; không có khả năng huy động để thanh toán những khoản nợ đến hạn;
(ii) Có nguy cơ mất khả năng thanh toán, biểu hiện bằng việc các khoản nợ khó đòi, nợ cho vay quá hạn từ 12 tháng trở lên chiếm trên 10% tổng dư nợ cho vay; các khoản nợ khách hàng không có khả năng thanh toán, không có tài sản thế chấp hợp pháp lớn hơn 100% vốn tự có; số lũy kế lớn hơn 50% tổng số vốn điều lệ thực có và các quỹ.
Việc các TCTD cổ phần bị Ngân hàng Nhà nước quyết định đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt là nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, giúp các TCTD khắc phục những khó khăn về tài chính, duy trì khả năng chi trả, khả năng thanh toán. Kiểm soát đặc biệt và cho vay đặc biệt đối với các TCTD cổ phần đang lâm vào tình trạng như đã liệt kê ở trên chính là việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện pháp quản lý nghiệp vụ đặc biệt để kiểm soát, giám sát trực tiếp tình hình tổ chức và hoạt động của các TCTD.
2. Sự cần thiết của Luật Phá sản
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung do kiểm soát và định đoạt mọi nguồn lực sản xuất, Nhà nước trở thành một xí nghiệp không lồ, các đơn vị kinh doanh không có động lực để cạnh tranh, sự tồn tại của chúng được duy trì theo ý chí của Nhà nước. Kinh tế bao cấp không cần tới luật phá sản. Dấu hiệu sụp đổ của mô hình này có thể