Tiểu luận Tập tục đốt vàng mã tại Việt Nam, lợi và hại

Những năm gần đây việc sản xuất, kinh doanh và sử dụng vàng mã ở nước ta phát triển mạnh mẽ, kèm theo đó là những biến tướng, cũng như những tác động tiêu cực của nó đối với xã hội. Vàng mã hiện nay đang là đề tài “nóng” trên các trang mạng, các trang báo, trong quần chúng nhân dân. Đây cũng là vấn đề đang làm băn khoăn những nhà quản lý trong việc xác định một thái độ ứng xử đúng đắn đối với vàng mã. Từ năm 1998 đến nay, nhiều văn bản pháp luật liên quan đến việc sử dụng vàng mã được đưa ra. Quan sát cho thấy, mức độ quy định của các văn bản pháp luật về việc sử dụng vàng mã ngày càng chặt. Từ việc “vận động nhân dân bỏ dần tục đội mũ rơm, chống gậy, rắc vàng mã dọc đường ”1, kế đến là “hạn chế tối đa việc rắc vàng mã, tiền âm phủ trên đường”,2 đến việc đưa ra những mức hình phạt cụ thể như trong nghị định Nghị định 158/2013/NĐ-CP năm 2013: “Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi đốt vàng mã không đúng nơi quy định tại nơi tổ chức lễ hội, di tích lịch sử - văn hóa”. Bên cạnh đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng đã ra công văn kêu gọi các tăng, ni và phật tử trong cả nước “loại bỏ mê tín dị đoan, đốt vàng mã tại các cơ sở thờ tự Phật giáo.”3 Có thể nói đây là một sự cố gắng của Phật giáo trong vấn đề bài trừ những tập tục sai lạc với giáo lý của nhà Phật đặt biệt là việc sử dụng vàng mã trong giới tăng, ni và phật tử. Hiện nay có hai luồng quan điểm chính về vấn đề sử dụng vàng mã. Luồng quan điểm thứ nhất cho rằng, việc sử dụng hàng mã là lãng phí, một hủ tục cần phải loại bỏ. Trong khi đó, luồng quan điểm thứ hai cho rằng, nó là một nét tín ngưỡng thể hiện những giá trị nhân văn của người đang sống đối với người đã khuất, đối với thần thánh nên hạn chế và đưa nó về bản chất ban đầu vốn có của nó, chứ không nên loại bỏ.4 Mặc dù hiện tại có khá nhiều bài viết liên quan đến tập tục đốt vàng mã trên các trang mạng, cũng như báo giấy. Tuy nhiên, đa phần các bài viết chỉ nêu lên một vài khía cạnh của vàng mã; hoặc chỉ nêu lên nguồn gốc, hoặc chỉ nêu lên những ý nghĩa của vàng mã, hay đa số là các bài viết bài xích, lên án tập tục này. Hiện vẫn chưa thấy có bài viết nào đưa ra một cái nhìn bao quát, khách quan về việc sử dụng vàng mã, mặt tích cực, tiêu cực của nó trong xã hội Việt Nam hiện nay.

pdf18 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 1249 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tập tục đốt vàng mã tại Việt Nam, lợi và hại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRUNG TÂM THẦN HỌC SEDES SAPIENTIAE Ban Triết học TẬP TỤC ĐỐT VÀNG MÃ TẠI VIỆT NAM, LỢI VÀ HẠI Sinh viên: Phạm Trọng Giáo sư: TS. Lý Tùng Hiếu Niên khóa 2017-2018 NHẬN XÉT CỦA GIÁO SƯ XIN KHOANH TRÒN SỐ ĐIỂM Thang điểm UST Xếp hạng Thang điểm 10 1.00 Xuất sắc 9.75-10.00 1.10 9.50 1.15 9.25 1.20 9.00 1.30 Giỏi 8.75 1.35 8.50 1.40 8.25 1.45 8.00 1.55 khá 7.75 1.65 7.50 1.75 7.25 1.85 7.00 1.95 Trung bình khá 6.75 2.10 6.50 2.25 6.25 2.40 6.00 2.55 Trung bình 5.75 2.70 5.50 2.85 5.25 3.00 5.00 3.01 - 5.00 Rớt 4.99 - 1.00 Ngày.. Tháng. Năm. TS. Lý Tùng Hiếu 1 MỤC LỤC 1. Dẫn nhập ........................................................................................................................................ 2 1.1. Lý do chon đề tài ..................................................................................................................... 2 1.2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................................... 3 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 3 1.4. Phương pháp và nguồn tư liệu ................................................................................................ 3 2. Khái niệm và thuật ngữ dùng trong tiểu luận ............................................................................ 3 Vàng mã .............................................................................................................................................. 3 3. Nguồn gốc và đặc điểm của tập tục đốt vàng mã tại việt nam .................................................. 3 3.1. Nguồn gốc tập tục đốt vàng mã .............................................................................................. 3 3.2. Du nhập và phát triển tại Việt Nam ........................................................................................ 6 4. Cách cử hành việc đốt vàng mã hiện nay ở Việt Nam ............................................................... 6 4.1. Thời điểm và sự kiện cần sử dụng vàng mã ............................................................................ 7 4.2. Các lễ vật trong nghi thức hóa vàng........................................................................................ 7 4.3. Nghi thức hóa vàng ............................................................................................................... 10 5. Lợi ích và tác hại của tập quán dùng vàng mã ......................................................................... 10 5.1. Lợi ích của việc đốt vàng mã ................................................................................................ 10 5.2. Tác hại của việc đốt vàng mã ................................................................................................ 11 5.3. Các ý kiến trái chiều liên quan đến việc sử dụng vàng mã ................................................... 13 6. Kết luận ........................................................................................................................................ 14 Phụ lục ..................................................................................................... Error! Bookmark not defined. Thư mục ................................................................................................................................................. 1 2 1. Dẫn nhập 1.1. Lý do chon đề tài Những năm gần đây việc sản xuất, kinh doanh và sử dụng vàng mã ở nước ta phát triển mạnh mẽ, kèm theo đó là những biến tướng, cũng như những tác động tiêu cực của nó đối với xã hội. Vàng mã hiện nay đang là đề tài “nóng” trên các trang mạng, các trang báo, trong quần chúng nhân dân. Đây cũng là vấn đề đang làm băn khoăn những nhà quản lý trong việc xác định một thái độ ứng xử đúng đắn đối với vàng mã. Từ năm 1998 đến nay, nhiều văn bản pháp luật liên quan đến việc sử dụng vàng mã được đưa ra. Quan sát cho thấy, mức độ quy định của các văn bản pháp luật về việc sử dụng vàng mã ngày càng chặt. Từ việc “vận động nhân dân bỏ dần tục đội mũ rơm, chống gậy, rắc vàng mã dọc đường ”1, kế đến là “hạn chế tối đa việc rắc vàng mã, tiền âm phủ trên đường”,2 đến việc đưa ra những mức hình phạt cụ thể như trong nghị định Nghị định 158/2013/NĐ-CP năm 2013: “Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi đốt vàng mã không đúng nơi quy định tại nơi tổ chức lễ hội, di tích lịch sử - văn hóa”. Bên cạnh đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng đã ra công văn kêu gọi các tăng, ni và phật tử trong cả nước “loại bỏ mê tín dị đoan, đốt vàng mã tại các cơ sở thờ tự Phật giáo.”3 Có thể nói đây là một sự cố gắng của Phật giáo trong vấn đề bài trừ những tập tục sai lạc với giáo lý của nhà Phật đặt biệt là việc sử dụng vàng mã trong giới tăng, ni và phật tử. Hiện nay có hai luồng quan điểm chính về vấn đề sử dụng vàng mã. Luồng quan điểm thứ nhất cho rằng, việc sử dụng hàng mã là lãng phí, một hủ tục cần phải loại bỏ. Trong khi đó, luồng quan điểm thứ hai cho rằng, nó là một nét tín ngưỡng thể hiện những giá trị nhân văn của người đang sống đối với người đã khuất, đối với thần thánh nên hạn chế và đưa nó về bản chất ban đầu vốn có của nó, chứ không nên loại bỏ.4 Mặc dù hiện tại có khá nhiều bài viết liên quan đến tập tục đốt vàng mã trên các trang mạng, cũng như báo giấy. Tuy nhiên, đa phần các bài viết chỉ nêu lên một vài khía cạnh của vàng mã; hoặc chỉ nêu lên nguồn gốc, hoặc chỉ nêu lên những ý nghĩa của vàng mã, hay đa số là các bài viết bài xích, lên án tập tục này. Hiện vẫn chưa thấy có bài viết nào đưa ra một cái nhìn bao quát, khách quan về việc sử dụng vàng mã, mặt tích cực, tiêu cực của nó trong xã hội Việt Nam hiện nay. 1 Thông tư số 04/1998/TT-BVHTT ngày 11-7-1998. 2 Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25-11-2005 của Thủ tướng Chính phủ. 3 Công văn 031 /CV-HĐTS ngày 12 tháng 02 năm 2018 Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam. 4 Nguyễn Văn Phải, Chuỗi cung ứng và tiêu thụ hàng mã (Nghiên cứu trường hợp một số hộ gia đình ở thôn Yên Cốc, xã Hồng Phong, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Nhân Học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội 2016, tr. 2. 3 Vì vậy, em chọn đề tài “TẬP TỤC ĐỐT VÀNG MÃ TẠI VIỆT NAM, LỢI VÀ HẠI” làm đề tài tiểu luận kết thúc môn. 1.2. Mục đích nghiên cứu Nhằm cung cấp một cái nhìn tổng quát và khách quan về việc sử dụng vàng mã hiện nay tại Việt Nam. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là hoạt động đốt vàng mã tại Việt Nam hiện nay. 1.4. Phương pháp và nguồn tư liệu Phương pháp nghiên cứu trong tiểu luận này là phương pháp phân tích các nguồn tài liệu thứ cấp, tức, nghiên cứu các tài liệu thành văn có nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu. Sử dụng lý thuyết cơ cấu chức năng của Xã hội học trong việc đánh giá một hoạt động văn hóa, cụ thể ở đây là tập tục đốt vàng mã, nhằm đưa ra những nhận định khách quan về hệ quả chức năng của nó đối với sự vận hành của xã hội. Nguồn tư liệu là các tài liệu thứ cấp liên quan đến đề tài nghiên cứu như: sách, luận văn, tạp chí, các trang mạng internet 2. Khái niệm và thuật ngữ dùng trong tiểu luận Vàng mã Vàng mã (đồ mã, hàng mã) là đồ vật được làm bằng giấy và các vật liệu dễ cháy khác để đốt (còn gọi là hóa) sau khi cúng cho người chết sử dụng ở âm phủ. Các hàng mã có thể là quần áo, tiền bạc, các loại gia súc hay các đồ dùng khác trong đời sống thường ngày của con người.5 Ngày nay, các sản phẩm vàng mã trên thị trường rất đa dạng. Ngoài những mẫu mã truyền thống như tiền giấy, trang phục hay vật dụng lao động, người ta còn “cập nhật” những sản phẩm “thời thượng” trên thị trường như điện thoại thông minh, máy tính, xe hơi, máy bay, v.v. Theo Nguyễn Văn Phải,6 người buôn bán và người sử dụng đều chia vàng mã thành: tiền vàng và đồ mã. Trong đó, tiền vàng là phương tiện trao đổi, đồ mã là đồ dùng sinh hoạt. Trong tiểu luận này, khái niệm vàng mã được dùng chung cho cả tiền vàng và đồ mã. 3. Nguồn gốc và đặc điểm của tập tục đốt vàng mã tại việt nam 3.1. Nguồn gốc tập tục đốt vàng mã 5 Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, Từ điển bách khoa Việt Nam (tập 1), Nxb Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, 1995, tr. 839. 6 Nguyễn Văn Phải, Chuỗi cung ứng và tiêu thụ hàng mã (Nghiên cứu trường hợp một số hộ gia đình ở thôn Yên Cốc, xã Hồng Phong, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Nhân Học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội 2016, tr. 10. 4 Có ý kiến cho rằng, tục hoá vàng hay đốt vàng mã là một hiện tượng văn hoá nội sinh có truyền thống lâu đời và gắn liền với truyền thống thờ cúng tổ tiên ông bà của người Việt cổ. Nhưng tới nay vẫn chưa có bất cứ tài liệu nào cho thấy vàng mã được tạo ra bởi người Việt. Phần lớn các nhà nghiên cứu đồng tình quan điểm rằng, tập tục đốt vàng mã không phải là sáng kiến của một tộc người Việt Nam nào, mà nó xuất phát từ Trung Hoa. Một trong những tác phẩm đề cập đến vàng mã sớm nhất là tác phẩm Vân đài loại ngữ (1773)7 của Lê Quý Đôn. Nội dung liên quan đến vàng mã trong tác phẩm này được nhiều nhà nghiên cứu hiên nay sử dụng. Trong tác phẩm Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn đã đề cập về sự xuất hiện của vàng mã ở Trung Hoa như sau: “Đến đời Đường Huyền Tông8, việc quỷ thần phiền nhiễu quá, lấy tiền đâu cho đủ. Vương Dư làm tiền giấy thay cho ngọc và lụa.” Như vậy, dưới thời Đường Huyền Tông, Vương Dư đã chế ra tiền giấy thay cho tiền thật và các vật dụng sinh hoạt khác để đốt cho các vong linh, quỷ và thần. Đến đời Túc Tông (756-761) Vương Dư được đặt làm từ tế sứ (quan coi tế lễ ở các đền), tiếp tục dùng vàng mã để phục vụ cho các lễ tế. Cũng theo Lê Quý Đôn, người Trung Hoa vào thời vua Ngũ Đại (907-959) đã bắt đầu chế ra mũ áo mã (tức đồ mã) để đốt trong các dịp tang ma, lễ tế. Kế đến là bài viết của hòa thượng Thích Tố Liên được đăng trên báo Đuốc Tuệ, số ra năm 1952, tựa đề "Nguyên nhân tục lệ đốt vàng mã". Bài viết là một nổ lực của vị hòa thượng trong việc chấn hưng Phật giáo, bài trừ mê tín, dị đoan trong Phật giáo Việt Nam, trong đó có tập tục đốt vàng mã. Trong bài viết, hòa thượng Thích Tố Liên đã nêu lên một cách khá chi tiết về nguồn gốc phát xuất của tập tục đốt vàng mã cũng như sự phát triển của vàng mã qua các thời kỳ ở Trung Hoa. Sau đây là trích đoạn của bài viết về nguồn gốc và sự phát triển của tập tục đốt vàng mã ở Trung Hoa: Đọc kinh Dịch nhà Nho, chúng ta thấy rằng: tục chôn người chết của người Trung Hoa về đời thượng cổ, một khi có người chết cứ để thế đem chôn, không quan không ván, lại cũng không khanh phần mộ gì cả. Đến đời vua Hoàng đế (267 TCN) cho rằng: con cháu đối với ông bà, cha mẹ trong việc mai táng cẩu thả như thế là thiếu bổn phận, mới sai ông Xích Xương sáng chế ra quan, quách để chôn cất. Trải qua đời Hoàng đế, đến đời Đường Ngu, tục lệ chôn cất người chết chỉ có thế Đời Hán Hoa đến năm Nguyên Hưng nguyên niên (năm 105), ông Thái Luân bắt đầu lấy vỏ cây dó và vải rách, lưới rách đem chế ra giấy, vì đã có giấy, ông Vương Dũ liền chế ra vàng bạc, quần áo,... đều bằng đồ giấy để cúng rồi đốt đi để thay thế cho vàng bạc và đồ dùng thật trong khi tang ma, tế lễ. Sách Thông Giám cương mục có chép: vì vua Huyền Tông9 7 Vân đài loại ngữ (1773), Lê Quý Đôn, biên dịch Trần Văn Giáp, hiệu đính Cao Xuân Huy, nxb Văn hóa-Thông tin, 1962. Phần nói về vàng mã nằm từ trang 192 đến trang 193 . 8 Đường Huyền Tông, trị vì từ 712-756, vị Hoàng đế thứ 7 của Triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng_Huy%E1%BB%81n_T%C3%B4ng. 9 Huyền Tông hay còn gọi là Đường Huyền Tông. 5 mê thuật quỷ thần mới dùng ông Vương Dũ làm quan Thái thường bác sỹ để coi việc chế vàng mã dùng khi nhà vua có tế lễ. Về tục đốt vàng mã vào ngày rằm tháng 7 là do xuất phát từ câu chuyện: Vào thời vua Đại Tông nhà Đường (762 - 779), nhằm lúc Phật giáo cực thịnh, một vị sư tên là Đạo Tăng muốn cho dân chúng theo Phật giáo, bèn lợi dụng tục đốt vàng mã của người dân, vào tâu với nhà vua rằng: “Rằm tháng Bảy là ngày của Diêm Vương ở âm phủ xét tội phúc thăng trầm, nhà vua nên thông sức cho thiên hạ, trong việc lễ cúng gia tiên vào ngày rằm tháng Bảy nên đốt nhiều vàng mã để cúng biếu các vong nhân dùng”. Vua Đại Tông đương muốn được lòng dân nên rất hợp ý với lời tâu của Đạo Tăng, liền hạ chiếu cho thiên hạ, từ đó nhân dân lại thi nhau đốt vàng mã vào ngày rằm tháng Bảy để kính biếu gia tiên. Nhưng chẳng bao lâu lại bị giới Tăng sĩ Phật giáo công kích bài trừ, vì cho rằng việc đốt vàng mã vào ngày lễ trọng của Phật giáo đã làm cho cái lệ ngày 15/7 không còn có chính nghĩa nữa. Phần lớn dân chúng Trung Hoa hồi đó đã tỉnh ngộ, cùng nhau bỏ tục đốt vàng mã, làm cho các nhà chuyên sinh sống về nghề nghiệp vàng mã gần như bị thất nghiệp, nhất là người Vương Luân, dòng dõi của Vương Dũ, đã bịa đặt chế ra đồ vàng mã. Thất nghiệp, Vương Luân mới bàn cùng với các bạn đồng nghiệp âm mưu phục hưng lại nghề nghiệp hàng mã. Một người giả cách ốm mấy hôm, rồi tin chết được loan ra, còn cái xác giả chết kia lập tức được khâm liệm vào quan tài, đã có lỗ hổng và sẵn sàng thức ăn, nước uống. Đương khi xóm làng đến thăm viếng đông đúc, Vương Luân với gia nhân và họ hàng của ông, đem cả hàng ngàn loại đồ mã trong đó có cả hình nhân thế mệnh ra cúng người chết. Họ bày đàn cúng các quan thiên phủ, địa phủ và nhân phủ, khi mọi người đương suýt xoa khấn khứa, bỗng trăm nghìn mắt như một, trông thấy hai năm rõ mười, cỗ quan tài rung động lên. Bấy giờ, Vương Luân đã đứng sẵn bên quan tài, người giả chết kia cũng lò dò ngồi dậy, giả vờ lù dù, trông trước, trông sau, mới bước từ quan tài ra, với một điệu bộ như người chết đi sống lại, rồi thuật lại chuyện với công chúng rằng: “Các thần thánh trong tam, tứ phủ vừa nhận được hình nhân thế mệnh cho tôi, với tiền bạc và đồ mã, nên mới tha cho ba hồn bảy vía của tôi được phục sinh về nhân thế”. Công chúng lúc đó ai cũng tưởng thật, cho rằng hình nhân có thể thế mạng được và thánh thần trong tam, tứ phủ cùng ăn lễ đồ mã, tăng phúc, giảm tội và cho tăng thêm tuổi thọ. Từ đấy các nghề hàng mã lại được phục hưng một cách nhanh chóng vì không những linh hồn các gia tiên dùng vàng mã, mà đến cả thiên, địa, quỷ, thần trong tam, tứ phủ cũng tiêu dùng đồ vàng mã. Chuyện này còn chép rõ ràng ở sách Trực ngôn cảnh giáo. 10 Như chúng ta thấy, ở hai tác phẩm này có sự đồng nhất về thời gian xuất hiện vàng mã là vào thời vua Huyền Tông (712-756). Tuy nhiên, tên vị quan đã chế ra vàng mã lại không trùng khớp (có thể do cách dịch, hoặc lỗi trong khi ghi chép). Lê Quý Đôn 10 Hòa Thượng Thích Tố Liên, Nguyên Nhân Tục Đốt Vàng Mã, truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2018. 6 cho rằng, người chế ra vàng mã là Vương Dư, còn hòa thượng Thích Tố Liên, theo sách Trực ngôn cảnh giáo, cho rằng do Vương Dũ. Tuy nhiên, cả hai đều cho rằng vàng mã được tạo ra bởi người Trung Hoa vào thời vua Huyền Tông, nhà Đường. Đây cũng là quan điểm của Toan Ánh trong tác phẩm Tín ngưỡng Việt Nam11, và đó cũng là quan điểm được nhiều nhà nghiên cứu hiện nay sử dụng. 3.2. Du nhập và phát triển tại Việt Nam Cho đến hiện nay, chưa có bất cứ tài liệu nào cho ta biết nghề làm hàng mã, tục đốt vàng mã du nhập, xuất hiện ở nước ta chính xác từ bao giờ. Theo các nhà nghiên cứu có lẽ vàng mã được du nhập vào nước ta trong thời kỳ Bắc thuộc (111 TCN - 938 SCN). Ở nước ta, trước Đổi mới, dưới sự ảnh hưởng của mạnh mẽ của hệ tư tưởng vô thần, nhiều loại hình tôn giáo, tín ngưỡng và hoạt động thờ cúng bị hạn chế . Các hoạt động như bói toán, hầu đồng, gọi hồn cũng như đốt vàng mã bị coi là mê tín dị đoan và bị nghiêm cấm hoạt động. Việc sản xuất, tiêu thụ vàng mã tạm thời lắng xuống. Bước vào công cuộc đổi mới đất nước, được đánh dấu từ năm 1986, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những đổi mới tư duy, đường lối và chính sách về tôn giáo, tín ngưỡng. Điều này được Đảng và Nhà nước Việt Nam cụ thể hóa bằng hàng loạt các văn bản như: Nghị quyết số 24, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Tiếp theo đó là một loạt các văn kiện, quy định mới về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng được đưa ra từ năm 1990 đến nay.12 Có thể nói, các văn bản trên đều đề cập đến vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng trên tinh thần đổi mới. Một trong những điểm quan trọng của tinh thần đổi mới là “tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân”. Từ đó, nhiều vấn đề cơ bản, quan trọng của các tôn giáo đã cơ bản được giải quyết. Cùng với đó, nhiều tôn giáo, tín ngưỡng dân gian đã “trở lại” và “hồi sinh”. Một trong những biểu hiện của sự hồi sinh tôn giáo là sự trỗi dậy của nhiều hoạt động tôn giáo mà trước đây quan niệm là mê tín: bói quẻ, xin sớ, bấm độn, xóc thẻ, xem tử vi, xem phong thủy, hầu đồng, gọi hồn, chạy đàn, cúng sao giải hạn. Theo đó, vàng mã cũng có điều kiện thuận lợi để phát triển. Trong những năm gần đây, việc sản xuất, kinh doanh, sử dụng vàng mã đã phát triển mạnh mẽ trong xã hội Việt Nam, song song với nó là những biến tướng cũng như những ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội. 4. Cách cử hành việc đốt vàng mã hiện nay ở Việt Nam 11 X. Tín ngưỡng Việt Nam (quyển hạ), Toan Ánh, nxb Văn nghệ, TP. HCM, 2000, tr. 368. 12 X. Nguyễn Văn Phải, Chuỗi cung ứng và tiêu thụ hàng mã (Nghiên cứu trường hợp một số hộ gia đình ở thôn Yên Cốc, xã Hồng Phong, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Nhân Học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội 2016, tr. 59. 7 4.1. Thời điểm và sự kiện cần sử dụng vàng mã Thông thường, các nghi lễ thờ cúng và đốt vàng mã vào các dịp lễ trong năm như: cúng ông Công, ông Táo; cúng Tất niên, cúng Giao thừa và 3 ngày tết; cúng các ngày rằm, mồng một trong tháng. Phạm vi cúng lễ diễn ra ở từng cá nhân, từng hộ gia đình, trong phạm vi làng và cả những nơi sinh hoạt tín ngưỡng khác trong phạm vi cả nước (đình, chùa, miếu, phủ). Ngoài các dịp lễ như đã kể trên, người dân còn cúng và đốt vàng mã vào các dịp đặc biệt khác như: cúng thôi nôi đầy tháng, trước ngày đi xa (có thể là đi học, đi làm ăn), lễ động thổ xây nhà, lễ tân gia, mở cửa hàng, học hành thi cử; thăng quan tiến chức hay các dịp tang ma, cúng giỗ của gia đình, cúng dâng sao giải hạn, trừ tà, cắt tiền duyên, gia đình có bất ổn (bản thân hoặc con cái ốm đau, bệnh tật), v.v..13 4.2. Các lễ vật trong nghi thức hóa vàng Đồ vàng mã sử dụng trong các nghi lễ tại Việt Nam hết sức đa dạng. Chủng loại và số lượng cũng rất khác nhau trong các ngày lễ, các sự kiện. Hơn nữa, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của người sử dụng mà các lễ vật bằng vàng mã sẽ có sự khác. Sau đây xin được nêu lên các lễ vật bằng vàng mã trong một số ngày lễ quan trọng trong năm.  Thờ Mẫu Vàng mã là một lễ vật đặc biệt quan trọng trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Nó dường như không thể thiếu trong các buổi lễ. Cũng vậy, số lượng và các loại vàng mã theo quy định cũng rất đa dạng. Đầu tiên là những đồ mã trong lễ “Phát Tấu”- lễ này được tiến hành ngày hôm trước của ngày ra hầu đồng với ý nghĩa thỉnh Thánh, thỉnh Phật về chứng giám đàn tràng cho gia chủ để trở thành một tân đồng. Ngoài các đồ vật, lễ vật cần thiết theo quy định ra đồng, đồ mã bao gồm: bộ mũ gồm 5 mũ quan 5 màu, 5 ngựa nhỏ, 5 bộ quần áo và hia, nghìn vàng. Các đồ mã này được dâng lên các quan sứ giả, thỉnh nhờ các ngài hay thanh đồng đi mời chư vị trong tứ phủ. Tiếp đến là các đồ mã chuẩn bị trong ngày Mở phủ: trong lễ này đồ mã được sử dụng rất nhiều với nhiều kiểu loại khác nhau và được quy định