Từmột công ty sáng lập bởi hai chàng trai trẻlà Bill Gates và Paul Allen mới ở đầu tuổi 20, sau gần 35 năm Microsoft đã trởthành công ty lớn nhất thếgiới đạt giá trị500 tỷ đô la trên thịtrường chứng khoán. Thành công vang dội có một không hai trong lịch sửnày chính là nhờsựlãnh đạo sáng suốt của ban lãnh đạo Công ty đứng đầu là Bill Gates và hoạt động sáng tạo,nhiệt tình của một đội ngũcác nhà lập trình và quản lý cũng còn rất tr
30 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2516 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu chính sách quản trị nhân sự và hoạch định chiến lược kinh doanh của tập đoàn microsoft, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu Luận
Đề Tài:
CHÍNH SÁCH QUẢN TRỊ NHÂN SỰ VÀ
HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC KINH
DOANH CỦA TẬP ĐOÀN MICROSOFT
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Page 1
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
------WX------
ĐỀ TÀI:
CHÍNH SÁCH QUẢN TRỊ NHÂN SỰ VÀ HOẠCH ĐỊNH
CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CỦA TẬP ĐOÀN
MICROSOFT
GVHD : T.S NGUYỄN THANH HỘI
NHÓM SV THỰC HIỆN : NHÓM 1
LỚP : Đ3K16
MÔN : QUẢN TRỊ HỌC
NĂM 2007
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Page 2
DANH SÁCH NHÓM
DANH SÁCH CAO HỌC LỚP ĐÊM 3 KHÓA 16
STT Họ và Tên Ghi chú
NHÓM 1
1 Trần Thị Trúc Giang
2 Lê Lai
3 Đào Thị Mỹ Linh Nhóm trưởng
4 Cao Hữu Lộc
5 Trần Hồ Quốc Thiện
6 Phan Duy Thượng
7 Nguyễn Hoàng Quốc Thụy
8 Đinh Quốc Tuấn
9 Vũ Mạnh Tùng
10 Đoàn Hoàng Việt
11 Nguyễn Thị Lý TCDN –D3-K15
12 Đặng Anh Tài TCDN –D3-K15
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Page 3
Lời mở đầu
Từ một công ty sáng lập bởi hai chàng trai trẻ là Bill Gates và Paul Allen mới ở đầu tuổi
20, sau gần 35 năm Microsoft đã trở thành công ty lớn nhất thế giới đạt giá trị 500 tỷ đô la trên
thị trường chứng khoán. Thành công vang dội có một không hai trong lịch sử này chính là nhờ
sự lãnh đạo sáng suốt của ban lãnh đạo Công ty đứng đầu là Bill Gates và hoạt động sáng tạo,
nhiệt tình của một đội ngũ các nhà lập trình và quản lý cũng còn rất trẻ.
Cùng với sự lớn lên của công ty, hàng ngàn nhân viên Microsoft đã trở thành triệu phú
và trên một chục người đã thành tỷ phú. Tuy nhiên, sự thành công của Microsoft không chỉ
được đánh giá bằng tiền bạc mà còn bằng những phát minh khoa học và công nghệ, những sản
phẩm trí tuệ, văn hóa tinh thần cao cho nhân loại.
Ngày nay trên thế giới hàng triệu người, trong đó có chúng ta, đang sống, làm việc và
làm bạn với những sản phẩm của Microsoft, ngưỡng mộ Bill Gates và những con người đã
sáng tạo ra chúng. Một cách tự nhiên chúng ta tự hỏi: Đâu là những bí quyết thành công của
Microsoft và Bill Gates?
Trước sự thành công không thể nào phủ nhận được của Microsoft thì việc nghiên cứu để
tìm ra những nguyên nhân dẫn đến thành công trên rất có ý nghĩa đối với các nhà quản trị, nhất
là các nhà quản trị Việt Nam, khi chúng ta đang chuẩn bị bước vào quá trình hội nhập toàn cầu
hóa với nền kinh tế thế giới, đang đứng trước khả năng cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị
trường năng động và khốc liệt này.
Mặc dù có rất nhiều quan điểm cũng như cách nhìn nhận về các nguyên nhân dẫn đến
thành công của Microsoft nhưng do khả năng và thời gian hạn chế nên trong đề tài này chúng
tôi chỉ xin đề cập đến một số vấn đề chủ yếu xoay quanh hai nội dung: chính sách quản trị
nhân sự và hoạch định chiến lược. Sau đây là một số vấn đề liên quan đến các nội dung trên.
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Page 4
PHẦN I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ
QUẢN TRỊ NHÂN SỰ VÀ MARKETING
I. Đánh giá nguồn lực
Sự cam kết của đội ngũ nhân viên.
Một nhiệm vụ lớn đối với ban lãnh đạo là làm thế nào để mọi nhân viên hiểu rằng cách
tốt nhất đạt được các mục tiêu cá nhân là giúp doanh nghiệp hòan thành mục tiêu đề ra. Nhiệm
vụ này có thể đòi hỏi các nhà quản trị phải sử dụng nhiều phương cách và công cụ từ các lĩnh
vực có tính nguyên tắc như thay đổi cách quản trị lãnh đạo và động cơ khuyến khích.
Tinh thần thực hiện.
Tinh thần hăng hái thực hiện phổ biến khắp nọi nơi cũng là một điều qu ýí giá, vì nó có
nghĩa rằng mọi người có chí hướng tiến lên phía trước. Một điều lí tưởng là mọi cá nhân đều
hăng hái phấn đấu vì thành tích cá nhân cũng như thành tích của tổ chức. Thái độ như vậy làm
nảy nở tinh thần sẵn sàng hậu thuẫn và phấn đấu vì các mục tiêu của tổ chức và chấp nhận,
thậm chí có sáng kiến đề ra những thay đổi thích hợp, người công nhân có y muốn làm việc tốt
hơn chứ không phải làm theo lệnh cấp trên.
Điều chỉnh nguồn lực.
Điều chỉnh về số lượng và chất lượng nguồn lực. Có thể phải nâng cao tay nghề, trình độ
chuyên môn cho nguồn nhân lực để thực hiện hiệu quả một chiến lược nào đó.
Đảm bảo nguồn lực.
Nhiệm vụ hàng đầu của ban lãnh đạo là đảm bảo sao cho có đủ nguồn lực phục vụ cho
hoàn thành chiến lược. Một sai lầm thường mắc phải là cung cấp các nguồn lực không tương
ứng với các chiến lược cụ thể nhất định. “Cửa sổ chiến lược” nghĩa là những cơ hội nhất định
chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn. Nếu doanh nghiệp chưa chuẩn bị sẵn sàng để đảm
bảo các nguồn lực cần thiết trong khoảng thời gian ngắn nói trên thì cửa sổ sẽ khép lại, chỉ có
những tổ chức hành động mau lẹ mới có khả năng tranh thủ được cơ hội đó.
II. Phân khúc thị trường.
Phân khúc thị trường có thể được định nghĩa là “sự chia nhỏ thị trường thành các nhóm
khách hàng riêng biệt theo nhu cầu và thói quen mua hàng”. Phân khúc thị trường là một biến
số quan trọng trong việc thực hiện chiến lược vì:
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Page 5
Thứ nhất, những chiến lược phát triển thị trường, phát triển sản phẩm, thâm nhập thị
trường và đa dạng hóa đòi hỏi sự gia tăng doanh số bán hàng thông qua những sản phẩm và thị
trường mới.
Thứ hai, sự phân khúc thị trường cho phép doanh nghiệp có thể họat động với những
nguồn lực có hạn, ví nó không đòi hỏi phải sản xuất đại trà, phân phối rộng rãi, và quảng cáo
rầm rộ, nên có thể thúc đẩy một công ty nhỏ cạnh tranh với công ty lớn nhờ tối đa hóa lợi
nhuận trên một đơn vị và doanh số bán hàng trên một phân khúc. Việc đánh giá các phân khúc
thị trường tiềm năng đòi hỏi các nhà quản trị chiến lược phải xác định đặc điểm và nhu cầu của
người tiêu dùng, phân tích giống nhau và khác biệt về người tiêu thụ, và phát triển hình ảnh về
các nhóm khách hàng.
III. Định vị sản phẩm
Một sai lầm nghiêm trọng mà các công ty thường mắc phải là họ cho rằng họ biết
những khách hàng mong muốn cái gì. Nhiều công ty đã thành công nhờ lấp đầy khỏang trống
giữa những gì khách hàng có nhu cầu và nhà sản xuất cho là một sản phẩm tốt. Cái mà khách
hàng cho là dịch vụ tốt là điều quan trọng nhất chứ không phải cái mà nhà sản xuất tin rằng đó
mới là dịch vụ tốt. Việc xác định các khách hàng mục tiêu và dựa vào đó để tập trung các nỗ
lực marketing đã thiết lập quyết định: làm như thế nào để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của
nhóm khách hàng đặc biệt, là mục đích của định vị sản phẩm.
Một chiến lược định vị sản phẩm hữu hiệu thỏa mãn 2 tiêu chuẩn: (1) nó phân biệt
doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh, và (2) nó khiến cho khách hàng mong đợi một lượng
dịch vụ hơi ít hơn lượng mà công ty có thể cung cấp. Các công ty không nên tạo ra sự mong
đợi lớn hơn lượng dịch vụ công ty có thể hay sẽ cung cấp. Điều này luôn là một thách thức đối
với các nhà tiếp thị. Các công ty cần thông báo cho khách hàng cái mà họ mong đợi và sau đó
thực hiện tốt hơn lời hứa; hứa ít và sau đó làm nhiều.
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Page 6
PHẦN II: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA MICROSOFT
I. Bước đầu thành lập.
Microsoft là một tập đoàn phần mềm lớn nhất thế giới, được thành lập năm 1975 bởi
Willam H.Gates, III và Paul Allen, hai người bạn từ thời niên thiếu cùng có chung niềm đam
mê đối với lập trình máy tính. Ngày 01-01-1975, sau khi đọc tờ tạp chí Điện tử phổ thông đăng
tin về việc sản xuất máy tính Altair 8800, Bill Gates – đang là sinh viên năm thứ hai của
trường Harvard – đã gọi cho nhà sản xuất MIST (Micro Instrumentation and telemetry
Systems) đề xuất viết ngôn ngữ lập trình cho máy này.
Gates chẳng có một trình thông dịch cũng như một hệ thống Altair nào. Ông và Paul đã
phải tranh thủ làm việc 8 tuần trên máy tính của trường để hoàn thành bản demo của BASIC –
ngôn ngữ lập trình đầu tiên được viết cho máy tính cá nhân. Kết quả là bản demo đã chạy tốt
và được MIST chấp nhận. Sau đó, Paul Allen gia nhập MIST, trở thành giám đốc phần mềm;
còn Bill nhận ra giá trị to lớn của ngành phát triển phần mềm từ thành công ban đầu đó, anh
hiểu rằng thời cơ của mình đã đến.
Bill quyết định bỏ học và ngày 04-04-1975, Micro-soft (tên viết tắt của Microcomputer
software - Phần mềm cho máy tính cá nhân) ra đời tại Albuquerque, New Mexico. Không ít
bạn bè người thân khi đó đã chỉ trích việc bỏ học của Bill, nhưng cho tới bây giờ, thực tế đã
chứng minh được rằng Bill đã đúng.
Ngày 29-10-1975, cái tên Microsoft lần đầu tiên xuất hiện xuất hiện trong một bức thư
của Bill Gates gửi cho Paul Allen. Ngày 26-10-1976, Microsoft chính thức được đăng ký
thương hiệu như chúng ta đã biết ngày nay.
Những khách hàng đầu tiên của Microsoft phải kể đến hãng sản xuất máy tính non trẻ
Apple, nhà sản xuất máy tính PET Comodore và Tandy Corporation chuyên về loại máy tính
Radio Shack TRS-80. Năm 1997, Microsoft cho ra mắt sản phẩm ngôn ngữ lập trình thứ hai là
Microsoft Fortran. Cũng trong năm này, Bill Gates chính thức trở thành chủ tịch Microsoft
Corp, còn Paul Allen là phó chủ tịch.
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Page 7
II. Những bước phát triển.
Trong suốt hơn 30 năm qua, tập đoàn Microsoft đã tăng trưởng không ngừng với một tốc
độ đáng kinh ngạc, luôn nhận được sự chú ý cũng như ngưỡng mộ của công chúng. Rất nhiều
thanh niên Mỹ đã xem Bill như một tấm gương sáng noi theo. Lịch sử hình thành và phát triển
của Microsoft luôn gắn với những bước ngoặt mang tính đột phá trong việc tạo ra các sản
phẩm công nghệ phần mềm thế hệ mới.
1. MS – DOS
Năm 1979, Gates và Allen dời công ty tới Bellevue, Washington. Với 25 nhân công, một
vài sản phẩm ngôn ngữ máy tính mới và doanh thu hàng năm đạt khoảng 2,5 triệu đô la,
Microsoft đã xin được giấy phép sử dụng hệ điều hành UNIX và phát triển hệ XENIX - hệ điều
hành cho máy tính thu nhỏ. Năm 1980, IBM chọn Microsoft viết hệ điều hành cho máy tính cá
nhân của họ. Dưới áp lực về thời gian, Microsoft đã chọn mua lại 86-DOS từ một công ty nhỏ
tên là Settle Computer Products với giá 50000 đô la rồi cải tiến nó thành MS – DOS (Microsoft
Disk Operating System).
Là một phần trong hợp đồng với IBM, Microsoft được phép cấp phép sử dụng hệ điều
hành này cho các công ty khác. tới năm 1984, Microsoft đã cấp phép sử dụng MS – DOS cho
200 nhà sản xuất máy tính cá nhân, biến MS – DOS trở thành hệ điều hành chuẩn cho máy PC
và giúp Microsoft có bước phát triển vượt bậc trong thập kỷ 80. Năm 1983, Allen rời khỏi
công ty nhưng vẫn có chân trong ban giám đốc tới năm 2000 và tiếp tục là cổ đông chính của
Microsoft.
2. Phần mềm ứng dụng
Cùng với sự thành công của MS – DOS, Microsoft bắt đầu phát triển các phần mềm ứng
dụng cho máy tính cá nhân. Năm 1982, họ cho ra đời Multiplan, một chương trình bảng tính,
năm tiếp theo là chương trình xử lý văn bản, Microsoft Word. Năm 1984, Microsoft là một
trong số ít các công ty phần mềm phát triển các ứng dụng cho máy Macintosh – máy tính cá
nhân do Apple Computer sản xuất. Những phần mềm này bao gồm Word, Excel và Work (Một
bộ phần mềm tích hợp) đã đạt được thành công to lớn.
3. Windows
Năm 1985, Microsoft cho ra đời sản phẩm Windows, một hệ điều hành sử dụng giao diện
đồ họa người dùng với những tính năng mở rộng của MS – DOS trong nỗ lực cạnh tranh với
Apple Computer. Windows khởi đầu được phát triển cho những máy tính tương thích với IBM
(dựa vào kiến trúc x86 của Intel), và ngày nay hầu hết mọi phiên bản của Windows đều được
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Page 8
tạo ra cho kiến trúc này (tuy nhiên Windows NT đã được viết như là một hệ thống xuyên cấu
trúc cho bộ xử lý Intel và MIPS, và sau này đã xuất hiện trên các cấu trúc PowerPC và DEC
Alpha.
Sự phổ biến của Windows đã khiến bộ xử lý của Intel trở nên phổ biến hơn và ngược lại.
Năm 1987, Windows 2.0 ra đời với cách làm việc được cải tiến và hình thức mới hơn. Năm
1990 là phiên bản Windows 3.0 mạnh hơn, rồi kế đó là Windows 3.1 và 3.11. Những phiên bản
này được cài sẵn trong hầu hết các máy tính cá nhân nên đã nhanh chóng trở thành hệ điều
hành được sử dụng phổ biến nhất. Trong năm này, Microsoft đã trở thành hãng sản xuất phần
mềm máy tính đầu tiên đạt kỷ lục 1 tỷ đô la doanh thu hàng năm.
Năm 1993, Microsoft tung ra sản phẩm Windows NT, một hệ điều hành cho môi trường
kinh doanh. Một năm sau đó họ đạt được thõa thuận với bộ tư pháp trong việc thay đổi cách
các hệ điều hành được đăng ký và bán cho các nhà sản xuất máy tính.
Năm 1995, Windows 95 đã được ra mắt với một giao diện hoàn toàn mới với nút và
menu Start, cho người dùng truy nhập các chương trình đã cài đặt và nhiều chức năng khác của
hệ điều hành. Hàng triệu bản copy của Windows 95 đã được bán hết chỉ trong bốn ngày đầu.
Vào tháng 9, chính phủ Trung Quốc đã chọn Windows làm hệ điều hành được sử dụng ở nước
này và thõa thuận với Microsoft chuẩn hóa phiên bản tiếng Trung của hệ điều hành này.
4. Những thành công gần đây
Bất chấp những rắc rối trên pháp đình về tội lạm dụng độc quyền, Microsoft vẫn tiếp tục
có những thành công bước đường kinh doanh của mình. Tới giữa thập kỷ 90, Microsoft đã bắt
đầu mở rộng sang các lĩnh vực giải trí, truyền hình và truyền thông... Năm 1995, Microsoft
thành lập Microsoft Network chuyên cung cấp thông tin, tin tức, giải trí và thư điện tử cho
người dùng máy tính cá nhân.
Năm 1996, Microsoft liên kết với hãng truyền thông NBC cho ra đời MSNBC. Cũng
trong năm này, Microsoft giới thiệu sản phẩm Windows CE dành cho PDA. Năm 1997,
Microsoft trả 425 triệu đô la để mua WebTV Networks, nhà cung cấp các thiết bị kết nối TV
với Internet giá rẻ. Microsoft cũng đầu tư 1 tỷ đô la vào Comcast Corporation, nhà điều hành
truyền hình cáp ở Mỹ như một phần trong nỗ lực mở rộng khả năng kết nối Internet tốc độ cao.
Tháng 6/1998, Microsoft tung ra phiên bản Windows 98 có kết hợp các tính năng hỗ trợ
Internet.
Năm 1999, Microsoft trả 5 tỷ cho công ty truyền thông AT&T Corp để sử dụng hệ điều
hànhWindows Ce cho các thiết bị cung cấp cho khách hàng với truyền hình cáp, điện thoại và
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Page 9
các dịch vụ Internet tốc độ cao. Cũng năm 1999 công ty phát hành Windows 2000, phiên bản
cuối cùng của Windows NT. Tháng một năm 2000, Bill Gates chuyển giao vai trò điều hành
cho Steve Ballmer. Bản thân Bill Gates vẫn giữ ghế chủ tịch, đồng thời là kiến trúc sư trưởng
chuyên phát triển các sản phẩm và công nghệ mới.
Năm 2001 Microsoft phát hành Windows XP, hệ điều hành cho người tiêu dùng đầu tiên
không dựa trên MS – DOS. Cũng trong năm này Microsoft giới thiệu Xbox, một thiết bị Video
game của công ty. Trong chiến lược công ty cũng có sự chuyển hướng khi tuyên bố một chiến
lược mới mang tên .Net (Dot Net). Chiến lược này tìm kiếm khả năng cho phép các thiết bị đa
dạng như PC, PDA, điện thoại di động kết nối với nhau qua Internet, đồng thời tự động hóa các
chức năng của máy tính.
Trong thế kỷ 21, Microsoft sẽ phát triển các chương trình kinh doanh bao gồm các phiên
bản mới của Microsoft Network, kết nối không dây cho Internet. Năm 2003, công ty bắt đầu
chú trọng vào “máy tính đáng tin cậy” đòi hỏi các lập trình viên phải cải thiện khả năng bảo vệ
của phần mềm trước sự tấn công của virus và các phần mềm gián điệp. Gần đây nhất là hệ điều
hành Windows Vista đã được khá nhiều người chấp nhận với tốc độ nhanh gấp hai lần so với
Windows XP, cụ thể chỉ trong tháng đầu tiên phát hành đã bán được 20 triệu bản.
Sự thành công của Microsoft còn được thể hiện qua sự gia tăng liên tục gấp nhiều lần qua
các năm của giá cổ phiếu và các chỉ tiêu tài chính của công ty như tổng doanh thu và thu nhập
ròng.
Một số chỉ tiêu tài chính của Microsoft trong ba năm gần đây.
Chỉ tiêu 30 – 06 – 2004 30 – 06 – 2005 30 – 06 – 2006
Tổng doanh thu 36,835,000 39,788,000 44,282,000
Thu nhập ròng 8,168,000 12,254,000 12,599,000
Từ những thành công trên, người ta thấy được đằng sau nó là hình bóng của một phong
cách quản trị riêng rất Bill Gates, thể hiện ở nhiều mặt. Sau đây là một số nghệ thuật quản trị
của Microsoft trong lĩnh vực nhân sự và chiến lược.
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Page 10
PHẦN III: QUẢN TRỊ NHÂN SỰ
Quản trị nhân sự là một lãnh vực phức tạp và khó khăn, nó bao gồm nhiều vấn đề như
tâm lý, sinh lý, xã hội, triết học, đạo đức và thậm chí cả dân tọc học. Nó là một khoa học nghệ
thuật - nghệ thuật quản trị con người. Đối với Mricosoft quản trị nhân sự là nhân tố quan trọng
đưa đến thành công của công ty. Chính sách quản trị nhân sự chủ yếu nằm trong chính sách
tuyển dụng, kiến tạo môi trường làm việc và chính sách đãi ngộ.
I. Chính sách tuyển dụng
Cũng như một đoàn quân khi ra trận, yếu tố thành bại ở đây là nhân tố con người với trí
thông minh và lòng quả cảm của họ. Chính sách tuyển dụng người tài bao giờ cũng được đặt
lên hàng đầu tại Microsoft.
Microsoft cố gắng thuê được những người thông minh, hay còn có thể gọi là khôn ngoan
cũng được, tùy theo cách hiểu của mỗi người về hai từ này. Tiêu chuẩn được nói một cách ước
lệ ở đây là: những người nằm trong số 5% thông minh nhất hành tinh trong lĩnh vực chuyên
môn của họ.
Vậy thông minh nhất được hiểu như thế nào? Điều đó tùy thuộc vào công việc mà họ sẽ
làm, là người quản lý sản phẩm hay lập trình, là luật sư hay kế toán... của công ty. Phải hiểu là
chọn những người khôn ngoan nhất cho công việc của họ và từ khóa là khôn ngoan chứ không
phải biết nhiều.
Người thông minh là người có khả năng khởi động sớm bộ não để suy nghĩ. Họ có vai trò
quan trọng chủ chốt, bởi vì những người này có thể nắm bắt được lỗi lầm sớm nhất và sẽ bắt
kịp với cách làm việc hiệu quả hơn trong công việc, do vậy tiết kiệm thời gian trong hoạt động
của chính mình cũng như tiết kiệm thời gian, tiền bạc của công ty.
Tại Microsoft phải thật thông minh mới có thể thành công được. Những con người thông
minh chỉ luôn mong được làm việc với những người thông minh. Các nhân viên tại Microsoft
phải là những người thật giỏi bởi rồi họ sẽ phải làm việc với những người cũng rất thông minh.
Một trong những điều thú vị là làm việc tại Microsoft cho dù là người thông minh đến mức nào
thì họ vẫn luôn phải cố gắng hàng ngày tương xứng với công việc của mình.
Để tuyển được các nhân tài cho hãng, bộ phận nhân sự do David Pritchard làm giám đốc
đặt nhiệm vụ áp dụng các biện pháp hữu hiệu nhất để tuyển và đào tạo ra các siêu nhân. Việc
lựa chọn người được tiến hành dưới nhiều hình thức. Hàng chục nhân viên làm việc theo kiểu
săn đầu người chuyên theo dõi các chuyên gia giỏi nhất của các hãng nổi trội trong công việc
mà bản lĩnh và tài năng đã được thừa nhận. Các nhân viên của Microsoft tiếp xúc công khai
hoặc bí mật với họ; lôi kéo, mua chuộc bằng các ưu thế vật chất và tinh thần của Microsoft, vì
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Page 11
biết rằng riêng cái tên Microsoft đã có sức lôi kéo rất lớn đối với đa số các chuyên gia tin học ở
Mỹ cũng như ở nước ngoài. Những nhân tài này còn có thể tiềm ẩn trong số các sinh viên của
các trường đại học, thông qua bảng điểm và khả năng sáng tạo qua các kỳ thi hay các hội chợ
lớn. Nhưng việc lựa chọn không chỉ bó hẹp trong ngành chuyên môn tin học. Là một công ty
hàng đầu, năng động, Microsoft còn nhắm cả vào đội ngũ các chuyên gia tài chính, marketing,
tổ chức mạng lưới thương mại.... Điều bắt buộc đó là những người cực kỳ giỏi vì Pritchard đã
từng nói: Khi tuyển nhầm những người có khả năng trung bình thì đó là chuẩn bị cho ngày tàn
của Microsoft!
Sau khi lọc lựa hàng nghìn hồ sơ để chọn một, nhờ có hệ thống xử lý thông tin tin học
đánh giá một cách tổng hợp, các ứng cử viên phải qua một đợt phỏng vấn. Một nhóm 4-5
người của bộ phận nhân sự sẽ tiến hành phỏng vấn đối với những người dự tuyển. Mỗi người
phỏng vấn một giờ và từng người phỏng vấn lần lượt. Tất nhiên câu hỏi rất khó, có thể làm nản
lòng những ng