Trong nền âm nhạc truyền thống của dân tộc, chúng ta đã từng biết tới những làn điệu quan họ mượt mà, những tích trò hấp dẫn của múa rối, chèo trống Nhưng bên cạnh đó còn một loại hình nghệ thuật ngày nay dường như đã bị lãng quên - dó là Ca trù. Nhắc đến Ca trù - người ta chỉ lờ mờ hiểu về nó như một thể loại âm nhạc rất khó nắm bắt, rất khó để thẩm thấu. Khác với quan hệ, múa rối là những loại hình nghệ thuật dân dã gần gũi với cuộc sống - Ca trù là một loại hình nghệ thuật bác học. Một loại hình âm nhạc đã đạt đến trình độ hoàn thiện cao, đòi hỏi người thưởng thức phải am hiểu và tìm tòi về những giá trị tinh hoa của nó. Tại sao lại có sự khác biệt đó? Tại sao ca trù lại rất khó để cảm thụ được vẻ đẹp tinh anh của nó? Và hơn nữa trước thực trạng ca trù đang đứng trước bờ vực thẳm của sự mai một đã là động lực để tôi tiến hành tìm hiểu về loại hình nghệ thuật này. Hy vọng đó có thể là một đóng góp nhỏ cho việc gìn giữ vẻ đẹp ca trù.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 7093 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vài nét về nghệ thuật ca trù và vai trò của nó trong du lịch văn hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền âm nhạc truyền thống của dân tộc, chúng ta đã từng biết tới những làn điệu quan họ mượt mà, những tích trò hấp dẫn của múa rối, chèo trống… Nhưng bên cạnh đó còn một loại hình nghệ thuật ngày nay dường như đã bị lãng quên - dó là Ca trù. Nhắc đến Ca trù - người ta chỉ lờ mờ hiểu về nó như một thể loại âm nhạc rất khó nắm bắt, rất khó để thẩm thấu. Khác với quan hệ, múa rối… là những loại hình nghệ thuật dân dã gần gũi với cuộc sống - Ca trù là một loại hình nghệ thuật bác học. Một loại hình âm nhạc đã đạt đến trình độ hoàn thiện cao, đòi hỏi người thưởng thức phải am hiểu và tìm tòi về những giá trị tinh hoa của nó. Tại sao lại có sự khác biệt đó? Tại sao ca trù lại rất khó để cảm thụ được vẻ đẹp tinh anh của nó? Và hơn nữa trước thực trạng ca trù đang đứng trước bờ vực thẳm của sự mai một đã là động lực để tôi tiến hành tìm hiểu về loại hình nghệ thuật này. Hy vọng đó có thể là một đóng góp nhỏ cho việc gìn giữ vẻ đẹp ca trù.
Ca trù đã trở thành đề tài nghiên cứu hấp dẫn của nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc, nhà văn hoá lớn. Cái nhìn về ca trù toàn diện, sâu sắc có lẽ đã được nhắc tới rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học. Bởi vậy, tôi chọn đề tài “Vài nét về nghệ thuật ca trù và vai trò của nó trong du lịch văn hóa” với một đề tài tiểu luận và sự am hiểu của mình, tôi chỉ dám bàn tới ca trù ở những điểm khái quát nhất trong kiến thức thu nhặt được. Với mong muốn sau khi đọc bá cáo này, người xem sẽ phần nào hiểu được thế nào là ca trù, ca trù ra đời khi nào và hát ca trù ra sao?
Với phương pháp nghiên cứu:
-Phương pháp tổng hợp tư liệu từ các nguồn sách, báo, phươg tiện thông tin điện tử, Internet.
-Phương pháp thực địa.
-Phương pháp đánh giá, tổng hợp ý kiến.
Bố cục đề tài bao gồm
Chương I: Một số khái niệm cơ bản trong hát ca trù, nguồn gốc hình thành nghệ thuật hát ca trù
Chương II: Nghệ thuật biểu diễn ca trù
Chương III: Vai trò ca trù trong du lịch văn hoá
CHƯƠNG I
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN, NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT CA TRÙ
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG HÁT CA TRÙ
1. Ả đào: (nữ giới)
Ả đào - là nhân vật gần như quan trọng nhất của tiệc ca trù. Nhiệm vụ của ả đào là làm ca sĩ cho tiệc hát nhưng khác với ca sĩ ở chỗ ả đào vừa hát vừa gõ phách. Ả đào là nữ giới, kép là nam giới. Ả đào như linh hồn của một bài ca trù bởi nhờ giọng hát của ả đào thì những giá trị thẩm mỹ của những áng thơ ca trù mới được cất lên và chuyển tải đến các tao nhân, mặc khách thưởng hát. Về nửa cuối thế kỷ XIX đầu XX, ả đào còn được gọi là cô đầu.
2. Kép (nam giới)
Cùng với ả đào, kép là thành viên quan trọng của tổ chức hát ca trù. Thông thường, trong tiệc hát, gọi chung họ là “đào kép”. Vai trò của kép là gẩy đàn. Một số tài liệu còn gọi kép bằng tên khác là “quản giáp”. Là người gảy đàn cho ả đào hát song một số sách nói rằng ngày xưa kép cũng có tham gia hát. Điệu hát mà kép hát gọi là điệu “hà nam”, ả đào hát gọi là “hát hát” - hát gái hay nữ xướng. Kép hát trước rồi đào hát lại đúng bài đó, đúng điệu đó gọi là “hà liễu”.
3. Ca trù
Đây là một khái niệm chỉ một lối hát mà trong đó có rất nhiều điệu hát (theo 2 nhà nghiên cứu Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ trọng Huề thì ca trù có 46 điệu chính) như thét nhạc, non mai, hồng hạnh, hát nói…
Ca trù còn có các cách gọi khác như: hát ả đào, hát nhà trò, hát cô đầu, hát nhà tơ… ở Thanh hoá ca trù còn được gọi là hát ca công, hát gõ. Nhưng tên gọi ca trù là phổ biến nhất.
Giải thích tên gọi ca trù theo nghĩa chữ thì hát ca trù là hát thẻ. Thẻ gọi là “trù”. Thẻ làm bằng tre và dùng để thưởng cho đào hát thay cho trả bằng tiền mặt trực tiếp. Khi ả đào hát, các quan iên thị lễ - một bên đánh trống, bên kia đánh chiêng. Trống đánh chát và chiêng đánh lên khi đào hát hay và đào được thưởng một thẻ trù, xong tiệc hát thì đào - kép ứng theo số thẻ đã được thưởng mà nhận tiền theo quy định.
Khái niệm ca trù sớm nhất hiện được biết đến là ở thế kỷ XVI trong bài “Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải răn” của Lê Đức Mao.
4. Cầm chầu
Người đánh trống cho ả đào hát gọi là cầm chầu. Dìu trống (còn gọi là roi chầu) làm bằng gỗ quý. Cầm chầu cũng có khổ, có tiếng trống khoan, trống mau như đàn, phách.
Người cầm chầu phải là người am hiểu về ca trù bởi ngoài nhiệm vụ đánh trống cho đào hát còn có nhiệm vụ là chấm thưởng mỗi khi đào nương hát hay, hay đến câu văn hay. Ngoài ra người cầm chầu còn chấm cả đàn hay, phách hay. Chính từ vai trò này mới sinh ra các khái niệm như “thưởng hơi, thưởng ý, thưởng đàn, thưởng phách”. Cầm chầu đánh “cắc” là chấm thưởng. Điểm thưởng thể hện tính cách, khả năng âm nhạc, văn học của người cầm chầu. Cầm chầu giỏi là phải tinh không thưởng sai, thưởng liều.
5. Đầu thưởng, vai thưởng, nách thưởng
Ba khái niệm này ít được giải nghĩa một cách rõ ràng. Có thể đưa ra đây một ví dụ để minh hoạ trong bài “Nơi về phép đi hát và đánh trống” của Xuân Lan in trong “Ca trù thể cách” xuất bản năm 1922 viết câu “Minh quân lương để tao phùng di”. Những câu ấy, chữ nào chữ nấy phải hát rõ ràng, vuông tròn, không khoan, không gấp, không cách nhỡ. Thưởng những câu ấy gọi là “đầu thưởng”.
Hay như trong câu “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cánh phù du trông thấy cũng buồn cười, thôi công đâu chuốc ấy sự đời”. “Cánh phù du” - Ba chữ này gọi là “chốn tiếp” - thưởng vào “chốn tiếp” gọi là “vai thửơng”. “Thôi công cầu” - ba chữ này gọi là “chốn tục”- thưởng vào “chốn tục” gọi là nách thưởng.
6. Đủ khổ, dôi khổ, thiêu khổ
Một bài hát ca trù (hát nói) gồm ba khổ: khổ đầu, khổ giữa và khổ xếp. Khổ đầu và khổ giữa có 4 câu ở mỗi khổi, khổ xếp có 3 câu. Một bài hát nói đầy đủ có 11 câu - gọi là bài hát đủ khổ. Bài nào có trên 11 câu gọi là dôi khổi, chưa đủ 11 câu gọi là thiếu khổ. Hai khổ đầu và khổ xếp luôn giữ nguyên dôi hay thiếu khổ chỉ xảy ra ở khổ giữa.
Ngoài ra còn có “hát nói gối hạc” - trong bài hát có một vài cầu thơ kéo dài ra, số chữ trong câu thơ có thể lên đến 12, 18 thậm chí 24 chữ.
7. Hát mưỡu
Hát mưỡu ít khi được hát riêng rẽ với tư cách một bài trọn vẹn mà thường được hát mở đầu hoặc kết thúc cho một bài hát nói. Do vậy khi kết hợp hát mưỡu và hát nói lại cho ta các dạng như:
-Hát nói mưỡu tiền (hát mưỡu mở đầu rồi vào hát nói).
-Hát mưỡu hậu (hát mưỡu kết thúc sau khi hát nói).
-Hát nói mưỡu đơn (hát mưỡu bằng một câu thơ lục bát).
-Hát nơi mưỡu kép (hát mưỡu bằng 2 câu thơ lục bát.
8. Giáo phường
Đây là tổ chức của hát ca trù gồm nhiều họ. Người đứng đầu giáo phường gọi là “ông chùm”. Giá phường có hệ thống qui ước mà các thành viên phải tuân thủ. Hằng năm, giáo phường đều tổ chức lễ tế tổ vào ngày 11 tháng Chạp. Sau ngày tế tổ thì ông chùm giải quyết các công việc nảy sinh trong giáo phường. Nơi lễ tế tổ có thể làm ở nhà thờ hay muựơn đình của xã để làm lễ. Trong lễ tế tổ, đào nương kép hát của các họ ở các vùng khác nhau tề tựu, đông đủ hát đủ các điệu và đặt tiệc mời khách quý - gọi là đám “thánh sư”. Giáo phường còn được hiểu là nơi dạy những người đi hát.
9. Hãm
Hãm là một điệu hát của ca trù hát ngâm hãm để chuốc rượu chúc mừng trong tiệc vui khúc hát hãm có từ một mừng đến 10 mừng.
10. Lạc nhạn, xuyên tâm, thuỳ châu
Các khái niệm này chỉ khổ nhạc của trống, đàn và phách. Nó được chia thành 5 khổ theo thứ tự như sau:
-Chính diện (dùng vào những câu hát bằng phẳng).
-Xuyên tâm có xuyên thưa, xuyên mau.
-Lạc nhạn (dùg vào câu hát trầm ngâm)
-Quán châu ( dùng vào các khổ thơ).
-Thương mã (dùng vào các khổ xếp, khổ dồn).
-Thuỳ thâu: chỉ 3 tiếng trống vào giữa câu thứ 11 hoặc câu thứ 10.
Xuyên thưa chỉ ba tiếng trống đánh vào đầu câu thứ 4.
Xuyên mau là ba tiếng trống đánh bào đầu câu thứ 8.
11. Hát ả đào
Đây là tên gọi chug cho hát cô đầu, hát ca trù… Theo các thư tịch hiện nay thì khái niệm hát ả đào xuất hiện sớm nhất so với các khái niệm ca trù, nhà trò…
-Hát cửa đình.
Là cuộc hát được tổ chức tại đình làng hàng năm. Vào các dịp tế thần, thành hoàng làng. Luật lệ của hát cửa đình rất chặt chẽ, nghi lễ hát linh thiêng khi hát ả đào phải nhịp theo các tiết mục hành lễ và động tác của người tế.
Như vậy, để tìm hiểu về nghệ thuật ca trù, trước tiên ta phải hiểu được một số khái niệm chính thường sử dụng khi nói về ca trù. Nắm bắt được các khái niệm đó sẽ giúp cho quá trình nghiên cứu được thuận lợi hơn rất nhiều. Các khái niệm đưa ra ở mức cô đọng nhất sẽ phần nào giúp người đọc luận giải các cụm từ chuyên biệt mà nếu không am hiểu ca trù sẽ không thể cắt nghĩa được.
II. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT CA TRÙ
Có thể khẳng định không ai biết rõ hát ả đào có từ bao giờ cho đến thời điểm hiện nay. Nguyên nhân của việc đó là do nguồn sách vở tư liệu cũ của ta về âm nhạc không còn lại nhiều. Các nhà nghiên cứu chỉ có thể căn cứ vào một số ít nguồn tư liệu nhưng chủ yếu lại là những truyền thuyết được ghi chép lại qua truyền khẩu trong nhân dân. Chính vì lí do đó, nguồn gốc hình thành ca trù không thống nhất, tương truyền mỗi nơi một khác. Đây là một vấn đề đặt ra với các nhà nghiên cứu trong hành trình tìm về cái nôi của hát ca trù.
Tuy vây, tôi cũng xin đưa ra đây dẫn chứng về ba tư liệu cổ nói tới nguồn gốc ca trù được dân gian cũng như các nhà nghiên cứu nhắc tới nhiều nhất.
Theo “Việt sử tiêu án” của Ngô Thời Sĩ thì vào đầu Vua Lý Thái tổ (1010 - 1028) có người ca nhi tên là Đào Thị hát hay đàn giỏi từng được vua ban thưởng. Về sau vì ái mộ danh tiếng Đào Thị nên con hát gọi là Đào nương. Sách “Khâm đinh viết sử” cũng ghi : “năm Thuận Thiên thứ 16 (1925) vua Lý Thái Tổ đặt chức Quản giáp cho giới con hát. Như vậy, từ các cứ liệu trên, ca trù ít nhất cũng có từ đời Lý. Tuy nhiên đây cũng chỉ là tương truyền mà chưa có các căn cứ chính xác.
Đến đời nhà Hồ (1400 - 1407) lại có sách (Công dư tiệp ký” chép lại chuyện một đào nương ở tại thôn Đài Xá, huyện Tiên Lữ - Hưng Yên múa giỏi hát hay. Thời điểm đó, quân Minh sang xâm chiếm nước ta gây bao cảnh tang thương. Nàng đã cùng dân làng lập mưu hạ được nhiều tên giặc Minh giúp làng Đài Xá được yên ổn. Về sau người làng nhớ ơn nên đã lập đến thờ và thôn nàng ở trước đây gọ là thôn “Ả đào”.
Lại có truyền thuyết khác về Tổ cô đầu mà hiện nay được nhiều người ghi nhớ nhất. Đời nhà Lê có người tên là Đinh Lễ tự là Nguyễn Sinh, quê ở làng Cổ Đạm - Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Là con nhà gia thế song tính tình phóng khoáng, thích ca hát gảy đàn. Một lần Đinh Lễ được một cụ già đưa cho một khúc gỗ ngô đồng và tờ giây vẽ hình một cây đàn bảo rằng về làm cây đàn sẽ giúp trừ hoạ và mang lại an lành cho nhân dân. Quả nhiên cây đàn đã giúp cho cuộc sống của bà con hạnh phúc vui tươi hơn. Một hôm, Đinh Lễ đi qua châu Thường Xuân - tỉnh Thanh Hoá ngồi gảy đàn vô tình tiếng đàn đã giúp cho Bạch Hoa - con gái quan châu Bạch Đình Sa bị câm từ nhỏ bỗng cất tiếng nói sau khi nghe đàn. Cảm tạ ơn đó Bạch Hoa được gả cho Đinh Lễ. Từ đấy hai vợ chồng sống hạnh phúc, ca hát và còn dạy cả dân làng cách đàn, cách múa. Khi hai vợ chống mất đi, dân làng Cổ Đạm và đệ từ nhớ ơn lập đền thờ gọi là đền tổ cô đầu, hay đền bà Bạch Hoa công chúa. Hàng năm đến ngày 11 tháng Chạp có giỗ tổ cô đầu và các đào kép khắp nơi lại tề tựu về ở Hưng Yên, Nam Định, Hà Nội ngày nay đều có đền thờ hai vị tổ sư này.
Không phải ngẫu nhiêm mà cùng với truyền thuyết trên, làng Cổ Đạm ngày nay được nhân dân cả nước biết tới như cái nôi của ca trù, là vùng đất tổ của loại hình nghệ thuật này . Xem xết nhều khía cạnh, ta sẽ thấy Cổ Đạm xứng đáng là nơi khởi thuỷ của ca trù.
Thứ nhất, có phải vô tình không khi truyền thuyết về tổ ca trù gắn liền với các chế tác ra cây đàn đáy và việc truyền bá nghệ thuật chơi đàn đáy? Như thế có nghĩa là, tính đến thời điểm có cây đàn đáy do Đinh Lễ (làng Cổ Đam) sáng chế ra thì ca trù đã có bước tiến đáng kể về chất và dần dần định hình thành một thể loại âm nhạc có diện mạo, lễ luật rõ ràng, chặt chẽ. Hơn thế, nhắc đến ca trù không thể không nhắc tới cây đàn đáy. Đàn đáy ra đời là minh chứng cho sự ra đời của ca trù. Về tư liệu mĩ thuật còn lại thì có các bức chạm trên xà của đình Lễ Hạnh (thế kỷ XVI) đình Tây Đằng (thế kỷ XVI) hình cây đàn đáy - cây đàn đặc trưng của ca trù.
Thứ hai: trong các bản thần phả về ca trù đều thống nhất một quan điểm: tổ của ca trù là ông Đinh Lễ và bà Bạch Hoa. Chính vì vậy khi hát đến chữ Lễ, cô đầu phải hát chệch thành lỡi, Hoa đọc thành Huê, Bạch đọc thành B.
Thứ ba, phải là cái nối ca trù mới sản sinh ra được con người “có sở trường về nghề ca trù” (Nguyễn Văn Ngọc) nổ tiếng là Nguyễn Công Trứ. Nhờ có ông ca trù mới có được sức sống lâu bền tới ngày nay. Tuy không phải là tổ nghề nhưng Nguyễn Công Trứ đã có công lớn trong việc hoàn chỉnh và đưa hát nói thành hể thơ dân tộc, thành linh hồn của những bài ca trù.
Như vậy, tuy được thêu dệt từ một truyền thuyết song với những dẫn chứng sống như trên ta có thể khẳng định làng Cổ Đam chính là nguồn gốc sản sinh ra Ca trù, là trung tâm đỉnh cao của nghệ thuật ca trù. Từ đây, ca trù phát triển rộng khắp hai miền Bắc - Trung. Ngày nay, sinh hoạt ca trù cũng đang dần được khôi phục ở Cổ Đam với việc hình thành các câu lạc bộ ca trù ở Nghi Xuan.
Tóm lại, cho đến nay vẫn chưa có bằng chứng rõ ràng nào về thời gian cũng như gốc gác của ca trù. Mọi sự công bố đều là phỏng đoán dựa vào các tư liệu cổ và truyền thuyết chưa rõ ràng. Để có được tài lệu đích xác và đầy đủ cần phải có thời gian. Theo giáo sư Trần Văn Khê thì hiện nay ta tạm coi hát ả đào xuất hiện vào đầu thế kỷ XV xuất phát từ vùng Thanh, Nghệ, Tĩnh.
CHƯƠNG II
NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN CA TRÙ
Ca trù là một loại nhạc truyền thống bác học có đầy đủ quy tắc về điệu, về nhịp, về nét hoa mĩ, cách biến tấu, ứng tấu. Để hiểu được cả một hệ thống quy tắc chặt chẽ ấy khi hát là cả một quá trình tìm tòi, thẩm thấu ở trình độ cao.
Trước khi đi vào nghệ thuật trình diễn, ta cần tìm hiểu các đặc điểm của một bài ca trù - như một yếu tố nền khi nghe hát ca trù.
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC BÀI HÁT CA TRÙ
1. Phân loại
Ngày xưa, ca trù có ba loại chính.
-Hát chơi, biểu diễn tại các nhà của những người hâm mộ ca trù hay tại nhà ca sĩ.
-Hát cửa đình, biểu diễn tại đình làng.
-Hát thi biểu diễn để tranh giải thưởng.
Phổ biến nhất là hát chơi trong một vùng thân mật với số ít khán giả những lúc giải trí.
2. Chất liệu
Trong nghệ thuật ca trù, thơ là một thành tố quan trọng. Ca trù có nhiều làn điệu, nhiều thể ca trù sử dụng các thể thơ quen thuộc và thuần Việt như lục bát, song thất lục bát. Trong số 34 thể ca trù mà thư tịch Hán Nôm có ghi nhậ về lời thơ thì các thể thơ được dùng trong ca trù là :
+ Thể lục bát dung trong 17 thể ca trù.
+ Thể song thất lục bát: dùng ở một thể ca trù.
+ Thể thơ 7 chữ và một câu lục cuối bài: dùng trong 3 thể ca trù.
+ Thể thơ Đường luật (thất ngôn, tứ tuyệt) dùng trong 8 thể ca trù.
+ Thể phú: dùng trong một thể ca trù
+ Thơ Đường luật trường thiện: dùng trong 2 thể ca trrù
+ Thể hát nói là thể riêng của ca trù.
Thơ lục bát là thể thơ được sử dụng phổ biến trong ca trù, nhất là trong các điệu rù có như: Bắc phản Hồng Hạnh, Non mai, Đại Thạch…
Đặc biệt, trong các thể thơ dùng trong ca trù thì thể hát nói để lại số lượng nhiều nhất, và được ưa chuộng nhất. Hát nói đã gắn với các tên tuổi lớn trong lịch sử văn học Việt Nam như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tản Đà…
3. Nội dung chính của bài ca trù
Ca trù lấy chất liệu chính từ thể hát nói. Do vậy, nội dung của các bài hát ca trù cũng được chuyển tải qua nội dung tư tưởng của những bài hát nói.
Ta có thể bắt gặp trong ca trù tư tưởng chính thống của nho gia biểu hiện qua hình ảnh người quân tử gánh vác non sông, đau niềm đau nhân thế. Ta lại có thể thấy tinh thần của Thiền trong những bài hát nói thoát tục của Nguyễn Thượng Hiền, chu Mạnh Trinh.
Đặc biệt trong các bài hát ca trù ta còn bắt gặp ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang. Điều này được đề cập tới rất sớm trong sách “Đào nương ca” của Nguyễn Văn Ngọc. Tư tưởng Lão Trạng tập trung ở những khía cạnh sau.
-Tinh thần tự do, tự tại, thoát khỏi quy phạm của Nho giáo.
-Thiên nhiên trong ca trù là thiên nhiên tiên giới và mộng ảo.
-Hưởng lạc đã trở thành triết lý để thực hện “võ” hay ra giảng nội dung nghiêm túc của học thuyết Khổng Mạnh mà chỉ nhằm mục đích chính đáng là giải trí.
4. Bố cụ một bài ca trù
Theo sách “Ca trù thể cách” thì ta có thể sắp xếp bố cục một bài hát ca trù gồm 11 câu như sau:
Câu 1 và 2 gọi là tống mạo
Câu 3 và 4 gọi là thừa đề
Câu 5, 6 dùng lối thất ngôn, cổ thi hoặc quốc âm, nói tới đại ý của toàn bài.
Câu 7, 8, 9, 10 nói theo ý của câu 5, 6 để mở rộng thêm.
Câu 11: tổng kết ý nghĩa toàn bài.
Đôi khi, kết thúc câu thứ 11 lại có thêm 2 hoặc 4 câu nữa liền sau đó để mở rộng thêm ý tứ của bài hát.
5. Âm luật
Ca trù có 5 cung chính là (theo Nguyễn Đôn Phục).
-Cung nam: điệu nhanh, hơi trong nhưng bằng phẳng và xuống thấp.
-Cung bắc: điệu hát khan, hơi đục nhưng rắn rỏi và lên cao.
-Cung huỳnh: điệu xúc, ngặt, hát dính vào nhau.
-Cung pha: trong và đục pha lẫn, hơi ai oán, hát chệch.
-Cung nao: điệu chênh chênh, đục ở dưới, trong ở trên.
6. Đổi âm thể
Hiểu một cách đơn giản nhất thì “đổi âm thể” (còn gọi là “chuyển ẩm” dùng để chỉ khi nói tới việc đổi giọng của ả đào. Trong lối hát ả đào, hầu như bài nào cũng có đổi giọng ở từng đoạn trong bài hát.
7. Các điệu hát thông dụng
Theo các thư tịch ghi lại thì có khoảng 50 điệu hát ca trù. Trong đó có các điệu phổ biến như:
-Thét nhạc: là khúc hát đầu tiên của lối hát cửa đình. Sau phần giáo trống, giáo hương, cô đầu và kép chia nhau đứng hai bên hương án hát bài thét nhạc. Thét nhạc chú trọng về nhạc, về giai điệu tạo nhạc cảm cho tiệc hát mà ít chú trọng về lời.
-Hát giai: Sau khi hát bài thét nhạc, đào kép ngồi xuống chiếu, hát bài theo thể hát nói cửa đình gọi là hát giải.
-Hát mùa đai thạch: là điệu hát kèm theo múa rối vui
-Cung Bắc: là điệu hát của cung nữ nương vua, một trong nhưng điệu cổ nhất của ca trù.
-Bắc phản: (hát mở) khi bắt đầu vào chầu hát ở ca quán, ả đào thường hát bài này sau khi dạo đàn, phát hết khổ “lá đầu”
II. NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN CA TRÙ
1. Nhạc cụ
Để biểu diễn một bài ca trù, đào kép phải cần tới ba dụng cụ chính là đàn đáy, phách, trống.
Đàn đáy là nhạc cụ đặc trưng cho lối hát ca trù, còn gọi là vô để cầm nghĩa là đàn không đáy. Đàn có ba dây, 11 phím, thùng vuông, thân dài. Tiếng đàn phải theo tiêng hát, hát ao thì đàn cao, hát thấp thì đàn thấp. Đàn có hai cách là đàn khuôn và đàn hàng hoa. Trong tiệc hát thì kép là người đàn cho ả đào hát.
Phách: là bộ phận nhạc cụ của ả đào dùng cho ả đào gõ nhịp khi hát. Phách và sênh là hai nhạc cụ của ả đào. Phách làm từ gỗ, khi hát, ả đào gõ phách vào sênh. Sênh làm từ tre (gỗ). Phách có 4 khổ là: khổ sòng, khổ đơn, khổ rải, khổ lá đầu.
Trống: có 2 loại trống cửa đình là trống lớn. Dìu lớn bằng gỗ, trống có chiêng kèm theo. Trống thính phòng là loại nhỏ, cao 22cm, mặt trống rộng 20cm. Roi bằng gỗ Nguyệt rát quý, dài khoảng 36cm gọi là “roi chầu”. Trống cũng có 5 khổ như đàn và phách là: chính diện, xuyên tâm, lạc nhạn, quán châu, thượng mã.
2. Dàn nhạc của ca trù
Dàn nhạc khá đơn giản tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể để bố trí cho phù hợp.
Ở cung đình trong tế lễ lớn thì dùng bát âm.
Ở đền miếu, tuỳ hoàn cảnh mà dùng lục âm, tứ âm
Ở tiệc chúc tụng thì dùg đàn đáy, phách, trống.
Ở lễ rước, hát múa, hát chầu thì tuỳ từng lễ mà bố trí.
3. Tiếng hát và cách hát ca trù
Trong phạm vi một bài nghiên cứu tổng quát về lối hát ả đào, người viết không thể trình bày, phân tích một cách rõ ràng về trình tự và sự kết hợp lẫn nhau giữa tiếng hát - tiếng đàn, tiếng phách và trống trong một bài hát ca trù. Điều này chỉ có thể hiểu thông qua việc phân tích từng yếu tố đàn, phách, trống sử dụng như thế nào trong một bài hát ca trù. Thật ra thf ta đã thấy trong một bài hát ca trù, cách đánh phách, đánh trống, gảy đàn, tiếng hát của mỗi bài gần như đều theo một truyền thống nhất định. Trong một khúc hát có 3 làn đổi điệu.
Theo truyền thống thì cuộc hát ả đào bắt đầu có “dâng hương, giáo trống”. Người kép rung mấy hồi trống, đọc mấy câu chúc mừng, đào nương đốt hương dâng lên trước mặt thánh.
Tiếp sau đó, đào nương