Trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, thương mại quốc tế ngày càng được mở rộng và phát triển, trở thành một yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia. Theo thời gian, cán cân thanh toán giữa các quốc gia đã có sự thay đổi, sự dịch chuyển của các dòng tài chính trên thế giới cũng có nhiều biến động, trong thực tế ấy, quyền lực quốc tế của đồng tiền các quốc gia cũng có sự thay đổi về vị thế với các đồng tiền khác.
Kể từ khi kinh tế Mĩ trở thành đầu tàu của thế giới ( từ sau CTTG 2 đến nay), vị thế của đồng Đôla đã có nhiều sự đổi khác. Từ một tờ giấy bạc của quốc gia, Đôla dần trở thành đồng tiền thanh toán quốc tế, phương tiện dự trữ quốc tế, sức mạnh của đồng Đôla bao trùm gần như toàn bộ hệ thống tài chính tiền tệ thế giới. Thế nhưng, sự vươn lên mạnh mẽ của các nền kinh tế khác cùng với sự suy yếu về mặt kinh tế của nước Mĩ đã khiến cho vị thế đồng Đôla ngày càng biến động. Tính từ tháng 3/2009, đồng Đôla đã mất giá 16% và từ 2002 là 20%, tuy vậy theo diễn biến gần đây nhất từ nền kinh tế lớn nhất thế giới thì xu hướng đồng Đôla mất giá đang hiện hữu.
Các nước đang theo dõi mọi biến động của đồng Đôla, nhiều kịch bản được đưa ra, liệu đồng Đôla có mất đi vị thế tuyệt đối của mình? Liệu đồng tiền nào có thể thay thế được vai trò lịch sử to lớn của đồng Đôla, liệu nền kinh tế nào có thể đủ tiềm lực biến đồng tiền quốc gia mình thành đồng tiền quốc tế?.Có những liên minh tiền tệ ra đời ( EU), có đồng tiền dự trữ mới SDR, có những đồng tiền đang cố gắng hết sức để thể hiện vị thế của mình (CNY) .nhưng đồng Đôla trên thực tế vẫn đang thao túng thị trường tài chính tiền tệ quốc tế. Vậy đồng Đôla sẽ đi về đâu? Nhận thấy đây là một đề tài hay, có tính thời sự, nhóm 1 lớp Tài chính quốc tế đã cùng nhau thảo luận, tìm tài liệu để cho ra mắt: “ Vị thế đồng Đôla qua các thời kì”. Do thời gian tìm hiểu có hạn, chắc hẳn còn nhiều điều chưa đề cập đến nhóm chỉ xin đưa ra cái nhìn chủ quan của mình để các bạn cùng thảo luận và xem xét. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của thầy cô giáo và các bạn.
21 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 3281 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vị thế đồng Đôla qua các thời kì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, thương mại quốc tế ngày càng được mở rộng và phát triển, trở thành một yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia. Theo thời gian, cán cân thanh toán giữa các quốc gia đã có sự thay đổi, sự dịch chuyển của các dòng tài chính trên thế giới cũng có nhiều biến động, trong thực tế ấy, quyền lực quốc tế của đồng tiền các quốc gia cũng có sự thay đổi về vị thế với các đồng tiền khác.
Kể từ khi kinh tế Mĩ trở thành đầu tàu của thế giới ( từ sau CTTG 2 đến nay), vị thế của đồng Đôla đã có nhiều sự đổi khác. Từ một tờ giấy bạc của quốc gia, Đôla dần trở thành đồng tiền thanh toán quốc tế, phương tiện dự trữ quốc tế, sức mạnh của đồng Đôla bao trùm gần như toàn bộ hệ thống tài chính tiền tệ thế giới. Thế nhưng, sự vươn lên mạnh mẽ của các nền kinh tế khác cùng với sự suy yếu về mặt kinh tế của nước Mĩ đã khiến cho vị thế đồng Đôla ngày càng biến động. Tính từ tháng 3/2009, đồng Đôla đã mất giá 16% và từ 2002 là 20%, tuy vậy theo diễn biến gần đây nhất từ nền kinh tế lớn nhất thế giới thì xu hướng đồng Đôla mất giá đang hiện hữu.
Các nước đang theo dõi mọi biến động của đồng Đôla, nhiều kịch bản được đưa ra, liệu đồng Đôla có mất đi vị thế tuyệt đối của mình? Liệu đồng tiền nào có thể thay thế được vai trò lịch sử to lớn của đồng Đôla, liệu nền kinh tế nào có thể đủ tiềm lực biến đồng tiền quốc gia mình thành đồng tiền quốc tế?...Có những liên minh tiền tệ ra đời ( EU), có đồng tiền dự trữ mới SDR, có những đồng tiền đang cố gắng hết sức để thể hiện vị thế của mình (CNY)….nhưng đồng Đôla trên thực tế vẫn đang thao túng thị trường tài chính tiền tệ quốc tế. Vậy đồng Đôla sẽ đi về đâu? Nhận thấy đây là một đề tài hay, có tính thời sự, nhóm 1 lớp Tài chính quốc tế đã cùng nhau thảo luận, tìm tài liệu để cho ra mắt: “ Vị thế đồng Đôla qua các thời kì”. Do thời gian tìm hiểu có hạn, chắc hẳn còn nhiều điều chưa đề cập đến…nhóm chỉ xin đưa ra cái nhìn chủ quan của mình để các bạn cùng thảo luận và xem xét. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của thầy cô giáo và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn.
Kết cấu bài luận:
Mở đầu
Đồng Đôla qua các thời kỳ
Lịch sử hình thành đồng Đôla
Đồng Đôla trong chế độ bản vị vàng
Đồng Đôla giữa 2 cuộc thế chiến
Đồng Đôla trong chế độ Bretton Woods (1944-1973)
Vị thế đồng Đôla từ năm 1973 đến nay
Tổng kết và dự báo
Vị thế đồng Đôla trong nền kinh tế Việt Nam
Vị trí, vai trò của đồng Đôla tại Việt Nam.
Sự đôla hóa trong nền kinh tế Việt Nam.
Sự biểu hiện của tình trạng Đôla hóa trong nền kinh tế.
NỘI DUNG
Lịch sử đồng Đôla:
Như các bạn đã biết, nước Mỹ được thành lập vào năm 1776, tuy nhiên, đồng Đôla đã xuất hiện từ năm 1690. Chính quyền vịnh Massachusetts lần đầu tiên sử dụng tiền giấy để thanh toán các khoản chi phí cho quân đội, và đồng tiền này nhanh chóng được sử dụng ở các nước thuộc địa lân cận. Tuy nhiên, vương quốc Anh đưa ra rất nhiều điều luật kiểm soát việc sử dụng đồng tiền này rồi tiến tới cấm hẳn sử dụng chúng. Đồng tiền chung được đưa ra tại Đại hội châu lục năm 1775 song đồng tiền này cũng không tồn tại lâu do không đủ tiềm lực tài chính và dễ bị làm giả.Năm 1785, đồng Đôla trở thành đơn vị tiền tệ chính thức của Hoa Kỳ cùng với sự ra đời của ngân hàng quốc gia đầu tiên, ngân hàng Bắc Mỹ. Để hỗ trợ cho cuộc nội chiến Nam – Bắc, tổng thống Mỹ Abraham Lincoln đưa vào hệ thống tiền giấy bạc xanh vào năm 1861, việc in ấn đồng tiền này được áp dụng một số kỹ thuật đặc biệt như in dấu kho bạc và khắc chữ kí để chống làm giả. Tuy nhiên, sau khi tổng thống Abraham Lincoln bị ám sát, việc phát hành loại tiền này đã bị hạn chế, thậm chí đến năm 1960, lượng Đôla phát hành chỉ chiếm 1% tổng lượng tiền lưu thông trong nước. Việc giám sát in tiền của Ngân hàng quốc gia được giao cho Kho bạc nhà nước vào năm 1863, sau khi quốc hội Mỹ thống nhất lại hệ thống ngân hàng trong nước. Điều này đã trao cho các ngân hàng quyền phát hành tiền và cho phép họ mua trái phiếu chính phủ dễ dàng hơn. Đạo luật dự trữ liên bang năm 1913 đã tạo ra một ngân hàng trung ương và tổ chức hệ thống ngân hàng quốc gia có thể theo kịp nhu cầu thay đổi tài chính của đất nước. Cục dự trữ liên bang Mỹ cho ra đời loại tiền tệ mới là tiền giấy dự trữ liên bang, được in ra lần đầu tiên dưới dạng đồng 10 Đôla Mỹ. Kích thước của đồng tiền này sau đó được giảm đi 30% để tiết kiệm chi phí in tiền. Tới năm 1996, việc in tiền được áp dụng rất nhiều kĩ thuật mới tiên tiến hơn để ngăn chặn việc làm giả tiền. Đồng Đôla đã được thông qua và trong một số trường hợp được sử dụng như là đồng tiền chính thức tại nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hiện nay trên thế giới, có rất nhiều quốc gia sử dụng Đôla Mỹ như đơn vị tiền tệ quốc gia, đó là: Đông Timor, Ecuador, El Salvador, …
Đồng Đôla trong thời kì bản vị vàng.
Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, nền kinh tế thế giới vận hành dưới chế độ bản vị vàng. Thời kỳ hoàng kim của chế độ bản vị vàng (1880-1914), hệ thống tiền tệ quốc tế hoạt động một cách ổn định và hợp tác giữa các nước trong các khu vực và trên thế giới. Dưới chế độ này, tổ chức phát hành tiền mặt (ở dạng giấy bạc hay tiền xu) cam kết sẵn sàng nhận lại tiền mặt và trả vàng nếu được yêu cầu. Đồng tiền của một nước có thể trao đổi với một đồng tiền khác với một tỷ lệ không đổi, tùy thuộc vào giá trị của từng đồng tiền với vàng.
Trong chế độ bản vị vàng, đổng bảng Anh là đồng tiền được sử dụng rộng rãi nhất. Có thể nói, vàng được chính phủ các nước dùng chính thức và khu vực tư nhân sử dụng đồng bảng để thực hiện những chức năng tiền tệ. Do đặc điểm của chế độ bản vị vàng là tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền được xác định dựa trên nguyên tắc ngang giá vàng, tỷ giá trên thị trường ngoại hối dao động không đáng kể xung quanh mức tỷ giá trên cơ sở bản vị vàng nên hành động kinh doanh chênh lệch tỷ giá làm tăng cung bảng Anh trên thị trường ngoại hối ,dẫn đến bảng Anh giảm giá. Do Bảng Anh định giá cao nên các nhà nhập khẩu Mỹ sẽ thanh toán nhập khẩu từ Anh bằng cách vận chuyển vàng sang Anh ,và các nhà nhập khẩu Anh sẽ thanh toán nhập khẩu từ Mỹ bằng cách chuyển bảng Anh ra Đôla Mỹ. Từ đó, có thể thấy trong thời kỳ này đồng Đôla Mỹ chỉ có vai trò là đồng bản vị của Mỹ, được định giá so với vàng thấp và giao dịch trên thị trường quốc tế rất hạn hẹp.
Đồng Đôla giữa 2 cuộc thế chiến:
Sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng và sự suy yếu của đồng bảng Anh
Năm 1914, CTTG I nổ ra, chế độ bản vị vàng sụp đổ. Các nước chấm dứt việc tự do chuyển đổi tiền giấy ra vàng, chuyển sang chế độ tỷ giá thả nổi giữa các đồng tiền. Để tài trợ cho chiến tranh, các nước châu Âu thực hiện chính sách phát hành thêm tiền, điều này khiến cho lạm phát tăng cao, giá trị các đồng tiền lớn ở châu Âu(cụ thể là đồng bảng Anh) lâm vào tình trạng mất ổn định.
Trong thời kì này, kinh tế Anh ngày càng tụt hậu, kim ngạch xuất khẩu tụt giảm, Anh từ trở thành con nợ của Mỹ, mất sức mạnh quân sự và hệ thống thuộc địa rộng lớn. Cùng với đó, nền kinh tế Mĩ ngày càng phát triển, không bị tổn thất do chiến tranh, dự trữ vàng tăng, cán cân thương mại ngày càng thặng dư, đồng Đôla hiện diện gần như mọi nơi trên thế giới…Từ 1 đồng tiền quốc gia, đồng Đôla đã vươn lên trở thành 1 đồng tiền mạnh trên thế giới và ngày càng có vai trò to lớn trong lĩnh vực thanh toán quốc tế . Tuy vậy, dù bị suy yếu nhưng đồng bảng anh vẫn giữ vị trí chủ chốt trong hệ thống tiền tệ thế giới lúc bấy giờ..
Giai đoạn 1929-1930, cuộc đại suy thoái diễn ra, sự sụp đổ của hệ thống kinh tế tài chính đã làm cho hệ thống tiền tệ thế giới lâm vào tình trạng rối ren. Sự suy yếu của đồng bảng Anh, sự vươn lên mạnh mẽ của nền kinh tế Mĩ đã phân chia hệ thống tiền tệ thế giới thành các liên minh tiền tệ, trong đó khu vực đồng Đôla và đồng bảng Anh là 2 đối trọng lớn, trực tiếp.
Như vậy, trong thời kì giữa 2 cuộc chiến tranh thế giới, đồng Đôla có vai trò to lớn trong việc thực hiện các thanh toán quốc tế, tuy vậy, các nước vẫn ưu tiên dùng đồng bảng Anh làm đồng tiền dự trữ. Vai trò của đồng Đôla thời kỳ này dừng lại ở mức là một trong những đồng tiền chủ chốt trên thế giới.
Đồng Đôla trong chế độ Bretton Woods (1944-1973):
4.1. Sự hình thành hệ thống Bretton Woods:
Chiến tranh thế giới II đi đến hồi kết, các nước họp bàn lại, phân chia lại thị trường thế giới.Nền kinh tế thế giới có nhiều biến đổi với sự vươn lên mạnh mẽ của nền kinh tế Mĩ – đầu tàu mới của kinh tế thế giới.
Năm 1944, 44 nước đã họp tại khách sạn Mout Washington – New Hampshire – Mĩ để thoả thuận cho ra đời hệ thống tiền tệ thế giới mới: hệ thống Bretton Woods.
Nội dung của chế độ Bretton Woods:
Công nhận đồng ĐÔLA là đồng tiền tiêu chuẩn, làm trụ cột cho hệ thống tiền tệ này. ĐÔLA là đồng tiền dự trữ, thanh toán và đóng vai trò quan trọng trong các quan hệ tiền tệ, tín dụng quốc tế.
Hệ thống tiền tệ thế giới phải được duy trì tỷ giá ổn định, giảm thiểu các rủi ro giao dịch quốc tế cũng như chấm dứt tình trạng phá giá đồng tiền, gây tổn thất cho các nước. Các đồng tiền khác trên thế giới phải niêm yết tỷ giá cố định với đồng ĐÔLA.( biên độ giao động không quá 1%)
Các nghiệp vụ về vàng được thực hiện với quy định 35 ĐÔLA = 1 ounce vàng. ĐÔLA được tự do chuyển đổi ra vàng với tỷ lệ này. Ngân hàng TW các nước thành viên phải can thiệp vào thị trường ngoại hối để đảm bảo tỷ lệ này.
Hội nghị thành lập 2 tổ chức quốc tế là Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế(IBRD) còn gọi là World Bank.(WB). Nhiệm vụ của IMF là giám sát các nước hoạt động theo nguyên tắc của Bretton Woods, còn WB là tham gia vào công cuộc tái thiết châu Âu sau đại chiến TG II, huy động vốn từ các nước giàu, cho nước nghèo vay với ưu đãi lãi suất.
4.2. Đồng Đôla Mĩ vươn lên thống trị hệ thống tiền tệ thế giới:
Đôla là đồng tiền duy nhất được quy đổi trực tiếp ra vàng. Giá trị của các đồng tiền khác phải dựa trên tỷ giá với đồng Đôla.
Đôla là đồng tiền dự trữ của các quốc gia trên thế giới, là phương tiện thanh toán của thương mại quốc tế.
Mọi quan hệ tài chính, tiền tệ trên thế giới thời kỳ này đều gắn với đồng Đôla.
Như vậy, đồng Đôla từ một đồng tiền quốc gia đã vươn lên trở thành một đồng tiền quốc tế, vai trò to lớn của đồng Đôla được khẳng định một cách mạnh mẽ trong chế độ Bretton Woods. Đôla bao trùm mọi lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, mọi quan hệ kinh tế, tài chính quốc tế trên thế giới thời kì này.
4.3. Lý do Bretton Woods chọn lựa đồng Đôla là đồng tiền dự trữ, trao đổi , thanh toán quốc tế:
Sau chiến tranh TG II, kinh tế Mĩ phát triển thần kì, nhanh chóng khẳng định vị thế số 1, là đầu tàu kinh tế của thế giới, đóng góp 1 nửa năng lực sản xuất của toàn thế giới. Mĩ trở thành nhà máy, nhà xuất khẩu máy móc thiết bị, hàng hóa lớn nhất. Khách hàng của Mĩ là tất cả các nước trên thế giới.
Mĩ thể hiện vai trò quốc tế to lớn khi tham gia viện trợ tích cực, góp phần tái thiết các nước thua trận trong chiến tranh ( kế hoạch Marshall), thông qua đó mở rộng thị trường, phân phối hàng hoá Mĩ trên khắp thế giới, phát triển, phân phối đồng Đôla ra phạm vi trên toàn thế giới.
Cán cân thương mại của Mĩ luôn thặng dư, các nước khác nhập khẩu hàng của Mĩ, khiến cho nhu cầu sử dụng Đôla trên khắp thế giới tăng lên.
- Thời kì này, dự trữ vàng của Mĩ liên tục tăng, kho vàng dự trữ của Mĩ chiếm khoảng 75% tổng dự trữ vàng trên thế giới, điều này đảm bảo cho sức mạnh tuyệt đối của đồng Đôla.
4.4. Lí do sụp đổ của hệ thống Bretton Woods:
Giải thích cho lí do sụp đổ của hệ thống tiền tệ Bretton Woods, trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng theo suy nghĩ của người viết có hai nguyên nhân quan trọng nhất, quyết định nhất đó là: sự mất lòng tin của các nước với đồng Đôla và Bretton Woods đã thiếu đi một cơ chế giám sát, quản lí, điều tiết tỷ giá giữa đồng tiền các nước với đồng Đôla hay nói cách khác Bretton Woods chỉ là một thỏa thuận mà thiếu đi một cơ chế pháp lí để giải quyết những vấn đề phát sinh.
Lòng tin vào đồng Đôla suy giảm:
Các NHTW trên thế giới không còn niềm tin nắm giữ Đôla làm phương tiện dự trữ, lòng tin chỉ còn khi Mĩ cam kết đổi Đôla ra vàng theo đúng tỉ lệ 35USD= 1 ounce vàng. Trong khi ngày càng có dấu hiệu Mĩ sẽ không thể đáp ứng yêu cầu này.
Dự trữ Đôla ở NHTW ngoài nước Mĩ tăng cao, cán cân thanh toán của Mĩ thâm hụt nặng nề. Khi trữ lượng Đôla ngoài Mĩ lớn hơn rất nhiều trữ lượng vàng của Mĩ khiến cho Mĩ không thể thanh toán tại tỉ giá 35USD=1 ounce vàng.Điều này tác động vô cùng to lớn tới tâm lí của các NHTW ngoài Mĩ về sự giảm giá của đồng Đôla với vàng. Chính vì thế, xu thế đổi Đôla ra vàng để dự trữ trở nên phổ biến, đến lúc Mĩ không đủ khả năng thanh toán vàng thì hệ thống Bretton Woods sụp đổ là 1 điều tất yếu.
Bretton Woods thiếu 1 cơ chế mạnh để ổn định tỷ giá đồng tiền các nước:
Cán cân thanh toán mất cân đối, các nước chỉ miễn cưỡng nâng giá đồng tiền của mình. Tất nhiên, quyết định nâng giá đồng bản tệ nếu có của các quốc gia đang có thặng dư sẽ không có tác động điều chỉnh tới tình trạng cán cân thanh toán, khiến cho các nước thâm hụt BOP ngày càng thâm hụt nặng nề hơn (cụ thể là Mĩ).
Bản thân nước Mĩ không thể phá giá đồng Đôla để cải thiện tình hình thâm hụt cán cân thanh toán của mình. Điều này làm mất lòng tin vào nền kinh tế Mĩ và ảnh hưởng trực tiếp đến vị thế đồng Đôla và chế độ Bretton Woods.
Các nước khác ngoài Mĩ: khi có thặng dư, các nước không muốn nâng giá đồng tiền của mình vì nó sẽ làm chậm lại nhịp độ phát triển, kiềm chế xuất khẩu, hạn chế sản xuất…Với các nước bị thâm hụt BOP ( ngoài Mĩ), sự phá giá tiền tệ là biểu hiện của trình độ quản lý kém, của một nền kinh tế yếu, mất ổn định…Chính vì thế, các nước ngoài Mĩ không hề có xu hướng thay đổi tỷ giá đồng tiền để hệ thống Bretton Woods đạt được sự ổn định cần thiết.
Thời kì này, Mĩ chi cho chiến tranh ở Việt Nam chủ yếu qua phát hành tiền tệ khiến cho đồng Đôla trở nên bất ổn hơn bao giờ hết. Lạm phát tăng lên, tình trạng dư thừa đồng Đôla diễn ra phổ biến, hàng hóa trong nước trở nên đắt đỏ càng khiến tình trạng rối ren của kinh tế Mĩ diễn ra trầm trọng
Trong bối cảnh đó, đồng Đôla liên tục mất giá trong thời kì này. Từ 1971-1973, Mĩ tuyên bố phá giá đồng Đôla 2 lần.
à Hệ thống Bretton Woods sụp đổ.
Vị thế của đồng Đôla từ năm 1973 đến nay
5.1. Đôla index:
1) Sự ra đời của Đôla index:
Tháng 3 năm 1973,các quốc gia lớn nhất thế giới đã ngồi lại với nhau ở thủ đô Washington và tất cả cho phép đồng tiền của họ lưu hành tự do qua lại lẫn nhau. Một chỉ số mới được sinh ra để đo giá trị đồng Đôla là USD index. Giá trị khởi đầu của USDX là 100.
Chỉ số Đôla đo sự tương quan của Đôla với 6 loại tiền tệ lớn khác trên thế giới đó là đồng euro (EUR), yên Nhật (JPY), Bảng Anh (GBP), Đôla Canada (CAD), đồng franc Pháp, đồng sek (SEK) Thụy Điển. Tất cả các đồng tiền khác trên thế giới đều theo sát chỉ số Dollar U.S. Chính điều này khiến cho Đôla trở thành công cụ rất tốt để đo sức mạnh toàn cầu của đồng Dollar U.S.
2) Công thức tính USDX:
USDX=50.14348112 * EUR/USD…………..
Từ năm 1973 đến nay, USD index biến đổi liên tục đáng chú ý nhất là giai doạn tăng giá mạnh 1980 -1985, giai đoạn sụt giảm liên tục từ 2002 đến nay.
5.2. Giá trị đồng Đôla giai đoạn 1980 -1985:
1) Đôi nét về bối cảnh kinh tế Mỹ nhưng năm 1980 -1985:
Nền kinh tế phải đối mặt với lạm phát cao:
Sự trỗi dậy của khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 cùng với cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1979, lạm phát bắt đầu gây đau đớn cho nền kinh tế của Mỹ. Lạm phát tăng gấp đôi sau cú sốc dầu mỏ, từ 3,2% một năm lên tới 7,7%, con số lên tới 11,3% năm 1975 và đạt đỉnh vào năm 1980 là 13,5%. Để đương đầu với cơn bão lạm phát, quyết tâm kiềm chế lạm phát của nền kinh tế, Fed đã theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt trong những năm 1980 -1985. Cụ thể: Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Paul Volcker làm chậm lại tốc độ tăng trưởng cung tiền và tăng lãi suất, tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng từ 11% năm 1979 lên 20% tháng 6 năm 1981, cùng với đó là sự chạm mốc của lãi suất cơ bản là 21,5% vào năm 1982.
=> Hệ lụy của chính sách tiền tệ đó là nền kinh tế Mỹ lâm vào khó khăn, đối mặt với một cuộc suy thoái nhẹ.
Nền kinh tế lâm vào suy thoái nhẹ:
Một cuộc suy thoái nhẹ từ tháng 1 đến tháng 7 năm 1980 giữ tỷ lệ thất nghiệp cao, mặc dù kinh tế phục hồi nhưng tình trạng thất nghiệp vẫn ở mức cao lịch sử (khoảng 7,5%). Tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục tăng suốt năm 1982, đạt 10% trên toàn quốc, và đạt một đỉnh cao kỷ lục 25% ở Rockford
=> Để kích thích nền kinh tế, chính phủ đã thực hiện chính sách tài khóa mở rộng nhằm đưa nền kinh tế qua khỏi cơn suy thoái.
Kết quả: Trong giai đoạn nhưng năm 1980 -1985, Mỹ đã sử dụng đồng thời chính sách tiền tệ thắt chặt và chính sách tài khóa mở rộng, trái ngược với các nước bấy giờ là áp dụng đồng thời cả chính sách tiền tệ và tài khóa thắt chặt.
2) Nguyên nhân sự lên giá của Đôla so với các nội tệ lớn khác:
Trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 1980 đến tháng 3 năm 1985 đồng Đôla không ngừng tăng giá. Tỉ giá danh nghĩa cũng như tỉ giá thực của Đôla tăng gần 50%.
Nguyên nhân chính gây nên sự lên giá mạnh mẽ của đồng Đôla đó là việc áp dụng chính sách tài khóa mở rộng của chính phủ. Chính sách tài khóa mở rộng nhằm kích cầu để đưa nền kinh tế ra khỏi đà suy thoái. Chính sách tài khóa quá mức cộng hưởng với chính sách tiền tệ thắt chặt đã làm cho mức lãi suất thực của Mỹ cao hơn của Châu Âu. Hệ quả là dòng vốn ồ ạt chảy vào nước Mỹ, cầu Đôla tăng vọt. Chính điều đó đã làm đồng Đôla tăng giá mạnh so với các đồng tiền khác.
3) Hiệp định Plaza:
Sự lên giá của Đôla khiến cho khả năng cạnh tranh của hàng nội địa so với hàng nhập khẩu giảm đi cùng với đó là sự thu hẹp của ngành suất khẩu
=> Cán cân vãng lai của Mỹ xấu đi rõ rệt. Để bảo vệ nền sản xuất trong nước, Mỹ đã thực hiện áp dụng các biện pháp bảo hộ nhằm chống đỡ hàng hóa nước ngoài. Sự hạn chế thương mại này đã bắt các nước bên ngoài lên tiếng can thiệp. Cuối cùng các nước đã ngồi lại với nhau nhằm giải quyết các tranh chấp thông qua hiệp định Plaza.
Tại hiệp định, các nước đã cam kết với nhau chặt chẽ để khiến đồng Đôla giảm giá. Để làm điều này các chính phủ đã mua mark, yên và bán dollar ra.
Sau hiệp định Plaza, sự hành động của các chính phủ đã khiến cho dollar giảm giá liên tục theo chiều thẳng đứng suốt trong những năm 1986. Và đến năm 1987, tại hiệp định Louvre, các nước đặt ra mục tiêu duy trì tỉ giá Đôla với mark và yên trong biên độ 5%. Sau hiệp định Louvre, tỉ giá được duy trì tương đối ổn định.
Giá trị của đồng Đôla từ năm 2002 đến nay
1) Sự sụt giảm mạnh của đồng Đôla và sự suy yếu về vị thế
Sau sự kiện 11/9/2001 tới nay đồng Đôla liên tục mất giá và chạm đáy vào năm 2009. Nếu tính từ năm 2002 tới nay thì đồng Đôla đã mất giá tới trên 20%.
Trong quãng thời gian này đồng Đôla giảm giá kỷ lục so với các đồng tiền chủ chốt khác cũng như các đồng tiền của châu Á. Chỉ tính riêng từ đầu năm 2007 đồng Đôla đã mất giá khoảng 17%. Quãng thời gian năm 2007 có thể xem là năm đáng quên của nền kinh tế Mĩ khi mà nước này là khởi nguồn cho cuộc khủng hoàng tài chính - tiền tệ toàn cầu, đồng Đôla xuống dốc không phanh và hậu quả nặng nề để lại với nền kinh tế số 1 thế giới cho tới giờ. Từ tháng 7 tới tháng 9/2007 đồng Đôla giảm giá 5.4% so với đồng euro và 6,8% so với đồng yên của Nhật Bản. Sự xuống dốc không phanh này thực sự đạt đến những dấu mốc đáng nhớ khi đồng euro đã tăng tới mức 1 euro đổi được 1,48 Đôla, đồng đola Canada(CAD) đã tăng lên mức cao nhất trong nửa thế kỷ qua khi đạt mức 1 CAD xấp xỉ 1,05 Đôla. Đồng Bảng Anh tăng lên 2,0317 Đôla/Bảng mức cao nhất từ năm 1981.
Trên các thị trường Châu Á đồng Đôla liên tục bị mất giá so với đồng baht và đạt ngưỡng 34 baht/Đôla- mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998. Đồng peso của Philippines cũng lên giá cao nhất trong 8 năm qua và đồng dollar Singapore đạt mức cao nhất trong 1 thập kỉ nay. Các đồng tiền khác của châu Á cũng tăng giá so với đồng Đôla như đồng won Hàn Quốc, đồng rupee của Ấn Độ hay đồng dollar Đài Loan. Đồng Nhân dân tệ với ngầm định neo vào giá trị đồng Đôla nhưng tới năm 2005 khi chính phủ Trung Quốc nới lỏng sự quản lý của mình tới tỷ giá lập tức làm tăng giá đồng Nhân dân t