Tìm hiểu thêm về các ngôi quốc tự ở Huế

XứThuận Hoá thuở Nguyễn Hoàng di dân lập ấp là vùng đất hoang vu, nơi còn lắm hùm beo cùng biết bao thách thức từ những di sản, di tích văn hoá Champa với đền tháp, cơ sở tín ngưỡng mang đậm tính cách Ấn Độcủa những Shiva, Vishnu, Brahma,. xa lạvà đầy sự đe doạ đến yếu tốvăn hoá Indonesien của người Thượng Trường Sơn huyền bí. Trước những thửthách sựbình an của tâm hồn trong mỗi người, ngôi chùa với đức ThếTôn từbi xuất hiện nhưtấm lòng ấm áp của người mẹche chở đàn con, giúp họcó thêm nghị lực để sinh tồn khi đã lìa xứ. Ban đầu, ngôi chùa chỉlà những mái nhà tranh vách đất nép mình vào thiên nhiên, hoà vào khung cảnh núi đồi uốn lượn của chốn Thần kinh sau này. Dần dần cùng với dấu chân hoằng pháp của chưvịthiền sưngôi thảo am mọc lên ngày một nhiều hơn lưu dấu cho nhiều ngôi chùa lớn xuất hiện vềsau. Tuy nhiên để đánh dấu sựphát triển mạnh mẽcủa hệthống chùa chiền trên mảnh đất xứHuếvà sự xuất hiện của hàng loạt ngôi Quốc tựphải đến thời kỳtrịvì của các vua nhà Nguyễn, đặc biệt từthời vua Gia Long (1802) cho đến vua Duy Tân (1916). Trong thời kỳnày, nhiều ngôi chùa nổi tiếng được trùng kiến và phát triển cực thịnh nhưchùa Thiên Mụ, chùa Thánh Duyên, đồng thời những ngôi chùa mới được chính các vua xây dựng tạo nên những danh lam bậc nhất của xứKinh kỳnhưLinh Hựu quán (1830), chùa Giác Hoàng (1839), chùa Diệu Đế(1844). Các ngôi Quốc tựtuy chiếm sốlượng không nhiều trong hệthống chùa Huế * Khoa Xã hội – Nhân văn, Trường Đại học Phú Xuân, Huế. 2 nhưng đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc hoằng dương Phật pháp trên mảnh đất Kinh đô nhà Nguyễn.

pdf8 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2816 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu thêm về các ngôi quốc tự ở Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 TÌM HIỂU THÊM VỀ CÁC NGÔI QUỐC TỰ Ở HUẾ Đặng Vinh Dự* Xứ Thuận Hoá thuở Nguyễn Hoàng di dân lập ấp là vùng ñất hoang vu, nơi còn lắm hùm beo cùng biết bao thách thức từ những di sản, di tích văn hoá Champa với ñền tháp, cơ sở tín ngưỡng mang ñậm tính cách Ấn Độ của những Shiva, Vishnu, Brahma,... xa lạ và ñầy sự ñe doạ ñến yếu tố văn hoá Indonesien của người Thượng Trường Sơn huyền bí. Trước những thử thách sự bình an của tâm hồn trong mỗi người, ngôi chùa với ñức Thế Tôn từ bi xuất hiện như tấm lòng ấm áp của người mẹ che chở ñàn con, giúp họ có thêm nghị lực ñể sinh tồn khi ñã lìa xứ. Ban ñầu, ngôi chùa chỉ là những mái nhà tranh vách ñất nép mình vào thiên nhiên, hoà vào khung cảnh núi ñồi uốn lượn của chốn Thần kinh sau này. Dần dần cùng với dấu chân hoằng pháp của chư vị thiền sư ngôi thảo am mọc lên ngày một nhiều hơn lưu dấu cho nhiều ngôi chùa lớn xuất hiện về sau. Tuy nhiên ñể ñánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống chùa chiền trên mảnh ñất xứ Huế và sự xuất hiện của hàng loạt ngôi Quốc tự phải ñến thời kỳ trị vì của các vua nhà Nguyễn, ñặc biệt từ thời vua Gia Long (1802) cho ñến vua Duy Tân (1916). Trong thời kỳ này, nhiều ngôi chùa nổi tiếng ñược trùng kiến và phát triển cực thịnh như chùa Thiên Mụ, chùa Thánh Duyên, ñồng thời những ngôi chùa mới ñược chính các vua xây dựng tạo nên những danh lam bậc nhất của xứ Kinh kỳ như Linh Hựu quán (1830), chùa Giác Hoàng (1839), chùa Diệu Đế (1844). Các ngôi Quốc tự tuy chiếm số lượng không nhiều trong hệ thống chùa Huế * Khoa Xã hội – Nhân văn, Trường Đại học Phú Xuân, Huế. 2 nhưng ñã ñóng vai trò rất quan trọng trong việc hoằng dương Phật pháp trên mảnh ñất Kinh ñô nhà Nguyễn. Những nghiên cứu về văn hoá Huế, Phật giáo Huế ñã chỉ ra ñiều ñó. Tuy vậy, ñể hiểu thế nào là Quốc tự và số lượng cụ thể các ngôi Quốc tự trên mảnh ñất này là câu hỏi có không ít hơn một ñáp án. Theo Lịch sử Phật giáo xứ Huế thì Huế có 4 ngôi Quốc tự ñó là Thiên Mụ, Giác Hoàng, Thánh Duyên và Diệu Đế [1:572]. Tác giả Hà Xuân Liêm cũng ñồng ý với nhận ñịnh trên nhưng cho rằng Huế chỉ có 3 ngôi Quốc tự (chính thức) là Thiên Mụ, Thánh Duyên và Diệu Đế [4:573]. Ông cũng cho rằng các ngôi chùa Giác Hoàng, Linh Quang, Long Quang, Ngọc Sơn1, Từ Ân là chùa quan, không phải là Quốc tự vì thế ñã bị triều vua Duy Tân, Khải Định lần lượt hạ chiếu dụ dẹp bỏ [4:564]. Trong một bài viết về chùa Từ Ân trên trang Web của Trung tâm Văn hoá Phật giáo Liễu Quán Huế, tác giả Lê Quang Thái ñã chỉ ra rằng chùa Từ Ân là ngôi Quốc tự thứ 7 ở chốn kinh sư: “Theo CHÂU BẢN TRIỀU NGUYÊN thì ngày 9 tháng 11 năm Tự Đức thứ 32, tức năm 1879, vua Tự Đức ñã châu phê xếp chùa cổ Từ Ân trở thành Quốc tự thứ 7 ở chốn kinh sư” [8]. (Thực ra tờ Châu bản này nhắc ñến chuyện bộ Lễ tâu việc “chùa Bửu (Bảo) Sơn xin tu bổ và xét cấp ñồ thờ”. Qua ñó, vua châu phê cùng với chùa Bửu Sơn, chùa Từ Ân ñược xếp vào hàng “quan tự” chứ không phải là Quốc tự [2: 513-521].) Trở lại tờ chiếu dụ trong Châu bản triều Nguyễn dưới thời Khải Định ngày 19 tháng 9 năm 1918 do Nội các thần Phạm Hoàn, Đương trực thần Bảo Thạch, Khoa ñạo thần Nguyễn Duy Thắng về việc xin dẹp bỏ 4 ngôi chùa quan thì: “...Lại nữa phụng chiếu các chùa quan 1: Ngọc Sơn ban ñầu có tên là Bảo Sơn. Năm 1866, loạn “Chày Vôi” mưu giết vua Tự Đức, lập con của Hồng Bảo. Vì nhiều nhà sư ở chùa này có dính dáng với cuộc biến ñộng nên vua giận, toan phá chùa, may nhờ hoàng hậu can ngăn, chùa chỉ bị ñổi tên thành Ngọc Sơn. Năm 1904, cơn bão Giáp Thìn ñã làm ñổ nát chùa. Do vị trí nằm trên ñồi Kim Sơn nên khi trùng tu lại chùa vào năm 1944, bác sĩ Lê Đình Thám và hội An Nam Phật học xây viện Phật học ñầu tiên trên ñồi, nơi di tích ñổ nát của “chùa quan” cũ ñã lấy tên là Tùng Lâm Kim Sơn, hay còn gọi là chùa Kim Sơn [4:51-67]. 3 tại kinh thành có 7 sở (Thiên Mụ, Diệu Đế, Thánh Duyên, Long Quang, Từ Ân, Linh Quang và Linh Hựu Quán). Trong ñó Thiên Mụ, Diệu Đế, Thánh Duyên là 3 chùa ñều thuộc danh lam thắng cảnh, xin lưu giữ phụng thờ ñể bảo tồn cổ tích. Còn lại 4 chùa quán là Long Quang, Từ Ân, Linh Quang, Linh Hựu nhiều phen bị gió mưa dột nát chưa tu bổ, không tiện trần thiết ñồ thờ ñể phụng thờ Phật tượng. Nhưng Long Quang là chùa quan vậy Phật tượng và ñồ thờ xin ñệ về thờ ở chùa Thiên Mụ, còn cột kèo cây gỗ sẽ do Bộ Công triệt hạ ñem về cất ñể sau này khi có việc cần dùng. Còn các chùa quán như Từ Ân, Linh Quang, Linh Hựu vốn là chùa tư ñược nhập tịch vào chùa quan thì do bọn thần phái kiểm, giao về cho xã dân, hoặc chư tăng ai có nguyện nhận phụng thờ thì cho. Nếu chùa nào không có ai nguyện nhận thì tượng Phật và ñồ thờ xin phân chia ra ñể vào các chùa quan hiện còn (Thiên Mụ, Diệu Đế, Thánh Duyên) ñể trần thiết thờ phụng, còn cột kèo, cây gỗ thì do bộ Công triệt giỡ ñể khỏi tu bổ, tốn kém...” [2:930 - 931]. Theo văn bản này thì ñến năm Khải Định thứ 3 (1918), phủ Thừa Thiên lúc ấy và Huế ngày nay có 72 ngôi chùa quan và 3 ngôi chùa Thiên Mụ, Thánh Duyên và Diệu Đế ñược nhắc ñến là những ngôi chùa quan trọng bậc nhất, phải bảo tồn ñể lưu giữ thắng tích. Như vậy câu hỏi thế nào là Quốc tự, số lượng bao nhiêu vẫn khó ñể trả lời chính xác. Điều ñó cũng dễ hiểu vì khi nghiên cứu về chùa Huế, vấn ñề là Quốc tự hay không Quốc tự thường ít ñược ñể ý do ñó ñể xác ñịnh tiêu chí “xếp loại” Quốc tự chưa ñược ñặt ra và Quốc tự vẫn ñược hiểu mơ màng, cảm tính. Ở ñây, chúng tôi không có ý ñịnh nêu ra các tiêu chí của một ngôi Quốc tự và cũng không dám xác ñịnh cụ thể các ngôi Quốc tự. Bài viết này chỉ xin góp một vài ý kiến nhỏ 2: Chính xác hơn thì ñến thời ñiểm năm 1918 Kinh ñô Huế có 9 ngôi chùa quan trong ñó chùa Giác Hoàng bị phá bỏ năm 1885, chùa Ngọc Sơn bị hư hại do cơn bão năm 1904 không ñược nhắc ñến. 4 về Quốc tự xứ Huế, mong ñược cụ thể hơn khi nhìn nhận ñối tượng này. Trước hết, Quốc tự có thể hiểu là chùa vua nhưng không ñồng nghĩa với chùa quan. Vì quốc tự là những ngôi chùa do chúa hoặc vua trùng kiến, xây dựng trong khi chùa vua cũng thường do các vua chúa xây dựng hoặc trùng kiến [4:23]. Loại chùa này kiến trúc ñẹp, phong cảnh mỹ lệ hài hoà với thiên nhiên. Với chùa quan, còn gọi là chùa công, là những chùa không phải quốc tự nhưng do Hoàng gia tài trợ ngoại hộ, nên ñược bộ Lễ của Hoàng triều quản lý, bổ dụng tăng cang, trú trì ñến ñể thống suất tăng chúng và lo việc thờ tự, trùng tu, sắp ñặt thường xuyên ở chùa ñó. Tại Huế, dưới triều Nguyễn có 8 chùa quan: Thiên Mụ, Thánh Duyên, Diệu Đế (ba chùa này là quốc tự), Giác Hoàng, Linh Quang, Long Quang, Ngọc Sơn, Từ Ân là chùa quan [4:564]. Như vậy, nội hàm quốc tự và chùa vua tương ñối giống nhau trong khi quốc tự và chùa quan có sự khác biệt. Với những “tiêu chí” mà ba ngôi chùa Thiên Mụ, Thánh Duyên, Diệu Đế ñược “thừa nhận” là Quốc tự chúng tôi thấy rằng ñể trở thành Quốc tự thường có những ñặc ñiểm sau: Thứ nhất, Quốc tự là ngôi chùa ñược Chúa Nguyễn và sau này là Vua Nguyễn ñứng ra trùng kiến hoặc xây dựng. Với chùa Thiên Mụ tuy trước ñó trên ngọn ñồi Hà Khê ñã tồn tại một ngôi chùa dạng chùa làng nhưng chỉ từ khi chúa Nguyễn Hoàng cho xây dựng mới và các ñời Chúa Nguyễn, Vua Nguyễn sau trùng tu, mở rộng nên Thiên Mụ mới trở thành một ngôi phạn vũ nổi tiếng. Chùa Thánh Duyên lại ñược vua Minh Mạng xây dựng với lý do “Những danh lam thắng tích ta không có quyền ñể chúng lụi tàn, mất hết dấu tích, không lưu lại cho thế hệ mai sau. Huống gì quang cảnh nơi ñây ñều do Hoàng tổ của ta (Minh vương Nguyễn Phúc Chu) vì triều ñình, vì thần dân mà tạo dựng, nhằm mục ñích khuyến khích mọi người tu tâm, tích thiện, tạo phước ñiền” [3:305]. Chùa Diệu Đế do vua Thiệu Trị xây dựng ñể ghi lại dấu tích nơi mình từng ñược sinh ra. Cũng do ý chỉ của chúa, vua 5 dựng chùa còn phải kể ñến Linh Hựu quán (vốn là một ngôi chùa ñúng nghĩa) [7] ñược vua Minh Mạng cho xây dựng vào năm 1829 và chùa Giác Hoàng dựng năm 1839 trên nền ñất của tiềm ñể ngày mình còn là Thái tử. Như vậy, số lượng chùa do gắn liền trực tiếp với các vị chúa, vua nhà Nguyễn trên mảnh ñất Kinh ñô xưa là năm3 và những ngôi chùa Long Quang, Từ Ân, Ngọc Sơn, Linh Quang ñều không thuộc trong tiêu chí này. Thứ hai, tuy tất cả các ngôi chùa quan ñều ñược bộ Công, bộ Lễ quản lý và ñều ñược treo biển “Sắc tứ” nhưng ñể khẳng ñịnh những ngôi chùa kiểu này là Quốc tự thì e hơi “phóng khoáng”. Vì có ngôi tự không nằm trong danh sách trên vẫn có biển “Sắc tứ” và vẫn ñược bộ Công, bộ Lễ quản lý, cấp kinh phí trùng tu, trai ñàn hằng năm chu ñáo. Chùa Kim Quang là một ví dụ. Kim Quang tự với tên gọi ban ñầu là Tường Quang do bà Như Diệu Nguyễn Thị Lựu lập nên vào những năm cuối thế kỷ XIX. Nguyễn Thị Lựu nếu xét trong gia phả là dì (ruột) của vua Thành Thái và cũng là bà ngoại dì của vua Duy Tân, do vậy các ñời vua này ñã giúp cho ngôi tự phát triển bằng việc cấp kinh phí ñể tu bổ và tổ chức trai ñàn hằng năm. Ban ñầu chùa chỉ là một ngôi nhà tranh thờ Phật, Thánh và tổ tiên của bà. Sau khi bà mất, ngôi tự nhờ sự ngoại hộ của Hoàng triều nên ñã ñược xây mới và mở rộng. Chính vua Thành Thái ra sắc chỉ ban biển ngạch và ñổi tên chùa thành “Sắc tứ Kim Quang tự”. Ngoài ra vẫn có nhiều ngôi chùa không phải chùa quan nhưng vẫn ñược treo biển “Sắc tứ” như chùa Bảo Quốc, chùa Quốc Ân,... Vì vậy, có thể khẳng ñịnh tiêu chí “Sắc tứ” và ñược tổ chức Trai ñàn, ñược Triều ñình cấp kinh phí tu bổ, sửa chữa chùa chỉ là một ñiều kiện “cần” ñể các ngôi chùa có thể trở thành Quốc tự. Thứ ba, Quốc tự phải ñược Triều ñình bổ dụng chức Tăng cang lo việc Phật sự và cai quản Tăng chúng ở ngôi tự. Thiền sư ñược bổ 3: Chùa Sùng Hoá (làng Sình) cũng ñược chúa Nguyễn Hoàng trùng kiến năm 1602 nhưng ñã lụi tàn theo năm tháng và không ñược Châu Bản Triều Nguyễn – Tư liệu Phật giáo qua các triều ñại nhà Nguyễn 143 năm từ Gia Long 1802 ñến Bảo Đại 1945 nhắc ñến. 6 dụng làm Tăng cang là những vị Hoà thượng uyên thâm Phật pháp, ñược ñồ chúng kính trọng, nể phục và ñược Vua phong cấp sắc bằng, giới ñạo, ñộ ñiệp. Bên cạnh nhiệm vụ tại chùa, hằng ngày các vị Tăng cang còn bận rộn với công việc tiếp khách là hoàng thân quốc thích, sứ thần các nước, các quan bộ Lễ…, nhất là vào những dịp có tổ chức các quốc lễ, các ñại trai ñàn cầu quốc thái dân an, trai ñàn bạt ñộ chiến sĩ trận vong. Ngoài ra các Tăng cang còn ñược bộ Lễ mời dự họp ñể bổ khuyết Tăng cang, Trú trì khi có nhu cầu. Điển hình như ngày 16 tháng 9 năm Thiệu Trị thứ 2 (1842): Bộ Lễ ñã cung thỉnh Trú trì chùa Thiên Mụ cùng chư sơn môn các chùa quan ñến họp ñể tìm một vị sư có ñủ tiêu chuẩn về ñạo hạnh, trí tuệ và tài năng, có thể ñảm ñang trọng trách tại quốc tự. Qua nhiều lần bàn thảo, khi ñã thống nhất ý kiến thì một tờ trình ñược soạn thảo và sau ñó lập thành bản tấu tâu lên vua. Cuối cùng, Thiền sư Tâm Đoan ñược tín nhiệm giữ chức Tăng cang chùa Giác Hoàng, thay thế Đại sư Nhất Định, xin nghỉ vì bệnh [2: 106-110]. Dưới Tăng cang còn có Trú trì, tăng nhân và các sái phu giúp việc. Ngoài Thiên Mụ, Thánh Duyên, Diệu Đế, các ngôi tự như Giác Hoàng, Linh Hựu và Long Quang cũng có chức vụ này. Những ngôi chùa như Từ Ân, Kim Sơn, Linh Quang chỉ có chức Trú trì mà thôi... Thứ tư, hẳn nhiên Quốc tự sẽ không bao giờ xuất hiện ngôi tháp mộ ở khuôn viên chùa. Các chùa Thiên Mụ, Thánh Duyên, Diệu Đế thể hiện rõ ñiều ñó. Tháp trong kiến trúc chùa giữ một vai trò quan trọng. Do tháp thường là nơi chứa Xá lị Phật nên trong kiến trúc chùa ban ñầu tại Ấn Độ ngôi tháp chính là trung tâm của mọi hoạt ñộng Phật pháp. Trải qua quá trình truyền bá, ñến Trung Quốc, Việt Nam (Phật giáo Đại Thừa) ngôi tháp Phật nhường vai trò trung tâm lại cho Đại Hùng Bửu ñiện, nơi ñã có tượng Thích Ca và ngôi tháp Phật từ chỗ chứa Xá lợi Phật giờ ñây mang nhiệm vụ chứa nhục thân của các vị cao tăng, trú trì. Tuy không còn giữ vị trí như xưa nhưng ngôi tháp mộ vẫn là một thực thể kiến trúc không thể tách rời của ngôi chùa. 7 Thường thì các vị trú trì, tăng chúng sinh hoạt tại chùa nào khi qua ñời tuỳ theo chức vụ phận sự sẽ ñược xây tháp ở chùa ñó. Nhưng tại các ngôi Quốc tự thì không. Tăng cang hay trú trì ở Quốc tự không giống với việc làm trú trì tại các sơn môn khác. Ở Quốc tự ñó là chức vụ mà Triều ñình giao phó, ñơn thuần chỉ là một chức quan nhà nước ñược trả lương. Vì vậy, lúc không còn làm quan thì không còn phận sự gì ở ñó. Do vậy các vị Thiền sư làm Tăng cang, trú trì, kể cả tăng chúng ở Quốc tự thường chọn mảnh ñất yên nghỉ cho thế giới bên kia ở các ngôi chùa, tổ ñình nơi mình từng xuất gia, sinh hoạt. Ở ñây có một trường hợp ñặc biệt là ngôi tháp mộ của Hoà thượng Đôn Hậu ở chùa Thiên Mụ. Hoà thượng Trú trì chùa sau khi chế ñộ phong kiến sụp ñổ năm 1945, chùa không còn chức năng của một ngôi Quốc tự mà chỉ là một ngôi chùa bình thường như bao ngôi chùa khác vì vậy Hoà thượng như là vị trụ trì ñầu tiên của ngôi chùa trong thời kỳ mới dù Thiên Mụ ñã có lịch sử hàng trăm năm và do vậy ngài ñược phép chọn cho mình nơi an nghỉ ngay chính tại ngôi tự vốn trước kia là mảnh ñất không ai ñược phép sử dụng vào việc riêng. Tháp mộ ñược xây vào năm 1992. Chùa Giác Hoàng, Linh Hựu tuy không còn nhưng dựa vào tư liệu thành văn có thể khẳng ñịnh trên diện tích cũ của ngôi chùa không có ngôi tháp mộ nào ñược dựng lên dưới triều Nguyễn. Ở ñặc ñiểm này, chùa Linh Quang với những ngôi tháp mộ của các vị Thiền sư khó ñược xem là Quốc tự. Như vậy, theo chúng tôi với 4 ñặc ñiểm trên mà 3 chùa Thiên Mụ, Thánh Duyên và Diệu Đế có ñược thì trên mảnh ñất xứ Huế dưới thời trị vì của dòng họ Nguyễn có ñến 5 ngôi Quốc tự chứ không phải là 3. Đó là Thiên Mụ, Thánh Duyên, Linh Hựu, Giác Hoàng và Diệu Đế. Đây là những ngôi chùa do các chúa, vua dòng họ Nguyễn trùng kiến, sáng lập; ñược bộ Công, bộ Lễ quản lý với Trai ñàn, lễ trọng tổ chức; ñược Triều ñình cấp kinh phí tu sửa hằng năm và ñược bổ sung chức Tăng cang ñể cai quản Tăng chúng, hoằng dương Phật pháp. Đây 8 cũng là những ngôi tự hoàn toàn thuộc sở hữu của Quốc gia vì tất cả những gì tồn tại trên ñó ñều là tài sản chung, tài sản của mọi người. Đ.V.D (Bài nguyên tiêu ñề “Chuyện quốc tự ở Huế” ñăng trên tạp chí Huế Xưa & Nay, số 103 (Xuân Tân Mão), trang 99-105) Tài liệu tham khảo: 1. Thích Hải Ấn – Hà Xuân Liêm (2001), Lịch sử Phật giáo xứ Huế, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Lý Kim Hoa (2003) (Sưu khảo – Biên dịch), Châu Bản Triều Nguyễn – Tư liệu Phật giáo qua các triều ñại nhà Nguyễn 143 năm từ Gia Long 1802 ñến Bảo Đại 1945, Nxb Văn hoá Thông Tin. 3. Giới Hương (Phỏng dịch) (1994), Văn bia chùa Huế (tài liệu lưu hành nội bộ). 4. Hà Xuân Liêm (2007), Những chùa tháp Phật giáo ở Huế, Nxb Văn hóa Thông tin. 5. Mạc Chấn Lương (2009), Tạc tượng Phật và kiến trúc chùa, Nxb Mỹ Thuật. 6. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, Tập 1, Nxb Thuận Hóa. 7. Lê Quang Thái (2009), Linh Hựu Quán, (Cập nhật ngày 03/06/2009) 8. Lê Quang Thái (2009), Tên gọi chùa Từ Ân xưa nay, (Cập nhật ngày 25/08/2009) 9. Trần Đại Vinh, Nguyễn Hữu Thông, Lê Văn Sách (1993), Danh Lam xứ Huế, Nxb Hội Nhà văn.