Tín dụng và vai trò của tín dụng nhà nước Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

Tín dụng tồn tại khách quan trong nền kinh tế thị trường và được coi là một trong những công cụ tài chính quan trọng có vai trò và tác dụng to lớn đối với sự triển của nền kinh tế - xã hội. Xét trong mối quan hệ giữa các chủ thể của quan hệ tín dụng, tín dụng tồn tại dưới ba hình thức chủ yếu, gồm Tín dụng thương mại; Tín dụng ngân hàng; Tín dụng nhà nước. Cả ba hình thức tín dụng này đều tồn tại và hoạt động song song với nhau và tạo ra hiệu ứng tích cực chung đối với nền kinh tế - xã hội. Trong ba hình thức tín dụng nói trên, Tín dụng nhà nước là công cụ tài chính của Nhà nước để xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế; Để tạo đà và thúc đẩy kinh tế phát triển và tăng cường an sinh xã hội. Các quốc gia trên thế giới đều sử dụng công cụ tài chính này như một giải pháp tài chính cơ bản để phát triển kinh tế - xã hội. Ở Việt Nam, tín dụng nhà nước cũng đã được sử dụng từ giai đoạn đầu của công cuộc kiến thiết kinh tế, trải qua các thời kỳ phát triển của đất nước cho đến giai đoạn hiện nay và đã phát huy vai trò và kết quả thật to lớn. Do đó, cần phát triển mạnh hơn nữa hoạt động tín dụng nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

pdf11 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 784 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tín dụng và vai trò của tín dụng nhà nước Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
11 Tín dụng và vai trò . . . TÍN DỤNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Nguyễn Thị Hiền* TÓM TẮT Tín dụng tồn tại khách quan trong nền kinh tế thị trường và được coi là một trong những công cụ tài chính quan trọng có vai trò và tác dụng to lớn đối với sự triển của nền kinh tế - xã hội. Xét trong mối quan hệ giữa các chủ thể của quan hệ tín dụng, tín dụng tồn tại dưới ba hình thức chủ yếu, gồm Tín dụng thương mại; Tín dụng ngân hàng; Tín dụng nhà nước. Cả ba hình thức tín dụng này đều tồn tại và hoạt động song song với nhau và tạo ra hiệu ứng tích cực chung đối với nền kinh tế - xã hội. Trong ba hình thức tín dụng nói trên, Tín dụng nhà nước là công cụ tài chính của Nhà nước để xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế; Để tạo đà và thúc đẩy kinh tế phát triển và tăng cường an sinh xã hội. Các quốc gia trên thế giới đều sử dụng công cụ tài chính này như một giải pháp tài chính cơ bản để phát triển kinh tế - xã hội. Ở Việt Nam, tín dụng nhà nước cũng đã được sử dụng từ giai đoạn đầu của công cuộc kiến thiết kinh tế, trải qua các thời kỳ phát triển của đất nước cho đến giai đoạn hiện nay và đã phát huy vai trò và kết quả thật to lớn. Do đó, cần phát triển mạnh hơn nữa hoạt động tín dụng nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: tín dụng, tín dụng nhà nước, tín dụng đầu tư phát triển của Chính phủ, Ngân hàng Phát triển Việt Nam. CREDIT & THE ROLE OF VIETNAM STATE CEREDIT - THEORY AND PRACTICE ABSTRACT Credit exists objectively in market economy and is considered as important financial tool that has important role and influence to development of society and economy. Considering the relationship among subjects of credit relationship, credit exists mainly in the three forms: commercial credit, banking credit, state credit. The three credit forms exist and operate along with one another and they create positive effect to society and economy. In the three above mentioned forms of credit, State Credit is the financial tool of the State to build, develop infrastructure of the economy; and to create the momentum and pushing economical development and intensify social welfare. The nations of the world all use this financial instrument as a basic financial solution in order to develop economy and society. In Vietnam, State Credit already was used from the first stage of building the economy, passing through the stages of development of the nation until the present time and already promoted the role and the result was so great. Therefore, it is necessary to develop more the operation of State Credit in Vietnam in the present stage. Key words: Credit, state credit, investment Credit and Development of the Government, Vietnam Development Bank. * ThS. GV. Trường Đại học Ngân Hàng thành phố Hồ Chí Minh Email: hiennguyen0117@yahoo.com 12 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG Theo từ điển Tài chính ngân hàng của NXB Khoa học kỹ thuật năm 2005 thì: “Tín dụng (credits) là quan hệ cho vay, quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay dựa trên nguyên tắc hoàn trả”. [3] Tín dụng là quan hệ giữa bên cho vay và bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao một số vốn (Có thể bằng hiện kim, hoặc bằng hiện vật) cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian xác định và có điều kiện nhất định, khi đến hạn bên đi vay hoàn trả vốn và lãi cho bên cho vay. Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hóa, và là một trong những công cụ tài chính quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Tín dụng có quá trình ra đời tồn tại và phát triển cùng với phát triển của kinh tế hàng hóa, đồng thời tín dụng là nhân tố thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển. Hoạt động của tín dụng bao giờ cũng gây hiệu ứng đối với nền kinh tế xã hội. Các nhà nghiên cứu coi hiệu ứng đó chính là vai trò của tín dụng. Nói đến vai trò của tín dụng, là nói đến sự tác động của tín dụng đối với nền kinh tế - xã hội. Tác động của tín dụng đối với nền kinh tế chủ yếu là tác động tích cực, tác động tốt cho xã hội. Tuy nhiên không loại trừ những yếu tố tiêu cực. Chẳng hạn nếu để tín dụng phát triển tràn lan không kiểm soát, thì không những không làm cho nền kinh tế chậm phát triển mà còn làm cho lạm phát có thể gia tăng gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Nhưng nếu hoạt động tín dụng được giám sát theo hướng tích cực thì tín dụng sẽ phát huy tác động tốt đối với nền kinh tế xã hội. Vai trò tích cực của tín dụng thể hiện qua các điểm sau: + Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất & lưu thông hàng hóa phát triển. Tín dụng, trước hết là nguồn cung ứng vốn cho các doanh nghiệp các tổ chức kinh tế, do đó: - Tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì qu trình sản xuất lin tục đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế cho các ngành, các thành phần kinh tế. Thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra ở các doanh nghiệp, việc phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục. Ngòai ra tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư pht triển. Thông qua hoạt động tín dụng giúp các doanh nghiệp sử dụng nguồn lao động và nguyên liệu hợp lý thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội. - Tín dụng với việc cung ứng vốn theo cơ chế tự điều tiết sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hoạt động tín dụng, trong đó có hoạt động của các ngân hàng, chủ yếu là tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà vốn này nằm phân tán khắp mọi nơi, trong tay các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước và cá nhân, trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế, những người có nhu cầu về vốn và từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. - Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành mũi nhọn. Trong điều kiện nước ta, Nhà nước tập trung tín dụng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, mà phát triển các ngành này sẽ tạo cơ sở lôi cuốn các ngành kinh tế khác phát triển như sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác dầu khí - Tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp nước ngoài. 13 Tín dụng và vai trò . . . Trong điều kiện ngày nay, phát triển kinh tế của một quốc gia gắn liền với kinh tế thế giới, tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau. Đối với các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng, tín dụng đóng vai trị quan trọng trong Có thể nói, trong mọi nền kinh tế - xã hội, tín dụng đều phát huy vai trò to rất to lớn về phương diện kinh tế Đối với doanh nghiệp: Tín dụng góp phần cung ứng vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh và vốn cho các dự án đầu tư của doanh nghiệp. Đối với công chúng: Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Người dân luôn có cơ hội để làm cho đồng tiền tiết kiệm của mình được sinh lời Đối với toàn xã hội: Tín dụng làm tăng hiệu suất sử dụng đồng vốn. Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, đồng tiền được huy động, được sử dụng với với hiệu suất cao nhất, do đó cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng để phát triển nền kinh tế Tất cả đều hợp lực và tác động lên đời sống kinh tế – xã hội khiến tạo ra động lực phát triển rất mạnh mẽ mà không có công cụ tài chính nào có thể thay thế được. + Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Một mặt, do tín dụng có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, sản xuất hàng hóa và dịch vụ ngày càng gia tăng có thể thỏa mãn nhu cầu đời sống của người lao động, mặt khác, do vốn tín dụng cung ứng đã tạo ra khả năng trong việc khai thác các tiềm năng sẵn có trong xã hội và tài nguyên thiên nhiên, về lao động, đất, rừng... do đó có thể thu hút nhiều lực lượng lao động của xã hội để tạo ra lực lượng sản xuất mại để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng tồn tại dưới các hình thức chủ yếu sau đây: 1.1. Tín dụng thương mại (commercial credit) Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng gắn liền với quan hệ thương mại, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hoặc ứng trước tiền hàng giữa những nhà sản xuất kinh doanh với nhau. Nói cách khác, tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa môt bên là các công ty, các tổ chức kinh tế, với tư cách là bên bán (seller) với một bên khác cũng là các công ty, tổ chức kinh tế, nhưng với tư cách là bên mua (buyinger) để thực hiện hợp đồng mua bán chịu hàng hóa, hoặc ứng trước tiền hàng cho nhau trong một gian nhất xác định, với điều kiện các bên cam kết thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng văn bản. Quan hệ tín dụng này gắn liền với quan hệ thương mại, nên được gọi là tín dụng thương mại. Tín dụng thương mại được chia làm hai loại: Thứ nhất: Tín dụng thương mại dành cho người mua. Theo đó người bán sẽ giao hàng hóa cho người mua và đồng ý cho người mua thanh toán tiền hàng sau một thời gian nhất định, với điều kiện người mua phải ký chấp nhận trả tiền vào hối phiếu do người bán ký phát (Hối phiếu đòi nợ). Người bán - người ký phát hối phiếu và là người hưởng lợi hối phiếu sẽ giữ hối phiếu này khi đến hạn sẽ xuất trình cho người mua và người mua phải thanh toán cho người bán toàn bộ số tiền ghi trên hối phiếu. Người bán cụng có thể chuyển nhượng hối phiếu cho một người khác để nhận tiền trước khi hối phiếu đến hạn. Trường hợp người mua tự mình lập phiếu nhận nợ và cam kết trả nợ (hối phiếu nhận nợ - còn gọi là lệnh phiếu) thì lệnh phiếu này sẽ phải chuyển cho người bán 14 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật nắm giữ. Việc thanh toán khi đến hạn tương tự như trên, nhưng đối với lệnh phiếu, người bán không được chuyển nhượng cho người khác. Thứ hai: Tín dụng thương mại dành cho người bán. Theo hình thức này, người mua sẽ ứng trước tiền hàng cho người bán, số tiền ứng trước có thể lên đến 100% giá trị lô hàng theo hợp đồng. Sau một thời gian nhất định, người bán có nghĩa vụ giao hàng cho người mua thương mại dành cho người bán, không bắt buộc người bán phải lập giấy nợ thương mại như tín dụng dành cho người mua. Nhưng để đảm bảo an toàn cho người mua (Người ứng trước) thường người ứng trước bắt buộc người bán (Nhận ứng trước) phải có chứng thư bảo lãnh của ngân hàng, để bảo đảm việc giao hàng của người bán sẽ được thực hiện. 1.2. Tín dụng Ngân hàng (banking credit) Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng thương mại, các định chế tài chính phi ngân hàng với các công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế, các tổ chức và cá nhân được thực hiện dưới hình thức ngân hàng đứng ra huy động vốn bằng tiền và cho vay đối với các đối tượng nói trên. Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng có vai trò to lớn: - Tín dụng ngân hàng có thể mở rộng cho mọi đối lượng trong xã hội; Tín dụng ngân hàng có thể xâm nhập vào các ngành, với nhiều loại hình và quy mô hoạt động lớn, vừa và nhỏ, không bằng hiện vật, nhờ đó đảm bảo cho sản xuất kinh doanh không những được duy trì mà còn xâm nhập vào nhiều lĩnh vực như dịch vụ, đời sống. Vì vậy có thể khẳng định vai trò to lớn của tín dụng ngân hàng trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội. - Tín dụng ngân hàng hoạt động không bị giới hạn về quy mô, có thể cung ứng vốn cho nền kinh tế với số lượng rất lớn, với nhiều thời hạn khác nhau, nhờ đó giúp các doanh nghiệp không những có vốn để kinh doanh, mà còn có vốn để mở rộng đầu tư, đổi mới thiết bị, nhằm nâng cao năng lực sản xuất. - Nhờ hoạt động của tín dụng ngân hàng mà vốn tiền tệ của xã hội được huy động và sử dụng tối đa cho nhu cầu phát triển kinh tế; Tín dụng ngân hàng vừa có tác dụng đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, vừa làm cho các chu chuyển tiền tệ được tập trung phần lớn qua hệ thống ngân hàng. Đó là những điều kiện quan trọng để ổn định lưu thông tiền tệ, ổn định giá cả thị trường, ổn định đời sống của người lao động. 1.3. Tín dụng nhà nước (state credit) Tín dụng nhà nước là hình thức tín dụng giữa Chính phủ với các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Đây là hình thức tín dụng phát triển muộn hơn các hình thức tín dụng khác, trong điều kiện Chính phủ Trung ương phát hành trái phiếu để vay nợ và sử dụng nguồn vốn này cho nhu cầu đầu tư chung của Chính phủ. Sau này khi tín dụng nhà nước phát triển mạnh, thì tín dụng nhà nước không chỉ là phát hành trái phiếu của Chính phủ trung ương, mà chính quyền địa cũng có những như cầu như vậy để đáp ứng vốn đầu tư trong phạm vi hẹp hơn. Tín dụng nhà nước cũng không chỉ thuần túy là Nhà nước đi vay thông qua phát hành trái phiếu mà còn có cả trường hợp nhà nước cho vay thông qua các tổ chức tài chính của Chính phủ. Tín dụng nhà nước còn được mở rộng phạm vi hoạt động, không những ở trong phạm vi quốc nội mà còn có cả trên phạm vi quốc tế. Tín dụng nhà nước vừa là một công 15 Tín dụng và vai trò . . . cụ tài chính của nhà nước, vừa là một công cụ mang tính chất kinh tế - chính trị quan trọng để xử lý các mối quan hệ quốc tế. 2. TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC & VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM + Với tư cách là người đi vay: “Nhà nước đứng ra huy động vốn của các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp bằng cách phát hành Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu công trình, tín phiếu Kho Bạc để sử dụng vì mục đích và lợi ích chung của toàn bộ nền kinh tế - xã hội” [1] Như vậy, tín dụng Nhà nước hoạt động bằng công cụ nợ truyền thống và phổ biến là trái phiếu. + Với tư cách là người cho vay: “Nhà nước hỗ trợ tín dụng cho các đơn vị và cá nhân thông qua các chương trình để thực hiện các muc tiêu kinh tế xã hội như: Cho vay xóa đói giảm ngèo, cho vay giải quyết việc làm, Các chương trình cho tín dụng đầu tư, hổ trợ lãi suất, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, cho vay hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa v.v... Những đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi và cho vay của Tín dụng Nhà nước phải thỏa mãn những điều kiện nhất định, đồng thời là những đối tượng được Nhà nước khuyến khích phát triển” [2] 2.1. Các mô hình tổ chức và hoạt động của Tín dụng Nhà nước ở Việt Nam qua các thời kỳ + Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam (1957 – 1980): Ngân hàng kiến thiết Việt Nam được thành lập từ những năm đầu của công cuộc cải tạo và khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Với hơn 20 năm tồn tại và hoạt động, Ngân hàng kiến thiết Việt Nam đã có những đóng góp lớn cho công cuộc khôi phục và kiến thiết kinh tế ở Bắc Việt Nam. Với có nhiệm vụ làm đầu mối quản lý, cấp phát và thanh toán vốn kiến thiết - Vốn xây dựng cơ bản, của nhà nước trong giai đoạn từ năm 1957 đến năm 1980, Ngân hàng kiến thiết Việt Nam đã hoàn thành sứ mạng lớn lao trong công cuộc tái thiết kinh tế trong thời kỳ xây dựng, phát triển kinh tế ở Miền Bắc và kháng chiến cống Mỹ cứu nước ở Miền Nam. + Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam (1981 – 1990) Trong giai đoạn này, Ngân hàng Kiến thiết được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và xây dựng Việt Nam. Nhiệm vụ của Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng trong giai đoạn này như nhiệm vụ của Ngân hàng Kiến thiết trước đây, nhưng chuyển dần từ quản lý, cấp phát vốn, cùng song song với hoạt động cho vay có thu hồi vốn. Vừa cấp phát vốn không hoàn lại của Ngân sách Nhà nước, vừa cho vay đầu tư cơ bản các công trình dự án của Chính phủ để thúc đẩy quá trình Đầu tư và Xây dựng ở Việt Nam trong giai đoạn này. Với chức năng nhiệm vụ mới, trong giai đoạn mới, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam cũng đã góp phần to lớn trong việc đẩy nhanh tốc độ xây dựng các cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, đồng thời góp phần quan trọng và tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế trong giai đoạn hội nhập kinh tế. Trước khi thành lập Quỹ hỗ trợ Phát triển, ở Việt Nam có 6 tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý vốn tín dụng nhà nước, gồm: + Tổng cục Đầu tư Phát triển: (Từ 01/01/1995 đến 31/12/1999) Tổng cục Đầu tư Phát triển là một tổ chức tài chính của Chính phủ, được thành lập theo Nghị định số 187/NĐ - CP ngày 10/12/1994 của Chính phủ. Tổng cục Đầu tư Phát triển 16 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật trực thuộc Bộ Tài chính thực hiện nhiệm vụ cấp phát và cho vay vốn tín dụng nhà nước (Vốn đầu tư xây dựng cơ bản); + Quỹ Hỗ trợ đầu tư Quốc gia. Đây là một tổ chức tài chính của Chính phủ, được thành lập năm 1996 theo Quyết định số 808/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ. Nhiệm vụ của Quỹ Hỗ trợ Đầu tư Quốc gia là thực hiện cho vay ưu đãi các ngành nghề lĩnh vực khó khăn theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước; + Các ngân hàng khác tham gia thực hiện chính sách tín dụng nhà nước. - 4 ngân hàng thương mại nhà nước, gồm: Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam - BIDV; Ngân hàng Công thương Việt Nam - VietinBank; Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Việt Nam – AgriBank; Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - VCB (trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) Ngoài hoạt động thuộc hình thức tín dụng ngân hàng theo cơ chế thị trường, những ngân hàng này được chọn làm đầu mối thực hiện chính sách tín dụng nhà nước theo đối tượng được chỉ định. + Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam (Vietnam Bank of Social Policy - VBSP). Trước đây là Ngân hàng phục vụ người nghèo. Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam là một cơ quan tài chính của Chính phủ, chịu trách nhiệm triển khai các chương trình cung cấp tài chính cho người nghèo và các doanh nghiệp nhỏ trong nền kinh tế. Ngân hàng Chính sách Xã hội được thành lập tháng 10 năm 2002. Có hội sở chính đặt tại Hà Nội, có 64 chi nhánh và 592 văn phòng giao dịch tại các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương. Ngân hàng Chính sách Xã hội được nhận các nguồn vốn đóng góp tự nguyện không có lãi hoặc không hoàn trả gốc của các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các tổ chức phi chính phủ trong nước và nước ngoài. Ngân hàng Chính sách xã hội có nhiệm vụ cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn phục vụ SXKD, tạo việc làm, cải thiện đời sống cho các đối tượng thuộc diện chính sách xã hội (Cho vay hộ nghèo, đối tượng chính sách như thương binh, bệnh binh, người tàn tật, học sinh sinh viên, đồng bào dân tộc miền núi hải đảo v.v...) và tín dụng hỗ trợ cho các chương trình kinh tế xã hội của Chính phủ (Chương trình giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, chương trình thanh niên lập nghiệp, doanh nghiệp nhỏ v.v...) góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội. Như vậy, Ngân hàng Chính sách Xã hội có nhiệm vụ quản lý và thực hiện tín dụng thuộc nhóm chính sách xã hội, khác với phạm vi nhiệm vụ của Ngân hàng Phát triển là quản lý và thực hiện tín dụng thuộc nhóm chính sách kinh tế. + Quỹ Hỗ trợ Phát triển (Development Assistance Fund – DAF - Từ tháng 07/1999 đến tháng 5/ 200). Với sự tồn tại và hoạt động của các tổ chức nói trên liên quan đến vốn tín dụng nhà nước, việc quản lý vốn tín dụng nhà nước bị phân tán, không tập trung một đầu mối, làm cho công tác hoạch định và thực thi chính sách tín dụng nhà nước không phát huy được hiệu quả như mong muốn. Quỹ Hỗ trợ Phát triển đã được thành lập theo Nghị định số 50/1999/ NĐ-CP ngày 08/07/1999 để khắc phục những khiếm khuyết trong quản lý vốn tín dụng nhà nước. [4] Quỹ Hỗ trợ Phát triển có nhiệm vụ: Thống nhất quản lý, tập trung đầu mối quản lý và thực hiện nguồn vốn tín dụng nhà nước một cách 17 Tín dụng và vai trò . . . thống nhất. Tức là trở thành đầu mối thống nhất tiếp nhận các nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước, các nguồn tài trợ từ bên ngoài và các nguồn khác; Sử dụng nguồn vốn có được để cho vay,
Tài liệu liên quan