Đặt vấn đề: Tỉ lệ tử vong vì bệnh tim mạch của các bệnh nhân suy thận mãn là vấn đề sức khỏe đáng quan tâm trên toàn thế giới. Mục tiêu: khảo sát tình hình bệnh tim mạch của bệnh nhân suy thận mãn giai đoạn cuối đang chạy thận nhân tạo trong thời gian 1 năm. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả. Kết quả: Trong 96 bệnh nhân được khảo sát có 42 nam 54 nữ đang chạy thận định kì với thời gian trung bình là 4 năm. Hầu hết bệnh nhân có số lượng hồng cầu, Hct và Hb giảm. 99% bệnh nhân có thiếu máu. Trước khi điều trị bằng chạy thận chỉ có 12 bệnh nhân có tiền căn bệnh tim và 32 bệnh nhân tăng huyết áp (THA), tại thời điểm khảo sát, có tới 56 bệnh nhân có vấn đề tim mạch và 81 bệnh nhân THA. Kết luận: Kết quả cho thấy bệnh nhân suy thận mãn có vấn đề về bệnh tim mạch nghiêm trọng. Từ đó, chúng ta thấy được nhu cầu cấp thiết phải xây dựng một chương trình phòng ngừa và điều trị có hiệu quả bệnh tim mạch của bệnh nhân suy thận mãn.
5 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 325 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình bệnh tim mạch của bệnh nhân suy thận mãn giai đoạn cuối chạy thận định kì, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 227
TÌNH HÌNH BỆNH TIM MẠCH CỦA BỆNH NHÂN SUY THẬN MÃN
GIAI ĐOẠN CUỐI CHẠY THẬN ĐỊNH KÌ
Nguyễn Phạm Diễm Kiều*; Nguyễn Thanh Hiệp*; Phạm Văn Bùi*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tỉ lệ tử vong vì bệnh tim mạch của các bệnh nhân suy thận mãn là vấn đề sức khỏe đáng quan
tâm trên toàn thế giới.
Mục tiêu: khảo sát tình hình bệnh tim mạch của bệnh nhân suy thận mãn giai đoạn cuối đang chạy thận
nhân tạo trong thời gian 1 năm.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Kết quả: Trong 96 bệnh nhân được khảo sát có 42 nam 54 nữ đang chạy thận định kì với thời gian trung
bình là 4 năm. Hầu hết bệnh nhân có số lượng hồng cầu, Hct và Hb giảm. 99% bệnh nhân có thiếu máu. Trước
khi điều trị bằng chạy thận chỉ có 12 bệnh nhân có tiền căn bệnh tim và 32 bệnh nhân tăng huyết áp (THA), tại
thời điểm khảo sát, có tới 56 bệnh nhân có vấn đề tim mạch và 81 bệnh nhân THA.
Kết luận: Kết quả cho thấy bệnh nhân suy thận mãn có vấn đề về bệnh tim mạch nghiêm trọng. Từ đó,
chúng ta thấy được nhu cầu cấp thiết phải xây dựng một chương trình phòng ngừa và điều trị có hiệu quả bệnh
tim mạch của bệnh nhân suy thận mãn.
Từ khóa: Suy thận mãn; Bệnh tim mạch; Chạy thận nhân tạo.
ABSTRACT
SITUATION OF CARDIOVASCULAR DISEASE IN DIALYZING END STAGE RENAL DISEASE
PATIENTS
Nguyen Pham Diem Kieu; Nguyen Thanh Hiep; Pham Van Bui
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 227- 231
Background: In recent years, morbidity of ESRD is considered as an important health problem throughout
the world.
Objectives: The objective of this study is to investigate the actual situation of cardiovascular disease in
dialyzing ESRD patients in one year.
Methods: This is a cross – sectional survey
Results: In 96 studied patients, there are 42 men and 54 women with 4 years average time of dialysis. Most
of them have low RBC, Hct and Hb. 99% of them have anemia. In the ESRD, there were only 12 patients who
have already had cardiovascular disease and 32 patients have had hypertension. At the moment of collecting data,
there are 56 patients having cardiovascular disease and 81 patients having hypertension.
Conclusion: This result is considered as important cardiovascular disease of ESRD patients. Therefore, it is
necessary to develop prevention and treating program for cardiovascular disease for ESRD patients.
Keywords: End Stage Renal Disease (ESRD), Cardiovascular Disease, Dialyse
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, với tỉ lệ không
ngừng gia tăng, bệnh suy thận mãn đã trở
thành một vấn đề sức khỏe đáng quan tâm
* Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Thanh Hiệp, ĐT: 0902651235 Email: nguyenthanhhiep@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 228
của ngành y tế nói riêng và xã hội nói
chung(20,6). Khi bệnh tiến triển đến giai đoạn
cuối, ghép thận, chạy thận nhân tạo, thẩm
phân phúc mạc là ba biện pháp được áp dụng
hiện nay. Chạy thận nhân tạo là biện pháp
hữu hiệu làm giảm nhẹ nhiệm vụ lọc máu của
thận, kéo dài thời gian sống còn của bệnh
nhân và chuẩn bị cho bệnh nhân được ghép
thận. Tuy nhiên, nguyên nhân tử vong của các
bệnh nhân suy thận mãn không phải do thận
mà do bệnh tim mạch13,17. Thực vậy, theo số
liệu của NHANES năm 2010, nguyên nhân tử
vong hàng đầu của bệnh nhân suy thận mãn
là bệnh tim mạch, chiếm đến 38,8%. Theo
nghiên cứu của Ronco và cộng sự từ 1995-
1999, bệnh nhân suy thận mãn chết vì bệnh
tim mạch lên đến 53%(18).
Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu về tỉ lệ các bệnh tim mạch và THA trong các
bệnh nhân suy thận mãn giai đoạn cuối đang
chạy thận nhân tạo tại hai Bệnh viện là Bệnh
viện Nguyễn Tri Phương và Bệnh viện Bình Dân
trong khoảng thời gian 1 năm nhằm có cái nhìn
rõ hơn về vấn đề sức khỏe này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là một nghiên cứu mô tả cắt ngang,
được thực hiện từ 1/6/2010 đến 1/6/2011 trên các
bệnh nhân người lớn đang chạy thận nhân tạo
tại hai bệnh viện là bệnh viện Nguyễn Tri
Phương và bệnh viện Bình Dân. Tất cả các bệnh
nhân đều là bệnh thân suy thận mãn thời kì
cuối, đang được điều trị bằng chạy thận nhân
tạo định kì, bệnh nhân suy thận cấp và bệnh
nhân đã được ghép thận không nằm trong
phạm vi nghiên cứu này.
Các kết quả nghiên cứu được thu thập bằng
thăm khám lâm sàng và bằng bảng câu hỏi
phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân trong thời gian
bệnh nhân đang chạy thận định kì tại hai bệnh
viện trên, các kết quả cận lâm sàng được thu
thập bằng hồ sơ bệnh án của bệnh viện, dưới sự
giúp đỡ của các bác sĩ chuyên khoa thận niệu.
Huyết áp được đo bằng máy đo huyết áp dạng
cơ, mỗi bệnh nhân được đo ít nhất ba lần, kết
quả bệnh tim mạch được xác định bằng tiền căn,
thăm khám lâm sàng và kết quả khám chuyên
khoa tim mạch của bệnh nhân.
Kết quả được xử lý bằng phần mềm Excel
2003 và SPSS 14.
KẾT QUẢ
Dịch tễ
Trong số 96 bệnh nhân có 42 nam, chiếm
43,75% và 54 nữ, chiếm 56,25%. bệnh nhân trẻ
nhất 23 tuổi, lớn nhất 83 tuổi, tuổi trung bình là
53 tuổi. Bệnh nhân ở độ tuổi từ 50 – 70 tuổi
chiếm số lượng nhiều nhất (50%), có một bệnh
nhân 23 tuổi và một bệnh nhân 25 tuổi. Phần lớn
bệnh nhân sống ở thành phố Hồ Chí Minh
(68,8%), 31,3% bệnh nhân còn lại sống tại các
tỉnh phía Nam như Tiền Giang, Đồng Nai, Long
An...
Thời gian chạy thận
Thời gian chạy thận trung bình của tất cả
bệnh nhân là 4 năm, có một bệnh nhân chạy
thận được một tháng và 2 bệnh nhân chạy thận
12 năm, số bệnh nhân có thời gian chạy thận từ
1-3 năm chiếm đa số. Phần đông bệnh nhân bắt
đầu chạy thận từ 40 tuổi trở đi, chiếm 70.84%,
13.54% bệnh nhân bắt đầu chạy thận sau 70 tuổi,
15.62% bệnh nhân bắt đầu trước 40 tuổi, tuổi bắt
đầu chạy thận sớm nhất là 20 tuổi, trễ nhất là 78
tuổi.
Hồng cầu, Hb, Hct và thiếu máu
Số hồng cầu trung bình là 3.16 ±0,54 M/µL,
người có số hồng cầu thấp nhất là 1,76 M/µL,
trong tất cả những người được nghiên cứu,
cũng chỉ có một người có số lượng hồng cầu là
4,2M/µL. Lượng Hb trung bình của tất cả các
bệnh nhân là 9,02±1,36 g/dl, lượng Hb thấp nhất
là 4,57 g/dl, cao nhất là 13,4 g/dl. Hct trung bình
là 27,87%, người thấp nhất có Hct là 13,10%, Hct
cao nhất là 37,3%. 99% bệnh nhân có biểu hiện
thiếu máu trên lâm sàng và cận lâm sàng.
Tăng huyết áp (THA)
Trước lần điều trị bằng chạy thận nhân tạo
đầu tiên, có 32 bệnh nhân đã có tiền căn bệnh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 229
THA, chiếm 33.33%, sau một thời gian chạy thận
trung bình là 4 năm thì số lượng bệnh nhân
bệnh tăng huyết áp đã tăng lên 81 người, chiếm
81.3% (bảng 1 và 2).
Bảng 1: Tỉ lệ bệnh nhân suy thận mãn giai đoạn cuối
có tiền căn THA trước khi điều trị bằng chạy thận
theo độ nặng và theo giới
Phân loại Giới Tổng cộng
Nam Nữ
n % n % n %
Bình thường 12 28.6 19 35.2 31 32.3
Tiền THA 16 38.1 17 31.5 33 34.4
THA giai đoạn 1 6 14.3 6 11.1 12 12.5
THA giai đoạn 2 8 19 12 22.2 20 20.8
Tổng cộng 42 100 54 100 96 100
Bảng 2: Tỉ lệ bệnh nhân suy thận mãn có bệnh THA
theo độ nặng và theo giới trong quá trình chạy thận
Phân loại Giới Tổng cộng
Nam Nam
n % n % n %
Bình thường 1 2.4 4 7.1 5 5.2
Tiền THA 4 9.5 6 11.4 10 10.4
THAgiai đoạn
1
9 21.4 12 22.2 21 21.9
THAgiai đoạn
2
28 66.7 32 59.3 60 62.5
Tổng cộng 42 100 54 100 96 100
Lớp tuổi có số người tăng huyết áp nhiều
nhất là 60-70 tuổi. (Biểu đồ1)
Biểu đồ 1: Tỉ lệ THA theo tuổi của bệnh
nhân suy thận mãn giai đoạn cuối trong quá
trình chạy thận
Tỉ lệ tăng huyết áp theo tuổi của bệnh nhân trong
quá trình chạy thận
1.23
8.64
18.52 19.75
32.1
14.81
4.94
0
5
10
15
20
25
30
35
20-30 30-40 40-50 50-60 60-70 70-80 >80
Tuổi (năm)
%
Trước khi điều trị chạy thận số lượng bệnh
nhân có bệnh tim mạch là 12 người, sau một
thời gian chạy thận trung bình là 4 năm, số
lượng bệnh nhân đã tăng lên 56 người, tức có
hơn một nửa bệnh nhân có vấn đề về tim mạch.
Tỉ lệ người bệnh theo từng loại bệnh tim mạch
trước và sau điều trị được minh họa ở bảng 3.
Bảng 3: Các loại bệnh tim mạch đối với bệnh nhân
suy thận mãn giai đoạn cuối trong quá trình điều trị
bằng chạy thận nhân tạo
Tên bệnh Trước lần chạy
thận đầu tiên
Sau khi chạy
thận
n % n %
Nhồi máu cơ tim cấp 2 2.08 4 4.16
Suy tim 2 2.08 33 34.37
Rối loạn nhịp tim 2 2.08 6 6.25
Bệnh van tim 5 5.20 10 10.42
Bệnh tim mạch khác 1 1.04 3 3.12
Tổng cộng 12 12.5 56 58.33
BÀN LUẬN
Tuổi trung bình của các bệnh nhân chạy
thận trong nghiên cứu này là 57 ± 13.6 tuổi, lớn
hơn so với tuổi trung bình chạy thận trong
nghiên cứu của BS. Nguyễn Trí Dũng thực hiện
năm 1999 là 43.7 ± 11.6 tuổi(12). Điều này chứng
tỏ đã có sự già đi trong dân số bệnh nhân suy
thận mãn giai đoạn chạy thận, thống kê của
National Kidney Foundation ( Hoa Kỳ) cũng
cho thấy có sự già đi trong dân số bệnh nhân
suy thận mãn. Hầu hết bệnh nhân tập trung ở
độ tuổi là 50-70 tuổi, độ tuổi này là độ tuổi có tỉ
lệ bệnh tim mạch cao, ngay cả trong dân số
chung.
Thời gian chạy thận trung bình của các bệnh
nhân trong nghiên cứu là 4 năm. Theo số liệu
của National Kidney Foundation, tỉ lệ sống còn
của bệnh nhân suy thận mãn giai đoạn cuối sau
1 năm là 79,3%, sau 5 năm là 33,6%, sau 10 năm
là 16,2%. Như vậy, thời gian chạy thận trung
bình trong nghiên cứu này tương đối thích hợp
để khảo sát các bệnh xảy ra sau khi chạy thận.
Các chỉ số hồng cầu, Hb và Hct của các bệnh
nhân chạy thận đều thấp hơn nhiều so với mức
bình thường, bởi vì các bệnh nhân suy thận mãn
đều thiếu yếu tố tạo hồng cầu là
Erythropoietin(14). 99% bệnh nhân có tình trạng
thiếu máu. Thiếu máu vừa là nguyên nhân, vừa
là yếu tố làm nặng thêm bệnh tim, chứng tỏ
bệnh nhân suy thận có nhiều nguy cơ bị bệnh
tim mạch hơn người không bệnh(19,21).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 230
Trong 96 bệnh nhân suy thận mãn giai đoạn
cuối, có 31 bệnh nhân có huyết áp hoàn toàn
bình thường, 33 bệnh nhân tiền THA, 32 bệnh
nhân có THA, trong đó: 12 bệnh nhân THA giai
đoạn 1, 20 bệnh nhân THA giai đoạn 2. Sau thời
gian chạy thận nhân tạo trung bình là 4 năm, chỉ
còn 5 bệnh nhân có huyết áp bình thường, 100%
bệnh nhân tiền THA đều chuyển sang giai đoạn
THA thực sự, số bệnh nhân THA đã tăng rõ rệt
là 81(84,4%): 21 bệnh nhân THA độ 1 và 60 bệnh
nhân THA độ 2, cao hơn nhiều so với tỉ lệ bệnh
THA trong dân số chung của TP. Hồ Chí Minh.
Không chỉ số lượng bệnh nhân THA tăng lên mà
độ nặng của bệnh cũng tăng, số bệnh nhân THA
độ 2 chiếm đến 62,5% trong tất cả các bệnh nhân
được khảo sát.THA vừa là nguyên nhân vừa là
hậu quả của bệnh suy thận. THA và xơ cứng, xơ
vữa mạch máu có liên quan mật thiết với nhau,
tất cả các bệnh trên đều có liên hệ trực tiếp tới
bệnh tim mạch. Với số lượng bệnh nhân THA và
độ nặng bệnh cao như trên thì nguy cơ bệnh tim
mạch là rất lớn(8,1).
Sau thời gian chạy thận trung bình là 4 năm
đã có thêm 44 bệnh nhân mới mắc bệnh tim
mạch, tổng cộng 56 bệnh nhân có bệnh tim
mạch, chiếm 58,33%. Trong số các bệnh tim các
bệnh nhân này mắc phải, suy tim chiếm vị trí
hàng đầu là 34,37%.
Suy tim góp phần làm nặng thêm tình trạng
thiếu máu và suy thận. Suy thận, ngược lại cũng
làm nặng thêm tình trạng suy tim và thiếu máu.
Như đã đề cập ở trên, thiếu máu cũng làm nặng
thêm suy tim và suy thận. Đây là một vòng xoắn
bệnh lý, gần đây được đề cập là “hội chứng tim-
thận-thiếu máu”(4).
KẾT LUẬN
Hiện nay, có rất ít các nghiên cứu dịch tễ
về bệnh suy thận mãn, mặc dù số lượng bệnh
nhân không ngừng gia tăng. Với các tiến bộ
về y khoa trong lĩnh vực chăm sóc và điều trị,
thời gian sống của bệnh nhân suy thận mãn
đã tăng rõ rệt. Tuy nhiên, vấn đề chữa trị các
bệnh kèm theo đối với bệnh nhân suy thận
mãn, đặc biệt là bệnh tim mạch đã đặt ra
thách thức mới cho ngành y tế. Một bệnh
nhân suy thận mãn có nhiều nguy cơ bị chết
vì bệnh tim mạch hơn là vì bệnh thận giai
đoạn cuối. Nghiên cứu này được tiến hành
trong một khoảng thời gian ngắn, số lượng
bệnh nhân không nhiều, chắc chắn không thể
phản ánh hoàn toàn thực trạng bệnh suy thận
ở nước ta. Tuy nhiên, nghiên cứu đã đưa ra
cái nhìn tổng thể nhất về bệnh suy thận mãn
giai đoạn cuối. Từ đó, có thể xây dựng được
những kế hoạch chăm sóc, điều trị tốt hơn cho
bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bobrie G. (1997) Nephropathies et hypertension arteriele. Press
Med; 26(17):825-30
2. Canaud B (2007), Actualités en hémodialyse, Service de
néphrologie, dialyse et soins intensifs, Hôpital Lapeyronie, CHU,
Montpellier,
3. Chanard J. (2002) L'insuffisance rénale terminale en France.
Presse Med;31(4):163-164
4. Efstratiadis G, Konstantinou D, Chytas I, Vergoulas G (2008),
Cardio-renal anemia syndrome. Hippokratia, 12, 1: 11-16.
5. Hiep NT (2005), l’insuffisance renale chronique a Ho Chi Minh
ville – des etudes epidemiologiques a un programme de prise en
charge, universite Victor Segalen Bordeau 2;
6. Junger P, Massy Z, Man N, Labrunie M, Taupin P, Guin E et al.
(2000) incidence de l’IRCT en l’Ile de France: enquete
epidemiologique propective Press Med; 29:589-92
7. Jungers PM, Man NK, Legendre C (2004). L’insuffisance renal
chronique: prevention et traitement, Medecine-Sciences,
Frammarion ed. Paris 2004
8. Laville M. (2000) HTA et insuffisance renale. Arch Mal Coeur
Vaiss;93:1495-68
9. Lemeur Y, Lagarde C, Charmes JP, Benevent D, Leroux-Robert
C (1998). L’insuffisance renale chronique du diagnostic a la
dialyse. Collection conduits, Doin ed. Paris 1998
10. Levey AS, Beto JA, Coronado BE, Eknoyan G, Foley RN, Kasiske
RL, Klag MJ, Mailloux LU, Manske CL, Meyer KB, Parfrey PS,
Pfeffer MA, Wenger NK, Wilson PW, Wright JT Jr (1998):
Controlling the epidemic of cardiovascular disease in chronic
renal disease: What do we know? What do we need to learn?
Where do we go from here? Am J Kidney Disease 32:853-905,
11. Levin A. (1996) Prevalent left ventricular hypertrophy in the
predialysis population: Identifying opportunities for
intervention. Am J Kidney Dis;27(3):347-354
12. Nguyễn Tiến Dũng (2000). THA trên bệnh nhân chạy thận nhân
tạo định kì ở bệnh viện Chợ Rẫy. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội
trú. TP. Hồ chí Minh: Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh.
13. NK Man, Jungers P (2002) Complications cardiovasculaires en
hémodialyse, Presse Med
14. Phạm Nguyễn Vinh (2000), Bệnh học tim mạch, Nhà xuất bản Y
học.
15. Phạm Nguyễn Vinh (2006), Tăng huyết áp và vấn đề bảo vệ
thận, Hội thảo chuyên gia tim mạch, TP. Hồ Chí Minh.
16. Phuong, NHN (2005), les caracteristique cliniques, paracliniques
et therapeutiques des patients en l’insuffisance renale chronique
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 231
terminale au stade de l’hemodialyse periodique{memoire de fin
d’etudes du cursus francophone en medicine}, Ho Chi Minh,
CUF.
17. Pun PH; Smarz TR; Honeycutt EF; Shaw LK; Al-Khatib SM;
Middleton JP (2009). Chronic Kidney Disease is Associated with
Increased Risk of Sudden Cardiac Death among Patients with
Coronary Artery Disease. Kidney Int. 76(6):652-
658. © 2009 International Society of Nephrology
18. Ronco C, Haapio M, House AA, Anavekar N, Bellomo R, (2008),
Cardiorenal Syndrome. Journal of the American College of
Cardiology Vol. 52, No. 19.
19. Silverberg DS, Wexler D, Iaina A, Schwartz D. (2006) The
interaction between heart failure and other heart diseases, renal
failure, and anemia. Semin Nephrol; 26: 296–306.
20. Stengel B, Couchoud C, C Helmer C, Loos-Ayav C, M Kessler M
(2007) Épidémiologie de l’insuffisance rénale chronique en
France, Presse Med.; 36: 1811–21
21. Tang YD, Katz SD. (2008) The prevalence of anemia in chronic
heart failure and its impact on the clinical outcomes. Heart
Failure Rev; 13: 387–92.
22. www.besancon-cardio.org
23. www.dematice.org