Bài viết nhằm đánh giá mối quan hệ giữa tình hình tài chính và chính sách cổ tức của các
ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2013. Dựa
trên việc đánh giá các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính, xem xét thông lệ chi trả cổ tức và thực
tế chi trả cổ tức của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, qua bài viết cho thấy, chính sách
cổ tức có quan hệ mật thiết với tình hình tài chính của các ngân hàng. Ngoài ra, các ngân hàng
thương mại Việt Nam vẫn đang chia cổ tức cao so với lợi nhuận thu được cũng như nhu cầu vốn cho
phát triển. Các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại được sử dụng
gồm mức độ an toàn vốn, chất lượng tài sản, hiệu quả hoạt động và các tỷ số thanh khoản. Các chỉ
tiêu phản ánh chính sách cổ tức được sử dụng gồm tỷ lệ cổ tức, tỷ lệ chi trả cổ tức và tỷ suất cổ tức.
18 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 484 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình tài chính và chính sách cổ tức của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
43
Tình hình tài chính . . .
TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH VÀ CHÍNH SÁCH CỔ TỨC CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
Tô Thị Thanh Trúc*
Nguyễn Thị Diễm Hiền**, Trần Thanh Vũ***
TÓM TẮT
Bài viết nhằm đánh giá mối quan hệ giữa tình hình tài chính và chính sách cổ tức của các
ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2013. Dựa
trên việc đánh giá các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính, xem xét thông lệ chi trả cổ tức và thực
tế chi trả cổ tức của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, qua bài viết cho thấy, chính sách
cổ tức có quan hệ mật thiết với tình hình tài chính của các ngân hàng. Ngoài ra, các ngân hàng
thương mại Việt Nam vẫn đang chia cổ tức cao so với lợi nhuận thu được cũng như nhu cầu vốn cho
phát triển. Các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại được sử dụng
gồm mức độ an toàn vốn, chất lượng tài sản, hiệu quả hoạt động và các tỷ số thanh khoản. Các chỉ
tiêu phản ánh chính sách cổ tức được sử dụng gồm tỷ lệ cổ tức, tỷ lệ chi trả cổ tức và tỷ suất cổ tức.
Từ khóa: ngân hàng thương mại, tình hình tài chính, chính sách cổ tức
FINANCIAL SITUATION AND DIVIDEND POLICY OF
THE VIETNAMESE BANKING SECTOR
ABSTRACT
The paper study the relationship between the financial position and dividend policy
of Vietnamese joint-stock commercial banks from 2009 to 2013. Based on the evaluation of the
indicators reflecting financial position and the analysis of payout policy, the paper shows that there
exists a association between the dividend policy and the financial performance of Vietnamese banks.
Another finding is that given the fund requirements to support growth, the Vietnamese commercial
banks return a large fraction of earnings to their shareholders in dividends.Capital adequacy, asset
quality, efficiency and liquidity are used as indicators of financial performance of the banks while
dividend rate, payout ratio and dividend yield as proxies for dividend policy.
Keywords: commercial banking, financial condition, dividend policy
* ThS. GV. Khoa TCNH, Trường ĐH. Kinh tế - Luật, ĐHQG TPHCM, Email: tructtt@uel.edu.vn
** ThS. GV. Khoa TCNH, Trường ĐH. Kinh tế - Luật, ĐHQG TPHCM, Email: hienntd@uel.edu.vn
*** TS. GV. Khoa TCNH, Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương
44
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. Giới thiệu
Đến mỗi mùa đại hội cổ đông, thông tin
được các nhà đầu tư quan tâm hàng đầu có lẽ
là những công bố của các công ty về kế hoạch
chia cổ tức được trình trước đại hội cổ đông.
Đối với ngành ngân hàng (NH), tại mùa đại
hội cổ đông năm nay, bên cạnh việc mua bán
và sáp nhập, xử lý nợ xấu thì chia cổ tức là
một vấn đề được mong đợi đối với cổ đông.
Điều này theo nhận định của các chuyên gia,
trong thời gian qua các NH chia cổ tức ở mức
thấp so với các công ty phi tài chính, thậm chí
một số NH trong nhiều năm liền không trả
cổ tức. Thêm vào đó, theo thông tin từ Ngân
hàng Nhà nước (NHNN), từ năm 2015 mức
chia cổ tức của mỗi NH có thể sẽ phụ thuộc
vào sự chấp nhuận của NHNN sau khi đã xem
xét kỹ lưỡng chất lượng tài sản và kết quả
kinh doanh. Có nghĩa là các NH yếu kém với
tỷ lệ nợ xấu cao hoặc những NH đang trong
quá trình tái cấu trúc sẽ không được phép trả
cổ tức.
Như vậy, cổ tức NH rõ ràng là một thông
điệp có hiệu lực mạnh mẽ về thực chất hiệu
quả hoạt động, rủi ro và triển vọng của các
NH. Ngược lại, việc chi trả cổ tức của NH
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nội tại của bản
thân từng NH, tình hình hoạt động chung của
ngành và những quy định quản lý của nhà
nước. Bài viết này nhằm đánh giá lại chính
sách cổ tức của ngành NH trong thời gian qua
cùng với hiệu quả hoạt động, thanh khoản, nợ
xấu, chất lượng tài sản của các NH để thấy
được mối liên hệ giữa các yếu tố tài chính và
chính sách cổ tức của NH.
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp
nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
Cổ tức là phần chi trả của công ty cổ phần
cho các cổ đông của họ, thường là chi trả lợi
nhuận. Khi công ty kinh doanh có lời thì công
ty có thể tái đầu tư hoặc chia lợi nhuận sau
thuế cho cổ đông, phần lợi nhuận chia cho cổ
đông được gọi là cổ tức. Hình thức phổ biến
nhất của cổ tức là tiền mặt, ngoài ra các công
ty có thể chia cổ tức bằng cổ phiếu. Cổ tức
thường được phát biểu dưới dạng một số tiền
cụ thể cho mỗi cổ phiếu (cổ tức trên một cổ
phiếu), một tỷ lệ phần trăm so với giá cổ phiếu
(tỷ suất cổ tức), riêng ở Việt Nam, cổ tức được
phát biểu bằng một tỷ lệ % so với mệnh giá cổ
phiếu. Những vấn đề liên quan đến chính sách
cổ tức của một công ty bao gồm:
y Công ty nên trả cho cổ đông bao nhiêu
trong số dòng tiền tự do của mình?
y Liệu họ nên trả lượng tiền mặt này cho
cổ đông bằng cách tăng cổ tức chi trả hay
bằng cách mua lại cổ phần?
y Họ có nên duy trì một chính sách phân
phối ổn định và nhất quán, hay chính sách chi
trả cổ tức nên thay đổi tùy thuộc vào kết quả
hoạt động của công ty?
Một công ty có thể theo đuổi chính sách
cổ tức thụ động, chính sách có tỷ lệ chi trả cao
hoặc thấp. Những tranh luận ủng hộ cho một
chính sách chi trả nào đó dựa trên cở sở ảnh
hưởng của chính sách đó đến giá trị tài sản
của cổ đông.
Theo quan điểm của Miller và Modigliani
(1961), trong một thị trường vốn hoàn hảo và
giả định chính sách đầu tư của công ty độc
lập với quyết định phân phối thì giá trị công
ty độc lập với chính sách cổ tức. Yếu tố tạo
nên giá trị doanh nghiệp là các quyết định đầu
tư, bởi vì quyết định đầu tư tạo ra thu nhập và
dòng tiền trong tương lai cho doanh nghiệp.
Các công ty nên chia cổ tức từ lợi nhuận còn
lại sau khi các dự án NPV dương đã được
thực hiện.
Myron Gordon (1959) cho rằng cổ tức
45
Tình hình tài chính . . .
dễ dự đoán hơn lãi vốn, các nhà quản lý có
thể ổn định cổ tức nhưng họ không thể kiểm
soát giá cổ phiếu. Và như vậy, khi giữ lại lợi
nhuận để tái đầu tư, công ty đã thay thế dòng
cổ tức chắc chắn ở hiện tại cho cổ đông bằng
một dòng tiền xa hơn, không chắc chắn trong
tương lai.
Nghiên cứu của Bhattacharya (1979),
Miller và Rock (1985), John và William
(1985) cho rằngtrongđiều kiện bất cân xứng
thông tin, các nhà quản lý sử dụng việc chi trả
cổ tức để đưa ra thông tin về triển vọng của
công ty đến thị trường. Nhà đầu tư sẽ dựa vào
việc chia trả cổ tức để đánh giá tình hình tài
chính hiện tại và triển vọng hoạt động tương
lai của công ty.
Một tranh luận khác ủng hộ chính sách trả
cổ tức cao là lý thuyết đại diện, giả định của
lý thuyết này là các nhà quản lý không phải
luôn hành động theo lợi ích của cổ đông là
tối đa hóa giá trị cổ phiếu do có sự mâu thuẫn
quyền lợi giữa ban điều hành và cổ đông.
Theo Jensen (1986), khi lợi nhuận giữ lại cao
các nhà quản lý công ty thường đầu tư vào
những dự án xấu. Do đó, chính sách cổ tức
cao làm tăng giá trị công ty bởi vì nó giảm
dòng tiền tự do mà ban điều hành có thể tùy
nghi sử dụng và do đó kiểm soát được vấn đề
đầu tư quá mức.
Ủng hộ cho chính sách chi trả cổ tức thấp
có lý thuyết chi phí giao dịch. Theo lý thuyết
này, công ty có thể chịu chi phí cho việc chia
cổ tức cao, trong khi đó cổ đông cũng có thể
chịu chi phí trong quá trình nhận cổ tức và tái
đầu tư thu nhập nhận được này. Khi chi trả cổ
tức, công ty phải huy động vốn từ bên ngoài
để đáp ứng các nhu cầu đầu tư và phải chịu
các chi phí phát hành, nếu công ty phải huy
động vào thời điểm không thuận lợi, chi phí
huy động vốn sẽ rất cao. Theo Bhattacharya
(1979), chi phí giao dịch phát sinh trong việc
phải dùng đến nguồn tài trợ bên ngoài chính
là chi phí của cổ tức.
Về mặt lý thuyết, các công ty cổ phần sẽ
lựa chọn chính sách cổ tức sao cho đạt được
mục tiêu trong dài hạn là tối đa hóa giá trị tài
sản của cổ đông trên cơ sở xem xét các yếu tố
ảnh hưởng đến quyết định cổ tức của họ. Các
yếu tố này có thể được chia thành bốn nhóm
chính: (1) quy định quản lý của nước sở tại và
các ràng buộc trong các khế ước vay nợ, (2)
tính sẵn có của tiền mặt, (3) các cơ hội đầu tư,
(4) tính sẵn có và chi phí sử dụng các nguồn
vốn khác, và (5) các tác động của chính sách
cổ tức lên chi phí vốn cổ phần.
Ở Việt Nam theo quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2005 và năm 2014, công ty cổ
phần chỉ được trả cổ tức cho cổ đông khi đã
hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài
chính khác theo quy định của pháp luật; trích
lập các quỹ và bù đắp đủ lỗ trước đó theo quy
định của pháp luật và điều lệ công ty. Sau khi
trả hết số cổ tức đã định, công ty vẫn phải bảo
đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác đến hạn.
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp
kinh doanh tiền tệ, nguồn vốn chính cho hoạt
động kinh doanh là tiền gửi của dân cư,những
thất bại trong hoạt động của một NH có ảnh
hưởng đến toàn bộ hệ thống NH và của cả nền
kinh tế. Cho nên quản trị ngân hàng không
chỉ vì lợi ích của cổ đông, mà quyền lợi của
người gửi tiền và lợi ích của xã hội cũng cần
được bảo vệ. Chính vì thế, chính sách cổ tức
của các NH ngoài việc phải tuân thủ các quy
định chung áp dụng cho các doanh nghiệp còn
chịu sự kiểm soát của NH nhà nước. Tại điểm
a, khoản 2, điều 59 Luật NH Nhà nước đã quy
định “Tùy theo tính chất và mức độ rủi ro, NH
Nhà nước được áp dụng các biện pháp như
46
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
hạn chế chia cổ tức, chuyển nhượng cổ phần,
chuyển nhượng tài sản; hạn chế việc mở rộng
phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động; hạn
chế, đình chỉ, tạm đình chỉ một hoặc một số
hoạt động NH đối với đối tượng thanh tra,
giám sát NH”. Dựa theo đó, từ năm 2012 NH
nhà nước đã ra chỉ thị “NH nào không trích
lập đủ dự phòng rủi ro thì không được chia
cổ tức. NHNN sẽ có biện pháp thanh tra, giám
sát cần thiết để đảm bảo lợi nhuận của NH
trước tiên để giải quyết nợ xấu”. Ngay trước
mùa đại hội cổ đông năm 2015, vào cuối
tháng 3/2015 vừa qua, NH Nhà nước cũng đã
yêu cầu các NHTM báo cáo về kế hoạch chi
trả cổ tức dự kiến năm 2014; trên cơ sở quy
mô nợ xấu, rủi ro tiềm ẩn, mức độ trích lập
đủ dự phòng rủi ro theo đánh giá chất lượng
tín dụng của NH Nhà nước để xác định mức
chia cổ tức.
Như vậy, đối với ngành ngân hàng, ngoài
những yếu tố thông thường tác động đến chính
sách cổ tức, mà quan trọng nhất là khả năng
sinh lợi,thì những yếu tố đặc trưng đo lường
sức khỏe tài chính của ngân hàng như độ an
toàn vốn, chất lượng tài sản, thanh khoản rõ
ràng có liên quan mật thiết đến quyết định
chia cổ tức. Các chỉ tiêu tài chính đo lường
các yếu tố này không chỉ được công bố bởi
bản thân các NHTM để phục vụ cho việc
giám sát của các cơ quan chức năng và nội bộ
ngân hàng mà còn có các giới hạn phải tuân
thủ do NHNN đưa ra. Dưới đây là cách tính
toán và hàm ý đánh giá của một số chỉ tiêu.
Mức độ an toàn vốn, thể hiện số vốn NH
có để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Ngân hàng càng chấp nhận nhiều
rủi ro thì càng đòi hỏi phải có nhiều vốn để
hỗ trợ hoạt động của ngân hàng và bù đắp tổn
thất tiềm năng liên quan đến mức độ rủi ro
cao hơn. Chỉ tiêu này được thể hiện qua các tỷ
số Vốn tự có/ Tài sản điều chỉnh theo trọng số
rủi ro, Vốn chủ sở hữu / Tổng tài sản
Chất lượng tài sản, chỉ tiêu tổng hợp nói
lên chất lượng quản lý, khả năng thanh toán,
khả năng sinh lời và triển vọng bền vững của
một ngân hàng. Phần lớn rủi ro trong hoạt
động ngân hàng đều tập trung ở phía tài sản
của nó, nên cùng với việc đảm bảo an toàn
vốn thì vấn đề nâng cao chất lượng tài sản có
là yếu tố quan trọng đảm bảo cho ngân hàng
hoạt động an toàn. Chỉ tiêu này bao gồm các
tỷ số Nợ xấu/Dư nợ, Dự phòng rủi ro tín dụng/
Dư nợ, Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng/Dư
nợ, Dư nợ theo lĩnh vực kinh tế / Tổng dư nợ
Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt
động, nhằm đánh giá hiệu quả kinh doanh và
mức độ phát triển của một NHTM, bao gồm
các tỷ số NIM = Thu nhập lãi thuần/Tài sản
có sinh lời, ROA = Lợi nhuận ròng/Vốn chủ
sở hữu, ROE = Lợi nhuận ròng/Vốn chủ sở
hữu, Thu nhập ròng từ lãi / tổng thu nhập, Thu
nhập từ giao dịch tài chính / Tổng thu nhập,
Chi phí nhân viên / Tổng chi phí
Các chỉ tiêu phản ánh mức độ thanh
khoản, bao gồm: Tài sản thanh khoản/tổng
tài sản, Tài sản thanh khoản / Nguồn vốn ngắn
hạn. Những ngân hàng thiếu hụt khả năng
thanh khoản là biểu hiện của tình trạng không
lành mạnh, ngân hàng đang gặp khó khăn, rất
dễ rơi vào nguy cơ bị ồ ạt rút tiền của công
chúng, nghiêm trọng hơn có thể làm sụp đổ
ngân hàng và tác động xấu đến cả hệ thống.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của bài viết chủ
yếu là phân tính định tính, thông qua tính toán
các chỉ số đánh giá hoạt động, thanh khoản,
chất lượng tài sản và chính sách cổ tức của
các NH, phân tích diễn biến các tỷ số này qua
thời gian của toàn bộ các NH trong mẫu phân
tích. Mẫu dữ liệu cũng được phân chia thành
47
Tình hình tài chính . . .
các nhóm để có thể tìm thấy được quy luật
chung theo thời gian và theo nhóm NH. Đầu
tiên các NH được chia thành hai nhóm: (1)
có vốn nhà nước (NN) và không có vốn nhà
nước. Sau đó, nhóm NH không có vốn NN lại
được theo hai cách. Cách thứ nhất là: (1) có
chia cổ tức; (2) không chia cổ tức và cách thứ
hai chia theo tỷ lệ cổ tức, các NH này được
chia thành 3 nhóm: (1) dưới 5%; (2) từ 5 đến
10%; (3) trên 10%.
Các tỷ số trong phân tích được tính toán
từ các số liệu thu thập được ban đầu, sau đó
được phân nhóm, tính trung bình cho tổng thể
và từng nhóm. Các tính toán và đồ thị được
thực hiện bằng excel.
Các tỷ số chủ yếu được sử dụng phân tích
được liệt kê dưới đây
Nhóm chỉ tiêu đánh giá chính sách
cổ tức:
- Tỷ lệ cổ tức = Cổ tức/Mệnh giá cổ phiếu
- Tỷ lệ chi trả cổ tức = Cổ tức một cổ
phiếu/Lợi nhuận một cổ phiếu (cổ tức năm
nay, lợi nhuận năm trước)
- Tỷ suất cổ tức = Cổ tức/Giá cổ phiếu
Nhóm chỉ tiêu đánh giá tình hình tài
chính của NH
- Mức độ an toàn vốn: CAR = Vốn chủ
sở hữu/ Tài sản có điều chỉnh rủi ro. Nhằm
bảo vệ người gửi tiền và tăng tính ổn định
và hiệu quả của hệ thống tài chính, các NH
thương mại phải tuân theo các quy định về
an toàn vốn của cơ quan quản lý hoặc của ủy
ban giám sát NH BASEL. Để đảm bảo tỷ lệ
an toàn vốn như quy định, các NH có thể phát
hành thêm cổ phiếu để huy động vốn chủ sở
hữu hoặc giảm phân phối tiền mặt bao gồm
chi trả cổ tức, mua lại cổ phiếu và chia thưởng
cho nhân viên. Như vậy chúng ta có thể kỳ
vọng rằng những NH có tỷ lệ an toàn vốn thấp
sẽ hạn chế chi trả cổ tức, trong khi những NH
vốn đã có tỷ lệ an toàn vốn cao sẽ sẵng lòng
chia cổ tức ở mức cao hơn.
- Chất lượng tài sản: Tỷ lệ nợ xấu = Nợ
xấu/Dư nợ, Dự phòng rủi ro tín dụng/ Dư
nợ, Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng/Dư nợ.
Phần lớn tài sản của các NH nằm ở các khoản
cho vay, nên chất lượng tài sản cỏ thể được
đánh giá qua chất lượng khoản vay, được thể
hiện qua tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ nợ quá hạn hay dự
phòng rủi ro tín dụng. Một NH có tỷ lệ nợ xấu
cao sẽ bị hạn chế chia cổ tức vì theo quy định,
NH phải trích lập đầy đủ dự phòng trước khi
chia cổ tức.
- Hiệu quả hoạt động: NIM = Thu nhập
lãi thuần/Tài sản có sinh lời, ROA = Lợi nhuận
ròng/Vốn chủ sở hữu, ROE = Lợi nhuận ròng/
Vốn chủ sở hữu. Rõ ràng cổ tức được chia từ
lợi nhuận, nên NH có ROE cao sẽ có khả năng
chia cổ tức cao.
- Các tỷ số thanh khoản: Tài sản thanh
khoản/tổng tài sản. Về lý thuyết, cổ tức được
chia từ lợi nhuận nhưng cổ tức tiền mặt lại
lấy từ tiền mặt của NH. Khi chia cổ tức, một
lượng tiền mặt lớn được lấy ra khỏi, hoặc trừ
ra khỏi khoản mục tiền mặt của NH nên tỷ số
thanh khoản rõ ràng có ảnh hưởng đến chính
sách cổ tức của các NH. NH sẽ không thể thực
hiện việc chi trả cổ tức nếu việc đó ảnh hưởng
nghiêm trọng đến trạng thái thanh khoản cho
dù NH có thể có lợi nhuận cao.
Dữ liệu cho phân tích này là dữ liệu thứ
cấp từ các báo cáo tài chính, các công bố của
các NH, được tổng hợp từ nhiều nguồn khác
nhau: website của sở giao dịch chứng khoán
TP. HCM, sở giao dịch chứng khoán Hà Nội,
các công ty chứng khoán và các NH. Số liệu
cho phân tích được thu thập từ 29 NH trong
giai đoạn 2009 đến 2013, riêng dữ liệu về cổ
tức được thu thập cho các năm từ 2011 -2013.
Tổng số tiền chi trả cổ tức được thu thập từ
48
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
báo cáo lưu chuyển tiền tệ của các NH. Các
thông tin phi tài chính được tổng hợp từ các
trang thông tin điện tử của các cơ quan liên
quan. Bài viết chỉ có thể phân tích đến năm
2013 vì tại thời điểm thu thập số liệu cho bài
viết, chúng tôi chưa thu thập đủ báo cáo tài
chính năm 2014 của các NH trong nghiên cứu.
3. Tình hình tài chính và chính sách cổ
tức của các ngân hàng
3.1. Tình hình tài chính
Tính đến hết năm 2014 số lượng NH
thương mại hoạt động tại Việt Nam là 47
NH, trong đó có 5 NHTM Nhà nước (Nông
nghiệp, BIDV, VietcomBank, VietinBank và
MHB), 5 NH 100% vốn nước ngoài (ANZ,
HSBC, Standard Chartered, Shinhan và Hong
Leong), 4 NH liên doanh (VID Public bank,
Indovina, VinaSiam, Việt Nga) và 33 NHTM
cổ phần tư nhân và 52 chi nhánh NH nước
ngoài. Tổng tài sản các NH thương mại đang
nắm giữ là 180,5 tỷ USD. Trong đó, NHTM
Nhà nước nắm 68,3 tỷ USD, NHTM nước
ngoài 5,5 tỷ USD và các NHTM cổ phần là
106,7 tỷ USD.
Quy mô hoạt động
Hình 1: Biến động quy mô của các NHTM (tỷ đồng)
Nguồn: Tổng hợp từ BCTC các NHTM được khảo sát
Bảng 1: Tăng trưởng quy mô của các ngân hàng khảo sát
2010 2011 2012 2013
Tăng trưởng tổng tài sản 44.30% 22.94% -0.96% 15.10%
Tăng trưởng dư nợ 33.65% 18.57% 13.63% 15.48%
Tăng trưởng vốn huy động 46.47% 19.62% 3.96% 10.85%
Tăng trưởng vốn điều lệ 39.84% 19.89% 14.64% 9.25%
Nguồn: Tổng hợp từ BCTC các NHTM được khảo sát
Hình 1 cho thấy quy mô của các NH tăng
đều đặn qua các năm trừ năm 2012 là năm mà
tài sản gần như không thay đổi, tốc độ tăng đạt
mức cao nhất vào năm 2010, sau đó giảm dần.
Năm 2012, dư nợ và vốn huy động đều tăng
chậm hơn vốn điều lệ. Vốn điều lệ NH của các
tăng liên tục qua các năm, tuy nhiên phần lớn
vốn này thuộc về các NH có vốn nhà nước.
49
Tình hình tài chính . . .
Đến năm 2013, mức vốn điều lệ bình quân
của các NH được khảo sát là 8.410 tỷ đồng,
19 trong 29 NH khảo sát có mức vốn điều lệ
nhỏ hơn con số bình quân này. Sự chênh lệch
về vốn điều lệ giữa các NH là khá lớn, NH có
vốn điều lệ lớn nhất là CTG (37.234 tỷ đồng)
trong khi vốn điều lệ của PVB chỉ đạt 1.875
tỷ đồng.
Khi môi trường kinh doanh gặp khó khăn,
các NH có vốn điều lệ nhỏ thường là những
NH có kết quả kinh doanh không cao, vì thế
khả năng tăng vốntừ lợi nhuận giữ lại khá hạn
chế. Bên cạnh đó, suất sinh lợi của cổ phiếu
các NHkém hiệu quả không đủ hấp dẫnđể nhà
đầu tư bỏ thêm tiền vào dẫn đến việc tăng vốn
từ phát hành cổ phiếu mới cũng gặp nhiều
khó khăn.Việc này sẽ có ảnh hưởng rõ ràng
đến chính sách cổ tức của các NH, đa số các
NH nhỏ nếu có lợi nhuận sẽ dành phần lớn để
tăng vốn chủ sở hữu nhằm đáp ứng các yêu
cầu về an toàn vốn và phát triển hoạt động,
do đó cổ tức chia cho cổ đông sẽhạn chế.
Mức độ an toàn vốn
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/Tổng tài sản
Mặc dù có vốn điều lệ cao nhưng tỷ lệ
VCSH/Tổng TS của các NH có vốn nhà nước
lại thấp hơn so với các NH không có vốn nhà
nước. Điều này cho thấy các NH có vốn nhà
nước vẫn có lợi thế trong việc sử dụng đòn bẩy
tài chính (thông qua huy động vốn tiền gửi) để
cạnh tranh với các NH khác trong hoạt động
kinh doanh. Với đòn bẩy tài chính cao, các NH
có vốn nhà nước có khả năng mang lại cho cổ
đông tỷ suất lợi nhuận cao hơn và do đó có khả
năng tốt hơn trong chi trả cổ tức. Tuy nhiên,
do các NH có vốn NN lại có cổ đông chi phối
là NN nên chính sách cổ tức còn tùy thuộc vào
hành xử của cổ đông chi phối này.
Hình2: Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản
Nguồn: Tổng hợp từ BCTC các NHTM được khảo sát
Tỷ lệ an toàn vốn (CAR)
Bảng 2: Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) qua các năm
2009 2010 2011 2012 2013
CAR các NH 15.