Tình trạng sức khỏe những người hiện mắc viêm gan B tại Bình Định, Việt Nam

Đặt vấn đề: Tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B (VGB) cao hiện là vấn đề y tế công cộng tại Việt Nam, với khoảng 10‐20% dân số nhiễm. 15 – 40% người nhiễm vi rút viêm gan B được dự đoán sẽ tử vong vì những bệnh liên quan đến gan. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tình trạng viêm gan B và diễn tiến sau 15 năm (từ năm 1998 – 2013) của 787 bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm vi rút viêm gan B vào năm 1998 tại Bình Định. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu dọc, theo dõi bệnh nhân từ năm 1998 – 2013. Thực hiện lấy mẫu máu ở những bệnh nhân còn liên lạc được vào năm 2013 để xét nghiệm các chỉ số AFP, HbsAg, HbeAg và Anti‐HBc. Kết quả nghiên cứu: 481/787 (61,1%) đối tượng được tìm thấy, trong đó 450 đối tượng (57,2%) đã được lấy mẫu máu, 31 đối tượng (4%) tử vong. Nguyên nhân tử vong liên quan đến bệnh gan chiếm 52%. Sau 15 năm, 102/450 người nhiễm vi rút viêm gan B (22,7%) có HBsAg chuyển từ dương tính sang âm tính. Nữ giới có sự chuyển đổi HBsAg từ dương tính sang âm tính cao hơn nam giới (28,4% so với 18,2%). Kết luận: Hơn 1/5 người mang vi rút viêm gan B khỏi bệnh sau 15 năm, nữ giới có tỷ lệ khỏi bệnh cao hơn nam giới. Trong số những người mang vi rút viêm gan B đã tử vong, nguyên nhân liên quan đến bệnh gan chiếm tỷ lệ cao, hơn một nửa số trường hợp tử vong vì do những nguyên này.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 278 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình trạng sức khỏe những người hiện mắc viêm gan B tại Bình Định, Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 154 TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE NHỮNG NGƯỜI HIỆN MẮC VIÊM GAN B  TẠI BÌNH ĐỊNH, VIỆT NAM  Đặng Văn Chính*, Alexander Milne**, Lê Hoàng Ninh*, Hồ Hữu Tính*, Lê Nguyễn Trung Đức Sơn***  TÓM TẮT  Đặt vấn  đề: Tỷ  lệ nhiễm vi rút viêm gan B (VGB) cao hiện  là vấn đề y tế công cộng tại Việt Nam, với  khoảng 10‐20% dân số nhiễm. 15 – 40% người nhiễm vi rút viêm gan B được dự đoán sẽ tử vong vì những bệnh  liên quan đến gan.  Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tình trạng viêm gan B và diễn tiến sau 15 năm (từ năm 1998 – 2013) của  787 bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm vi rút viêm gan B vào năm 1998 tại Bình Định.  Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu dọc, theo dõi bệnh nhân từ năm 1998 – 2013. Thực hiện lấy mẫu máu  ở những bệnh nhân còn liên lạc được vào năm 2013 để xét nghiệm các chỉ số AFP, HbsAg, HbeAg và Anti‐HBc.  Kết quả nghiên cứu: 481/787 (61,1%) đối tượng được tìm thấy, trong đó 450 đối tượng (57,2%) đã được  lấy mẫu máu, 31 đối tượng (4%) tử vong. Nguyên nhân tử vong liên quan đến bệnh gan chiếm 52%. Sau 15  năm, 102/450 người nhiễm vi rút viêm gan B (22,7%) có HBsAg chuyển từ dương tính sang âm tính. Nữ giới  có sự chuyển đổi HBsAg từ dương tính sang âm tính cao hơn nam giới (28,4% so với 18,2%).   Kết luận: Hơn 1/5 người mang vi rút viêm gan B khỏi bệnh sau 15 năm, nữ giới có tỷ lệ khỏi bệnh cao hơn  nam giới. Trong số những người mang vi rút viêm gan B đã tử vong, nguyên nhân  liên quan đến bệnh gan  chiếm tỷ lệ cao, hơn một nửa số trường hợp tử vong vì do những nguyên này.  Từ khóa: VGB, HBsAg, Bình Định, AFP.  ABSTRACT  THE HEALTH STATUS OF HBV CARRIERS IN BINHDINH PROVINCE  Dang Van Chinh, Alexander Milne, Le Hoang Ninh, Ho Huu Tinh, Le Nguyen Trung Duc Son  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 155 – 161  Background:  The  high  prevalence  of Hepatitis B  infection  (10‐20%)  is    a  serious  health  burden  in  Vietnam. It is predicted that 15‐40% of HBV carriers will die prematurelybecause of liver disease.  Objectives:  To  determine  the  health  status  of  787  subjects who were  identified  as HBV  carriers  in  1998, in Binh Dinh, Viet Nam.   Method: This was a longitudinal study of the 787 HBV carriers followed up from 1998 to 2013. Blood  tests (AFP, HBsAg, HBeAg, and Anti‐HBc) were taken.   Results: Only 481 (61%) subjects were tracked. Of the 481 subjects, 450 had blood tests, 31 died. The  most  common  cause  of  death  was  liver  disease  (52%).  Among  450  subjects  who  had  blood  tests,  102  seroconverted to HbsAg‐negative in which women outnumbered men (28% vs 18%).   Conclusion:  After  a  period  of  15  years,  one  in  five  of HBV  carriers  became HbsAg‐negative.  The  proportion of seroconversion HbsAg from positive to negative was higher in female than male HBV carriers.  The most common cause of death among HBV carriers was liver disease (52%).  Key words: HBV carriers, HBsAg, HbeAg, Anti HCV, Anti HBc, AFP, seroconversion.  *Viện Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  **Whakatane, New Zealand    ***Trung tâm Y tế thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương  Tác giả liên lạc: TS. Đặng Văn Chính  ĐT: 0908414986 Email: dangvanchinh@ihph.org.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  155 ĐẶT VẤN ĐỀ  Nhiễm vi rút viêm gan B (VGB) là một trong  những bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất trên thế  giới với tỷ lệ nhiễm đáng kể. Theo ước tính của  Tổ chức y tế thế giới (WHO), có hơn 2 tỷ người  trên thế giới nhiễm vi rút viêm gan B và khoảng  240 triệu người là những người mang mầm bệnh  viêm gan B, khoảng 500,000 – 700,000 ca hợp tử  vong có liên quan đến viêm gan B mỗi năm(13). Ở  khu vực Đông Nam Á, ước tính có đến 160 triệu  người  nhiễm  VGB  mãn  tính,  và  hơn  360.000  người  tử  vong  liên  quan  đến  VGB  hàng  năm(4,3,9). Đây cũng  là khu vực chiếm đến 60%  các trường hợp ung thư gan trên toàn cầu. Hơn  nữa, ung thư gan là nguyên nhân phổ biến thứ 2  trong các trường hợp tử vong do ung thư(10,12).  Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ  lệ nhiễm VGB  cao, nhiễm  ước  tính khoảng 10‐ 20% dân  số(8,11). Nhiễm vi  rút viêm gan B mạn  tính là nguyên nhân chính gây ra những bệnh về  gan ở Việt Nam như xơ gan và ung thư gan(1).  Việc xác định  tình  trạng nhiễm vi rút VGB;  đánh  giá  giai  đoạn  chuyển  sang  ung  thư  gan  trong cộng đồng là quan trọng khi thực hiện các  chương  trình  phòng  chống  bệnh.  Năm  1998,  nghiên  cứu  xác  định  tỉ  lệ  nhiễm  VGB  trong  huyết thanh đã được thực hiện trên 7926 người  tình nguyện tại Xã Nhơn Thành tỉnh Bình Định ‐  một  trong sáu  tỉnh nghèo ở Việt Nam – để  thu  thập  dữ  liệu  về  tình  trạng  nhiễm  VGB  trong  tỉnh.Kết  quả  xét  nghiệm  máu  cho  thấy  có  787/7926 (9,9%) nhiễm VGB.  Với mục  đích  tiếp  tục  theo  dõi  tình  trạng  hiện mắc viêm gan B tại tỉnh Bình Định đã được  xác định vào năm 1998 và đánh giá sự tiến triển  của viêm gan B theo thời gian. Một nghiên cứu  đã được triển khai trên 787 người được xác định  viêm  gan  B  năm  1998.  Kết  quả  thu  được  từ  nghiên cứu sẽ là cơ sở để cung cấp nhiều thông  tin giá  trị về điều  trị và phòng ngừa  cho hàng  triệu bệnh nhân hiện mắc VGB tại Việt Nam.  Mục tiêu  Xác định tình trạng viêm gan B và diễn tiến  sau 15 năm (từ năm 1998 – 2013) của 787 người  được  chẩn  đoán nhiễm  vi  rút  viêm  gan B  vào  năm 1998 tại Bình Định.  PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Sử dụng  thiết kế nghiên  cứu dọc  theo  thời  gian, thực hiện lấy mẫu máu xét nghiệm ởtất cả  những người nhiễm vi rút viêm gan B còn  liên  lạc  được  từ danh  sách  787 người  đã  được  xác  định nhiễm VGB tại tỉnh Bình Địnhtrong nghiên  cứu giai đoạn 1998‐2000.  Mẫu máu được lấy bởi những nhân viên y tế  đã  qua  đào  tạo  tại  Trạm  Y  tế  phường  Nhơn  Thành  vào  tháng  4‐5/2013.  Sau  đó  được  tất  cả  mẫu  được  lưu  trữ  trong  tủ  lạnh  đặc  biệt  tại  Trung  tâm  truyền  máu  huyết  học  tỉnh  Bình  Định. Toàn bộ các mẫu sẽ được chuyên viên xét  nghiệmvận chuyển đông lạnh về Thành phố Hồ  Chí Minh,  và  thực  hiện  xét  nghiệm  tại  phòng  khám đa khoa Hòa Hảo. Mẫu máu sẽ được xét  nghiệm các chỉ số alfafetopeotein (AFP), HbsAg,  HbeAg và Anti HCV. Những mẫu âm  tính với  HbsAg hoặc nghi ngờ sẽ được xét nghiệm Anti‐ HBc. Kết quả xét nghiệm sẽ nhập và phân  tích  trên phần mềm Excel và Stata.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 156 Hình 1: Sơ đồ nghiên cứu  KẾT QUẢ   Năm 2013, nghiên cứu tìm thấy được 481 đối  tượng  (61%)  từ danh  sách  787  đối  tượng viêm  gan  B  được  xác  định  vào  năm  1998,  trong  đó  31/787  đối  tượng  (4%)  đã  tử vong,  450/787  đối  tượng (57,2%) còn lại đã được lấy mẫu máu xét  nghiệm để xem xét tình trạng bệnh viêm gan sau  15 năm. 306/787 đối tượng (39%) mất dấu, trong  đó 64/787 đối tượng (8%) được biết đã chuyển đi  khỏi  nơi  cư  trú  và  242/787  đối  tượng  (31%)  không tìm thấy địa chỉ (Hình 1).  Vào  thời  điểm  năm  2013,  trong  450  đối  tượng, nhóm tuổi ≥ 20 tuổi vào năm 1998 (tương  ứng  ≥  35tuổi  năm  2013)  chiếm  đa  số  (48,2%),  nhóm 15 – 19 tuổi (tương ứng nhóm 30 – 34 tuổi  năm 2013) có tỷ lệ thấp nhất với 8,9%. Nam giới  có  tỷ  lệ  cao  hơn  nữ  giới  (56,2%  so  với  43,8%)  (bảng 1).  Bảng 1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu năm 2013 (n=450)  Tần số (n) Tỷ lệ (%) Nhóm tuổi (năm 1998) 0-4tuổi 56 12,4 5-9tuổi 79 17,6 10-14tuổi 58 12,9 15-19tuổi 40 8,9 ≥ 20tuổi 217 48,2 Giới Nam 253 56,2 Nữ 197 43,8 HBsAg âm tính  Xét nghiệm Anti‐HBc  Lần 2 Nghiên cứu năm 2013, n=450 Xét nghiệm:     AFP     HBsAg   Lần 1 Nghiên cứu năm 1998, n=7926 Số người mắc viêm gan B n=787 HBsAg(+)=787      Nữ=335    Nam=452  AntiHBc(+)=3630  Tử vong, n=31 (4%)    Liên quan đến gan=16    Lý do khác=15  Mất dấu, n=306 (38,9%)  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  157 Bảng 2: Sự thay đổi tỷ lệ HBsAg, Anti‐HBc dương tính theo nhóm tuổi và theo giới năm 1998 và năm 2013 (n=450)  Đặc điểm HBsAg (+) Anti-HBc (+) Tổng Năm 1998 n (%) Năm 2013 n (%) Năm 1998 n (%) Năm 2013 n (%) Nhóm tuổia 0-4tuổi 56 56 (100,0) 44 (78,6) 52 (92,9) 0 5-9tuổi 79 79 (100,0) 55 (69,6) 75 (94,9) 0 10-14tuổi 58 58 (100,0) 49 (84,5) 58 (100,0) 0 15-19tuổi 40 40 (100,0) 35 (87,5) 39 (97,5) 0 ≥ 20tuổi 217 217 (100,0) 165 (76,0) 215 (99,1) 2 (0,9) Giới Nam 253 253 (100,0) 207 (81,8) 247 (97,6) 0 Nữ 197 197 (100,0) 141 (71,6) 192 (97,5) 2 (1,0) Tổng 450 450 (100,0) 348 (77,3) 437 (97,5) 2/102 (1,96)b aNhóm tuổi0 – 4; 5 – 9; 10 – 14; 15 – 19; ≥ 20 tuổi vào năm 1998 tương ứng với 15 – 19; 20 – 24; 25 – 29; 30 – 34; và ≥ 35  tuổi vào năm 2013.  bNăm 2013 chỉ thực hiện xét nghiệm Anti‐HBc cho những đối tượng có kết quả xét nghiệm HBsAg(‐) hoặc không phát hiện  HBsAg, 102/450 đối tượng (22,7%) được thực hiện xét nghiệm Anti‐HBc.  Bảng 2 cho thấy, trong số 450/787 đối tượng  được  chẩn  đoán  viêm  gan  B  vào  năm  1998  (HBsAg(+))  còn  liên  lạc  được vào năm  2013  có  431/450  (97,5%)  có  Anti‐HBc(+)  tại  thời  điểm  năm 1998. Tỷ lệ Anti‐HBc(+) tăng dần theo nhóm  tuổi, riêng nhóm tuổi từ 10 – 14 có tỷ lệ Anti‐HBc  (+)  cao nhất  (100%). Theo  giới  tính,  tỷ  lệ Anti‐ HBc (+) ở nam và nữ tương đương nhau (97,6%  và 97,5%).  Kết quả xét nghiệm vào năm 2013 ở 450 đối  tượng  cho  thấy  trung  bình  khoảng  1/5  bệnh  nhân có HBsAg chuyển từ dương tính sang âm  tính sau 15 năm (HBsAg (+) 77,3% so với 100%)  (HBsAg  (+) dao  động  từ 69,6%  đến 87,5%  theo  nhóm tuổi). Tỷ lệ hiện còn HBsAg(+) thấp nhất ở  nhóm5  –  9  tuổi  (20  –  24  tuổivào  năm  2013),  69,6%. Nhóm 15 – 19  tuổi  (30‐34  tuổinăm 2013)  hiện còn tỷ lệ HBsAg (+) cao nhất với 87,5%. Kế  đến  là  nhóm  10  –  15  tuổi  với  tỷ  lệ  84,5%  HBsAg(+). Nhóm  0  –  4  tuổi  và  nhóm  ≥  20tuổi  (tương ứng nhóm 15 – 19 và ≥ 35  tuổi) có  tỷ  lệ  HbsAg  (+)  gần  tương  đương  nhau  (78,6%  và  76%).  Theo  giới,  nữ  giới  có  tỷ  lệ  chuyển  đổi  HbsAg  (+)  sang HBsAg(‐)  cao hơn nam,  71,6%  nữ giới  có HBsAg(+)  so với  81,8% HBsAg(+)  ở  nam giới vào năm 2013 (bảng 2).  Chỉ có 2/102 (1,96%) đối tượng có Anti‐HBc  (+), và đều  là nữ giới. Mặc dù không  thực hiện  xét nghiệm Anti‐HBc cho 450 đối  tượng nhưng  so với năm 1998, tỷ lệ Anti‐HBc(+) vào năm 2013  thấp hơn rất nhiều (2/102 (1,96%) so với 432/450  (97,5%)) (bảng 2).  Bảng 3: Kết quả xét nghiệm AFP và HBeAg ở 450 bệnh nhân vào năm 2013  Kết quả Nam n (%) Nữ n (%) Tổng cộng n (%) AFP (Median, range)(n=450) 2,31 (0,51-24,07) 1,93 (0,41-393,85) 2,195 (0,41-393,85) AFP < 25 ng/ml 253 (100,0) 184 (94,4) 439 (97,6) AFP ≥ 25 ng/ml 0 11 (5,6) 11 (2,4) HBeAg Dương tính 55 (21,7) 36 (18,3) 91 (20,2) Âm tính 198 (78,3) 161 (81,7) 359 (79,8) Bảng  3,  436/450  trường  hợp  (97,6%)  có  kết  quả xét nghiệm AFP < 25 ng/ml, trong 11/450 đối  tượng (2,4%) có kết quả AFP ≥ 25 ng/ml, toàn bộ  đều là nữ giới (100%). Tỷ lệ nữ giới có AFP ≥ 25  ng/ml là 5,6% (trong đó có 4 trường hợp có AFP  rất cao, dao động 101,8 ng/ml – 393,85 ng/ml).  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 158 91/450  trường  hợp  (20,2%)  có  HBeAg(+),  nam giới  có  tỷ  lệ HBeAg(+)  cao hơn  so với nữ  giới (21,7% so với 18,3%) (bảng 3).  Bảng 4: Nguyên nhân tử vong và phân bố tử vong  theo giới của 31 trường hợp tử vong ở những người  mang vi rút viêm gan B năm 2013  Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ (%) Tử vong (n=31) Liên quan đến gan 16 51,6 Nguyên nhân khác 15 48,4 Phân bố tử vong theo giới Nam 25 80,6 Nữ 6 19,4 Trong 31  trường hợp  tử vong, nam có  tỷ  lệ  tử  vong  cao  hơn  nữ  gấp  4  lần  (80,6%  so  với  19,4%).  16/31  trường  hợp  (52%)  tử  vong  có  nguyên nhân liên quan đến bệnh gan (bảng 4).   Bảng 5: Tỷ suất HBsAg âm tính và tỷ suất tử vong ở  những người mang vi rút viêm gan B từ năm 1998 –  2013.  Đặc điểm Tần số (n) Tổng thời gian (năm- người) Tỷ suất 1.000 người/năm Khỏi bệnh (mẫu n=481)a 102 7030c 14,5 Nam (n=253) 46 3652 c 12,6 Nữ (n=197) 56 2923 c 19,2 Tử vong (mẫu n=787)b Tử vong chung 31 11620c 2,7 Liên quan đến bệnh gan 16 11620c 1,4 aSo sánh trong cùng nhóm 450 đối tượng còn liên lạc được  và 31 đối tượng đã tử vong vào năm 2013 so với năm 1998.  bSo sánh số trường hợp tử vong ghi nhận được vào thời  điểm năm 2013 so với quần thể 787 người được chẩn đoán  viêm gan B năm 1998.  cThời gian đóng góp từ năm 1998 ‐ 2013 của 31 đối tượng  tử vong: 280 năm‐người (trong đó 25 nam là 232 năm‐ người và 6 nữ là 58 năm‐người), 756 đối tượng còn lại là  11340 năm‐người.  Giả sử bỏ đi 306 đối tượng đã bị mất dấu từ  787  đối  tượng  được  chẩn  đoán  viêm  gan năm  1998  (HBsAg(+)), khi  đó  tỷ  suất  chuyển  đổi  từ  HBsAg(+)  sang  HBsAg(‐)  là  14,5  người/1.000  người‐năm. Tỷ suất chuyển đổi của nữ cao hơn  nam,  trung  bình mỗi  năm  có  19  nữ/1.000  nữ  viêm gan B HBsAg(+) chuyển sang HBsAg(‐), so  với  tỷ  lệ nam giới  là 12,6 nam/1.000 năm viêm  gan B/năm.  Tỷ suất tử vong của mẫu nghiên cứu 787 đối  tượng  từ  năm  1998  –  2013  là  2,7  người/1.000  người  viêm  gan  B‐năm.  Tỷ  suất  tử  vong  vì  những nguyên nhân  liên quan đến bệnh gan  là  1,4 người/1.000 người viêm gan B‐năm.  BÀN LUẬN  Sau 15 năm theo dõi quần thể 787 bệnh nhân  mắc bệnh viêm gan B vào năm 1998, 39% bệnh  nhân đã mất dấu, không còn  liên  lạc được, 4%  bệnh  nhân  đã  tử  vong.  Chỉ  còn  450/787  bệnh  nhân (57%) tham gia vào nghiên cứu lần 2, năm  2013. Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ bệnh nhân mất  dấu cao có thể do biến động dân cư sau 15 năm  (làm  ăn  xa,  học  hành,  kết  hôn,  chuyển  nhà)  vàmột số lý do chủ quan không muốn thực hiện  xét nghiệm.   Ghi nhận từ hồ sơ của những trường hợp tử  vong cho thấy nam giới có tỷ lệ tử vong cao hơn  nữ giới gấp 4 lần. Nguyên nhân nam giới có tỷ lệ  tử vong cao hơn vẫn chưa được nghiên cứu rõ,  điều  này  có  thể  do  nam  giới  có  lối  sống  với  nhiều hành vi nguy cơ hơn nữ. Nam thường hay  uống rượu/bia, hút thuốc lá, đó là những yếu tố  góp phần gây gia  tăng nguy cơ xơ gan và ung  thư gan(13). Theo ghi nhận  của nghiên  cứu này  hơn một nửa số trường hợp tử vong có nguyên  nhân liên quan đến bệnh gan. Tỷ lệ này cao gấp  hơn  5  lần  nghiên  cứu  của  tác  giả Mano M  và  cộng sự ở  Italia  (9,3%)(5). Sự khác biệt này một  phần  có  thể  do  nghiên  cứu  của Manno M  và  cộng sự được  thực hiện  trên những người hiến  máu ở Italia, một nước phát triển, người bệnh có  điều kiện được chăm sóc, theo dõi tình trạng sức  khỏe tốt và chặc chẽ hơn tại Việt Nam.  Sau  15 năm,  trong  số  450  bệnh nhân  tham  gia  nghiên  cứu  lần  2  có  khoảng  1/5  trường  HBsAg(‐).  Trong  102  bệnh  nhân  xét  nghiệm  HBsAg  (‐)  có khoảng 2% dương  tính với Anti‐ HBc. Những  trường  này  được  khuyến  cáo  xét  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  159 nghiệm HBsAg hàng năm. Riêng những trường  hợp HBsAg dương tính cần được xét nghiệm lại  HBsAg sau 6 tháng và kiêng uống rượu bia.  Xét theo nhóm tuổi, trung bình sau 15 năm tỷ  lệ HBsAg(+) ở các nhóm tuổi giảm dao động từ 12  – 30%. Nhóm tuổi từ 25 – 29 và 30 – 34 tuổi (10 –  14 và 15 – 19 tuổi vào năm 1998) có tỷ lệ hiện còn  HBsAg(+) cao nhất với hơn 4/5 bệnh nhân. Trong  khi đó nhóm 20 – 24 tuổi (5 – 9 tuổi năm 1998) có  tỷ  lệ giảm  cao nhất, HBsAg(+)  còn khoảng hơn  2/3  bệnh  nhân. Theo  giới  tính,  nữ  giới  có  tỷ  lệ  chuyển HBsAg  từ dương  tính sang âm  tính cao  hơn nam giới khoảng 10% sau 15 năm. Sự chuyển  đổi HBsAg  (+)  sang HBsAg(‐)  chưa  thực  sự  rõ  theo  các  nhóm  tuổi,  nhìn  chung  nếu  người  có  HBsAg(+) trong độ tuổi 0 – 9 hoặc độ tuổi ≥ 20 thì  tỷ  lệ  chuyển  sang HBsAg(‐)  là  cao  hơn  so  với  nhóm tuổi từ 10 – 19. Tuy nhiên theo giới thì có  sự thay đổi rõ hơn, nữ có tỷ lệ chuyển đổi cao hơn  nam giới khoảng 10% sau 15 năm.  Tỷ  suất  chuyển  đổi  từ  HBsAg(+)  sang  HBsAg(‐)  trung  bình  mỗi  năm  khoảng  14,5  người/1.000 người viêm gan B và  tỷ suất này ở  nữ  cao  hơn  ở  nam  (19  nữ/1.000  nữ  viêm  gan  B/năm  so  với  13  nam/1.000  nam  viêm  gan  B/năm). Tỷ suất tử vong ở những người bị viêm  gan B vì những nguyên nhân liên quan đến gan  là  1,4/1.000  người  viêm  gan  B/năm. Nếu  theo  ước tính tỷ lệ nhiễm viêm gan B tại Việt Nam là  khoảng 10 – 20% dân số(9,12) và dân số là 90 triệu  người  thì  như  vậy  trung  bình  mỗi  năm  có  khoảng  130.500  người  –  261.000  người  nhiễm  viêm  gan  B  có HBsAg  chuyển  từ  dương  tính  sang âm tính và tỷ  lệ tử vong  là 12.600 người –  25.200 người/năm. Tỷ suất chuyển đổi HBsAg từ  dương tính sang âm tính của nghiên cứu này là  14.5/1000  người/năm  (1,45%/năm),  cao  hơn  so  nghiên  cứu  tại  Italia  (1%)(3), Taiwan  (0,5%)(4)và  của  tác  giả Moyes  cùng  cộng  sự  (1%)(6).  Tỷ  lệ  chuyển đổi HBsAg từ dương tính sang âm tính ở  nữ giới trong nghiên cứu này tương đương với  tác giả Moyes (19/1000 so với 20/1000) tuy nhiên  theo  nam  giới  thì  cao  hơn  (13/1000  so  với  5/1000)(6).   Xét nghiệm AFP phát hiện 2,4% bệnh nhân  hiên đang có AFP ≥ 25 ng/ml và đều là nữ giới.  Mặc dù tỷ lệ các trường hợp có AFP ≥ 25 ng/ml  không cao nhưng cũng là vấn đề đáng lưu ý, vì  AFP cao gợi ý cho thấy có sự tổn thương tế bào  gan. AFP là một protein được sản xuất chủ yếu ở  gan của thai nhi và các phần khác của phôi thai  phát triển. Tổn thương gan và ung thưcó thể làm  tăng đáng kể nồng độ AFP. AFP được sản xuất  bất cứ khi nào các tế bào ganđượctái sinh.Với các  bệnh  gan mãn  tính,  như  viêm  gan  và  xơ  gan,  AFP có  thể được nâng  lên rất cao. Nồng độ rất  cao của AFP có thể được sản xuất bởi các khối u  nhất  định.  Đặc  tính  này  làm  cho  các xét  nghiệm AFP hữu ích như là một điểm đánh dấu  khối u. Số lượng tăng của AFP được tìm thấy ở  nhiều người bị một loại ung thư gan được gọi là  ung thư biểu mô tế bào gan. AFP là chỉ số quan  trọng  trong  phát  hiện  tổn  thương  tế  bào  gan.  Nếu kết quả AFP  ở những người mang vi  rút  viêm gan B < 25 ng/ml thì tiến hành thực hiện xét  nghiệm lại. Nếu AFP> 25 ng/ml (trừ trường hợp  là phụ nữ mang thai) thì thực hiện lại xét nghiệm  sau 1 tháng, khi kết quả vẫn > 25 ng/ml cần thực  hiện  siêu  âm  hoặc  chụp  CT  để  phát  hiện  tổn  thương tế bào gan(2).  Điểm mạnh  của  nghiên  cứu  này  là  nghiên  cứu đoàn hệ  tiền cứu đầu  tiên  tại Việt Nam về  viêm gan B có  thời gian  theo dõi dài. Đánh giá  được tỷ lệ chuyển đổi HBsAg(+) sang HBsAg(‐)  và  tỷ  lệ  tử vong của các đối  tượng viêm gan B  theo  thời gian. Tuy nhiên nghiên cứu cũng  tồn  tại điểm yếu, đó là tỷ lệ mất mẫu cao có thể làm  kết quả nghiên  cứu bị  sai  lệch do  sự khác biệt  giữa  tỷ  lệ  chuyển  đổi  huyết  thanh  giữa  nhóm  nghiên cứu lần 2 và nhóm mất dấu.  KẾT LUẬN  Sau 15 năm, khoảng 22% người nhiễm vi rút  viêm gan B có HBsAg(+) chuyển sang HBsAg(‐).  Nữ giới có tỷ lệ chuyển đổi cao hơn nam giới. Và  gần 100% người nhiễm vi  rút viêm gan B có kết  quả Anti‐HBc chuyển từ dương tính sang âm tính.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 160 1/5 số trường hợp phát hiện có HBeAg(+) và  3,1% có kết quả xét nghiệm AFP ≥ 25ng/ml.   4% đối tượng đã tử vong sau 15 năm, trong  đó  hơn một  nữa  trường  hợp  có  nguyên  nhân  liên quan đến gan, và nam giới có tỷ lệ tử vong  cao hơn nữ giới gấp 4 lần.  KIẾN NGHỊ  Hướng dẫn bệnh nhân có kết quả xét nghiệm  AFP ≥ 25ng/ml cần  theo dõi và  thực hiện  lại xét  nghiệm sau một tháng, những đối tượng còn  lại  cần thực hiện xét nghiệm AFP sau một n