Điều là loại cây trồng có nhiều công dụng, có giá trị kinh tế cao, không chỉ là nguồn
thực phẩm cung cấp cho con người mà còn là nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế
biến.
Cây điều là cây nhiệt đới, nguồn gốc ở Brazil. Người Bồ Đào Nha là những người đầu
tiên đưa cây điều từ Brazil tới châu Á và châu Phi. Ngày nay trên thế giới cây điều đã được
trồng trên một vùng rộng lớn trong phạm vi từ vĩ tuyến 30
0
Nam đến 30
0
Bắc và trở thành
một cây có giá trị kinh tế lớn. Những nước trồng điều nhiều là Ấn Độ, Brazil, Mozambique,
Tanzania, Kenya.
Cây điều được du nhập vào nước ta từ thế kỷ XVIII, ban đầu được trồng phân tán
trong các vườn hộ gia đình và đồn điền. Sau năm 1975, cây điều được chọn là cây trồng phủ
xanh đất trống đồi trọc kết hợp lấy hạt, trái. Từ năm 1980 trở đi, cây điều được quan tâm mở
rộng diện tích trồng theo hướng thu hoạch hạt phục vụ cho chế biến xuất khẩu. Ngày nay, ở
Việt Nam các tỉnh có diện tích trồng điều lớn là Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình
Thuận
Bình Thuận là tỉnh nằm trong vùng duyên hải Nam Trung bộ, là vùng được thiên
nhiên ưu đãi cho cây điều phát triển với quy mô lớn. Nhiều năm nay, ngành trồng và chế
biến điều đã đóng góp đáng kể trong thu nhập kinh tế quốc dân của các địa phương và tỉnh.
Mặc dù hiện nay nhu cầu sản phẩm và thị trường tiêu thụ điều trong và ngoài nước là rất lớn
nhưng việc sản xuất và chế biến điều ở Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Thuận nói riêng
vẫn chưa đạt được kết quả tương xứng với tiềm năng của nó, đặc biệt là sự kết hợp giữa
trồng và chế biến điều còn rời rạc, chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau, chưa hình thành
một cơ chế thống nhất, tính chất liên kết chưa được đảm bảo giữa nhà máy chế biến và vùng
nguyên liệu, hiệu quả kinh tế chưa cao.
Vì vậy, cần phải xây dựng được
92 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1944 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều ở tỉnh Bình Thuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
Phạm Hoàng Hải Ngọc
TỔ CHỨC LÃNH THỔ TRỒNG VÀ
CHẾ BIẾN ĐIỀU Ở TỈNH BÌNH THUẬN
Chuyên ngành: Địa lý học
Mã số: 60 31 95
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHẠM XUÂN HẬU
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian dài học tập, nghiên cứu, đề tài luận văn “Tổ chức lãnh thổ trồng
và chế biến điều ở Bình Thuận” của em được hoàn thành. Em xin được bày tỏ lòng kính
trọng và tri ân sâu sắc đến:
Tất cả các Thầy Cô phụ trách khóa học, các Thầy Cô trong Khoa Địa lý Trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn,
giúp đỡ em trong suốt khóa học.
Thầy PGS.TS. Phạm Xuân Hậu đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt
quá trình làm và hoàn thành Luận văn Cao học.
Ban Giám hiệu nhà trường, Phòng Khoa học Công nghệ và Sau Đại học đã tạo
điều kiện thuận lợi cho học viên trong việc học tập, nghiên cứu và hoàn thành
Luận văn tốt nghiệp.
Cùng lời cảm ơn chân thành đến các Thầy Cô, đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã
có nhiều sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi có thể hoàn
thành tốt khóa học và Đề tài nghiên cứu.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8/2010
Tác giả Luận văn
Phạm Hoàng Hải Ngọc
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Điều là loại cây trồng có nhiều công dụng, có giá trị kinh tế cao, không chỉ là nguồn
thực phẩm cung cấp cho con người mà còn là nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế
biến.
Cây điều là cây nhiệt đới, nguồn gốc ở Brazil. Người Bồ Đào Nha là những người đầu
tiên đưa cây điều từ Brazil tới châu Á và châu Phi. Ngày nay trên thế giới cây điều đã được
trồng trên một vùng rộng lớn trong phạm vi từ vĩ tuyến 300 Nam đến 300 Bắc và trở thành
một cây có giá trị kinh tế lớn. Những nước trồng điều nhiều là Ấn Độ, Brazil, Mozambique,
Tanzania, Kenya.
Cây điều được du nhập vào nước ta từ thế kỷ XVIII, ban đầu được trồng phân tán
trong các vườn hộ gia đình và đồn điền. Sau năm 1975, cây điều được chọn là cây trồng phủ
xanh đất trống đồi trọc kết hợp lấy hạt, trái. Từ năm 1980 trở đi, cây điều được quan tâm mở
rộng diện tích trồng theo hướng thu hoạch hạt phục vụ cho chế biến xuất khẩu. Ngày nay, ở
Việt Nam các tỉnh có diện tích trồng điều lớn là Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình
Thuận…
Bình Thuận là tỉnh nằm trong vùng duyên hải Nam Trung bộ, là vùng được thiên
nhiên ưu đãi cho cây điều phát triển với quy mô lớn. Nhiều năm nay, ngành trồng và chế
biến điều đã đóng góp đáng kể trong thu nhập kinh tế quốc dân của các địa phương và tỉnh.
Mặc dù hiện nay nhu cầu sản phẩm và thị trường tiêu thụ điều trong và ngoài nước là rất lớn
nhưng việc sản xuất và chế biến điều ở Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Thuận nói riêng
vẫn chưa đạt được kết quả tương xứng với tiềm năng của nó, đặc biệt là sự kết hợp giữa
trồng và chế biến điều còn rời rạc, chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau, chưa hình thành
một cơ chế thống nhất, tính chất liên kết chưa được đảm bảo giữa nhà máy chế biến và vùng
nguyên liệu, hiệu quả kinh tế chưa cao.
Vì vậy, cần phải xây dựng được mô hình tổ chức sản xuất hợp lý có sự kết hợp giữa
vùng nguyên liệu với các cơ sở chế biến nhằm phát huy lợi thế của địa phương. Là người con
của địa phương, tôi chọn đề tài: “Tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều ở tỉnh Bình Thuận”
làm đề tài nghiên cứu nhằm góp phần nhỏ bé của mình giải quyết những vấn đề cụ thể, đưa
ngành phát triển đạt hiệu quả cao hơn.
2.Mục đích
-Tổng hợp cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức lãnh thổ các ngành sản xuất nông
nghiệp (trồng và chế biến sản phẩm nông nghiệp).
-Phân tích hiện trạng phát triển ngành trồng và chế biến sản phẩm từ cây điều, mối
quan hệ và hiệu quả của ngành tại tỉnh Bình Thuận .
-Đề xuất định hướng và giải pháp tổ chức lãnh thổ giữa trồng và chế biến điều nhằm
đem lại hiệu quả cao hơn tại tỉnh Bình Thuận.
3.Nhiệm vụ
-Sưu tầm tư liệu về tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế, tập trung chủ yếu vào việc
trồng và chế biến sản phẩm từ cây điều ở Bình Thuận.
-Phân tích cụ thể về tình hình trồng và chế biến sản phẩm từ cây điều, mối quan hệ của
chúng và hiệu quả đạt được từ cây điều ở Bình Thuận.
-Xây dựng mô hình tổ chức lãnh thổ hợp lý và đề xuất giải pháp thực hiện có hiệu quả
ngành sản xuất điều ở tỉnh Bình Thuận.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu: tình hình trồng và chế biến sản phẩm từ cây điều và mối quan
hệ giữa trồng và chế biến điều ở Bình Thuận.
-Phạm vi nghiên cứu: địa bàn nghiên cứu chủ yếu là các khu vực trồng điều và các cơ
sở chế biến điều ở Bình Thuận.
5. Những công trình nghiên cứu có liên quan
-Tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến nông sản cũng như kết hợp nông – công nghiệp đã
được nghiên cứu từ lâu và đi vào thực tiễn sản xuất của nhiều nước trên thế giới. Ở Việt
Nam, mô hình kết hợp nông – công nghiệp đã được nghiên cứu cả về mặt lí luận lẫn thực
tiễn.
-Với sự chú trọng quan tâm đầu tư phát triển của Đảng và Nhà nước đã có nhiều đề
tài, dự án, hội thảo nghiên cứu phát triển cây điều:
+ Đề tài “Xây dựng mô hình thâm canh cây điều ghép trên vùng đất cát đỏ Bình
Thuận” – KS.Tô Quang Bình – Sở Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Bình Thuận
+ Dự án cây điều VIE 85/005 – Bình Thuận (1986 – 1992)
+ Báo cáo “Kĩ thuật trồng và thâm canh cây điều” – Sở Nông nghiệp Phát triển Nông
thôn Bình Thuận
Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu nào cụ thể liên quan đến tổ chức lãnh thổ
cũng như việc quy hoạch, tổ chức có hiệu quả giữa vùng nguyên liệu với các cơ sở chế biến
nhằm phát huy lợi thế của ngành sản xuất cây điều. Đây cũng là nội dung cơ bản cho đề tài
nghiên cứu của luận văn dưới góc độ về Địa lý Kinh tế- Xã hội.
6.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1.Phương pháp luận
6.1.1.Quan điểm hệ thống
Bình Thuận là tỉnh cực nam của vùng duyên hải Nam Trung bộ, có mối quan hệ và
giao lưu kinh tế thuận lợi với các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, các tỉnh nam
Tây Nguyên và duyên hải miền Trung. Sức hút của các trung tâm phát triển lớn như Thành
phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu và Nha Trang tạo điều kiện thuận lợi cho Bình Thuận tiếp thu
nhanh khoa học kỹ thuật, mở rộng liên kết và phân bố lại lực lượng sản xuất, hòa nhập vào
xu thế phát triển chung của cả nước.
Sản xuất và chế biến điều và các sản phẩm từ điều là một quá trình thống nhất giữa
các khâu trong một chu trình sản xuất – chế biến – tiêu thụ sản phẩm. Mối quan hệ giữa
trồng và chế biến điều phải được xem xét trong hệ thống sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp của toàn tỉnh.
6.1.2.Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Đây là quan điểm cơ bản của Địa lý học. Tức là phải nghiên cứu các đối tượng trên
một lãnh thổ để thấy sự khác biệt của lãnh thổ đó trên cơ sở đánh giá tổng hợp các nhân tố
ảnh hưởng đến những nét khác biệt của vùng.
Đề tài trồng và chế biến điều cần được đặt trong bối cảnh kinh tế - xã hội của tỉnh
Bình Thuận có những nét đặc thù về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên,
kinh tế - xã hội, lịch sử phát triển, v.v…để hình thành các khu vực trồng trọt năng suất cao,
các khu vực chế biến tập trung với nhiều sản phẩm chất lượng cao, có giá trị.
6.1.3.Quan điểm lịch sử viễn cảnh
Khi xem xét các quá trình phát triển và liên kết của các ngành phải chú ý đến quá khứ,
hiện tại và những dự báo cho tương lai. Mỗi một giai đoạn mang một số đặc điểm riêng. Vận
dụng quan điểm lịch sử trong việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều ở tỉnh
Bình Thuận nhằm đánh giá thực trạng của vấn đề trong từng giai đoạn nhất định. Quá trình
này phải được xem xét trong chiến lược phát triển ngành điều của tỉnh nói riêng và của cả
nước nói chung.
6.1.4.Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Việc trồng và chế biến điều tác động rất lớn đến môi trường. Do vậy, quán triệt quan
điểm sinh thái trong nghiên cứu nhằm giảm thiểu những tổn hại đến môi trường sinh thái như
suy thoái đất, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, v.v…Việc thiết lập hệ thống liên kết
nông – công nghiệp trồng và chế biến điều cũng như việc đưa ra các giải pháp cho vấn đề
này cũng phải dựa trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững nhằm đảm bảo không làm
cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường của tỉnh Bình Thuận.
6.2.Phương pháp nghiên cứu
6.2.1.Phương pháp thu thập, thống kê và phân tích tổng hợp
Tiến hành thu thập tài liệu liên quan đến nội dung đề tài từ các nguồn: báo chí, thư
viện, trên mạng Internet, các dự án của các ban ngành, hội thảo….Từ đó, chọn lọc nội dung,
phân tích, tổng hợp và xử lý số liệu đảm bảo giá trị phục vụ cho nội dung nghiên cứu đề tài.
Số liệu được tổng hợp và xử lý trên cơ sở dữ liệu của Cục Thống kê tỉnh Bình Thuận,
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Bình Thuận….Đồng thời, tôi cũng tham khảo
các số liệu được công bố trên sách, báo của các cơ quan khác như Viện Khoa học Kỹ thuật
Nông nghiệp miền Nam.
6.2.2.Phương pháp điều tra thực địa
Để có các số liệu cơ bản và có cái nhìn thực tế để nhận xét đúng các yếu tố ảnh hưởng
cũng như thực trạng trồng và chế biến điều ở tỉnh Bình Thuận nên tôi đã đi thực tế đến các
cơ quan ban ngành có liên quan, đến một số hộ gia đình nông dân gắn bó lâu dài với nghề
trồng điều. Đồng thời tôi cũng tham khảo ý kiến về những khó khăn, kiến nghị đến việc
trồng và chế biến điều từ một số cán bộ, chuyên gia và hộ nông dân.
6.2.3.Phương pháp bản đồ, biểu đồ
Đây là phương pháp đặc trưng trong nghiên cứu các vấn đề về Địa lý. Xây dựng một
số bản đồ liên quan tới nội dung đề tài và xây dựng một số sơ đồ, biểu đồ thể hiện đối tượng
nghiên cứu một cách trực quan cho việc phân tích đánh giá và so sánh số liệu giữa các năm.
6.2.4.Phương pháp dự báo
Dự báo xu hướng phát triển của từng ngành, từng vùng là công việc cần thiết không
thể thiếu được của nghiên cứu địa lý. Trong nội dung nghiên cứu của mình, tôi cố gắng đưa
ra những dự báo có cơ sở khoa học về việc phát triển ngành điều trên các phương diện: diện
tích trồng điều, sản lượng điều, khả năng đáp ứng nhu cầu cho người tiêu dùng, tình hình
xuất nhập khẩu điều và dự báo về khả năng phát triển tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều
ở tỉnh Bình Thuận trong chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh nói riêng và cả nước nói
chung.
6.2.5.Phương pháp hệ thống thông tin địa lý (GIS)
Hệ thống phần mềm thông tin địa lý (GIS) được sử dụng phổ biến để lưu trữ, phân
tích, xử lý các thông tin không gian lãnh thổ. Hệ GIS cho phép chồng xếp các thông tin địa
lý để thấy được nét đặc trưng riêng cho đối tượng địa lý. Đề tài chủ yếu sử dụng phần mềm
MapInfo để tính toán, thiết kế, biên tập bản đồ, vẽ biểu đồ, đồ thị minh họa cho nội dung đề
tài.
7.Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và mục lục của đề
tài thì nội dung chính của đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức lãnh thổ sản xuất nông – công nghiệp
Chương 2: Tiềm năng và thực trạng tổ chức lãnh thổ ngành sản xuất điều ở Bình
Thuận
Chương 3: Định hướng và giải pháp tổ chức lãnh thổ sản xuất điều ở Bình Thuận
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ
SẢN XUẤT NÔNG – CÔNG NGHIỆP
1.1.Một số khái niệm tổ chức lãnh thổ
1.1.1.Tổ chức lãnh thổ kinh tế
Theo quan điểm Liên Xô (cũ): Tổ chức lãnh thổ kinh tế là sự sắp xếp, phân bố và phối
hợp các đối tượng có mối liên hệ qua lại giữa các hệ thống sản xuất, hệ thống tự nhiên và hệ
thống dân cư nhằm sử dụng hợp lý các nguồn lực để đạt hiệu quả cao về kinh tế, xã hội và
môi trường.
Theo quan điểm Phương Tây: sử dụng thuật ngữ Tổ chức không gian kinh tế- xã hội.
Tổ chức không gian là sự lựa chọn về nghệ thuật sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn, có
hiệu quả.
Tổ chức: là việc sắp xếp các đối tượng (xí nghiệp, công trình, các ngành, các lĩnh vực,
các điểm dân cư, kết cấu hạ tầng)
Lãnh thổ: là địa bàn để tổ chức, sắp xếp các đối tượng, có ranh giới xác định.
Việc tổ chức được tiến hành trên một lãnh thổ xác định theo yêu cầu phát triển kinh tế-
xã hội.
1.1.2.Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là một trong những hình thức tổ chức của nền sản xuất
xã hội theo lãnh thổ.
Qua các công trình của K.I.Ivanov, của VG.Kriutokov (1978) và một số tác giả khác
có thể quan niệm về vấn đề này như sau: “Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp được hiểu là một hệ
thống liên kết không gian của các ngành, các xí nghiệp nông nghiệp và các lãnh thổ dựa trên
Tổ chức nền sản xuất xã hội
TCLT các ngành và vùng
TCLT các vùng TCLT ngành Thành thị Nông thôn
Tổ chức môi trường sống
cơ sở các quy trình kỹ thuật mới nhất, chuyên môn hóa, tập trung hóa, liên hợp hóa và hợp
tác hóa sản xuất cho phép sử dụng có hiệu quả nhất sự khác nhau theo lãnh thổ về các điều
kiện tự nhiên, kinh tế, nguồn lao động và đảm bảo năng suất lao động xã hội cao nhất”.
Thông qua định nghĩa này, có thể thấy rõ sự nổi bật của một số điểm dưới đây:
-Phân công lao động theo lãnh thổ cùng với việc kết hợp giữa tự nhiên, kinh tế, nguồn
lao động là cơ sở để hình thành các mối liên hệ qua lại theo lãnh thổ.
-Khía cạnh ngành và khía cạnh lãnh thổ quyện chặt với nhau trong tổ chức lãnh thổ
nông nghiệp.
-Các đặc điểm không gian của sản xuất phần nhiều bắt nguồn từ tính chất của việc
khai thác và sử dụng các điều kiện sản xuất hiện có.
-Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn hàng đầu trong việc tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp không phải là bất biến. Nói cách khác, hình thái kinh tế-
xã hội nào thì có kiểu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tương ứng như thế. Hiện nay, tổ chức
lãnh thổ nông nghiệp gắn bó mật thiết với cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật, một cuộc
cách mạng đang phát triển mạnh mẽ và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp liên quan chặt chẽ với hệ thống lãnh thổ nông nghiệp.
Đây là các phân hệ sản xuất và chế biến nông phẩm có mối quan hệ khăng khít với nhau. Ở
nhiều nước kinh tế phát triển đã và đang hình thành các hệ thống lãnh thổ nông nghiệp, trong
đó phổ biến rộng rãi nhất là các hệ thống lãnh thổ sản xuất và chế biến các sản phẩm chăn
nuôi. Quá trình xuất hiện các hệ thống lãnh thổ nông nghiệp mới và hoàn thiện các hệ thống
lãnh thổ nông nghiệp hiện có trong điều kiện hiện nay không chỉ tiêu biểu cho ngành chăn
nuôi. Quá trình này ngày càng xâm nhập sâu vào ngành trồng trọt, nhất là các phân ngành
sản xuất sản phẩm phải qua chế biến công nghiệp. Việc hình thành các hệ thống lãnh thổ
trong ngành trồng trọt cũng dựa trên cơ sở chuyên môn hóa theo giai đoạn, tập trung hóa,
hợp tác hóa và liên hợp hóa trong sản xuất. Sự thống nhất về tổ chức của các giai đoạn trồng
và chế biến nguyên liệu từ nông nghiệp vào một xí nghiệp có ảnh hưởng rõ rệt đến việc hình
thành các hệ thống lãnh thổ. Từ đó, hoạt động nông nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.
Việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa to lớn không chỉ về
mặt lý luận, mà còn cả về mặt thực tiễn. Việc xem xét tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nói
chung và các hình thức tổ chức lãnh thổ nói riêng trước hết tạo ra những tiền đề cần thiết
nhằm sử dụng hợp lý các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của cả nước cũng như của từng
địa phương.
Việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tạo nên những điều kiện nhằm đẩy
mạnh và làm sâu sắc chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp.
Chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp là sự tập trung các điều kiện sản xuất của
nông nghiệp để sản xuất ra một hoặc một vài loại sản phẩm hàng hóa chủ yếu thích nghi nhất
với các điều kiện tự nhiên, kinh tế của một địa bàn lãnh thổ nông nghiệp nhất định.
Chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp là biểu hiện sự phân công lao động xã hội
trong nông nghiệp với những hình thức cụ thể:
-Chuyên môn hóa sản xuất theo ngành: là hình thức biểu hiện sự phân công lao động
theo ngành, là quá trình hình thành và phát triển các ngành sản xuất mới theo hướng ngày
càng chuyên môn hóa cao gắn với việc sản xuất những sản phẩm tiêu dùng cuối cùng.
-Chuyên môn hóa sản xuất theo vùng: là hình thức biểu hiện sự phân công lao động
theo vùng lãnh thổ, là sự tập trung các điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội tương đối đồng
nhất của vùng để tiến hành sản xuất ra những nông sản hàng hóa có lợi thế so sánh nhất so
với những vùng khác.
-Chuyên môn hóa theo các doanh nghiệp nông nghiệp: là hình thức biểu hiện phân
công lao động giữa các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh nông nghiệp, là sự tập hợp các năng
lực sản xuất của doanh nghiệp để sản xuất ra một vài nông sản hàng hóa có hiệu quả kinh tế
cao nhất.
Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nhiều hơn các ngành sản xuất
khác. Hoạt động nông nghiệp bao trùm phạm vi lãnh thổ rộng lớn với các điều kiện tự nhiên
rất khác nhau. Trong chừng mực nhất định, các điều kiện tự nhiên nào đó có thể thuận lợi
hoặc không thuận lợi cho sự phát triển từng loại vật nuôi, cây trồng. Do vậy, khi vạch ra các
hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, cần nghiên cứu kỹ các điều kiện tự nhiên, tiến hành
đánh giá chung về phương diện sinh thái. Điều đó nghĩa là cây trồng, vật nuôi phải được
phân bố ở những nơi có điều kiện thích hợp nhất. Vì thế, việc phân bố cây trồng, vật nuôi
cần được tiến hành trên cơ sở vạch ra các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp có nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp. Trong phạm vi đề tài, tôi xin đưa ra một vài hình thức tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp quan trọng.
Xí nghiệp nông nghiệp: Xí nghiệp nông nghiệp là một trong những hình thức của tổ
chức lãnh thổ nông nghiệp trong đó có sự thống nhất giữa lực lượng lao động với công cụ và
đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Mỗi xí nghiệp đều có tính độc
lập về pháp lý và có thể có quan hệ với các xí nghiệp khác.
Ở các nước Xã hội chủ nghĩa, các nông trang, nông trường quốc doanh, tập thể, các
hợp tác xã nông nghiệp được coi là xí nghiệp nông nghiệp.
Ở các nước phương Tây có nhiều hình thức liên quan đến xí nghiệp nông nghiệp. Phổ
biến là các nông trại và các đồn điền. Hình thức nông trại thường thấy ở Tây Âu và Bắc Mỹ
với quy mô khác nhau: từ vài ha đến hàng trăm ha. Trong khi đó, hình thức đồn điền tương
đối phổ biến ở các nước thuộc địa cũ thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Sản phẩm của
các đồn điền thường là các loại cây công nghiệp lâu năm (cao su, cà phê, ca cao, chè), cây
công nghiệp hàng năm, cây thực phẩm và chủ yếu để xuất khẩu.
Thể tổng hợp nông nghiệp: Thể tổng hợp nông nghiệp được xem như một hình thức
tổ chức lãnh thổ nông nghiệp bắt nguồn từ học thuyết của nhà địa lý Xô Viết
N.N.Kôlôxôvaki. Trong các công trình của mình, ông đã đưa ra học thuyết chu trình sản xuất
động lực với 8 chu trình, sau đó I.U.G.Xauskin và nhiều nhà khoa học khác đã phát triển tư
tưởng này và chia thành 19 chu trình, trong đó tập hợp chu trình nông công nghiệp được
tách ra thành các chu trình: trồng trọt, cải tạo đất, chăn nuôi trâu bò, chăn nuôi công nghiệp,
chu trình đồn điền và chu trình sinh nhiệt.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, những thành tựu khoa học kỹ thuật đã tạo nên tiền đề
quan trọng làm thay đổi tận gốc bản thân quá trình sản xuất các sản phẩm nông nghiệp.
Phương pháp công nghiệp ngày càng được áp dụng rộng rãi trong nông nghiệp. Nhiều phân
ngành mới đã và đang xuất hiện với phương pháp tổ chức quy trình sản xuất theo lối công
nghiệp, có mối liên hệ gián tiếp với đất đai. Ngoài ra, các mối liên hệ sản xuất kỹ thuật trước
đây chỉ hạn chế trong phạm vi một xí nghiệp thì ngày nay đã bị phá vỡ. Tất cả những điều đó
cùng với sự phát triển của giao thông vận tải đã mở ra triển vọng to lớn cho việc hình thành
các thể tổng hợp nông nghiệp.
Theo quan niệm của I.F.Mukomel thì thể tổng hợp nông nghiệp là sự kết hợp theo lãnh
thổ các xí nghiệp giống nhau về tính chất củ