Trong bối cảnh nền kinh tếViệt Nam hội nhập sâu rộng với kinh tế
quốc tế, đồng thời lại phải đối mặt với những khó khăn do suy thoái
toàn cầu, việc lựa chọn chiến lược đểtồn tại và phát triển đối với các tổ
chức là không hềdễdàng. Vậy làm thếnào đểbiến chiến lược thành
hành động đang là vấn đề đặt ra, trong đó khó khăn nhất là việc đánh
giá thành quảhoạt động của tổchức đểkhẳng định con đường mà tổ
chức đang đi không bịchệch hướng. Tuy nhiên, những thước đo truyền
thống sửdụng trong đánh giá thành quảhoạt động của một tổchức hiện
nay đang trởnên lạc hậu, không còn phù hợp. Để đáp ứng với yêu cầu
đó, Bảng cân bằng điểm (BSC) ra đời giúp các tổ chức có hướng
chuyển tầm nhìn và chiến lược thành những mục tiêu và thước đo cụ
thể, thông qua việc thiết lập một hệthống xoay quanh bốn phương diện:
tài chính, khách hàng, quy trình hoạt động kinh doanh nội bộ, học hỏi
và phát triển. Mục tiêu của Bảng cân bằng điểm là xây dựng hệthống
đo lường thành quảhoạt động và phục vụcho quản trịchiến lược.
Công ty TNHH Kiểm toán và Kếtoánlà một đơn vị đã có hơn 20
năm hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụkiểm toán và kếtoán
cho nhiều đối tượng khách hàng (KH) khác nhau: công ty có vốn đầu tư
nước ngoài, công ty cổphần, công ty đại chúng, doanh nghiệp (DN) và
tổchức có vốn góp của nhà nước, Việc làm thếnào đểkhẳng định
vai trò và vịtrí của Công ty trong lĩnh vực kiểm toán và kếtoán, đồng
thời vượt qua những khó khăn vềtình hình hoạt động kinh doanh trong
những năm gần đây đã đặt ra một vấn đềcho Công ty là phải xây dựng
một kếhoạch, chiến lược tốt và xây dựng được một hệthống đo lường,
đánh giá thành quảhoạt động một cách hữu hiệu và hiệu quả.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Vận dụng bảng cân bằng điểm đánh giá thành quả hoạt động tại công ty TNHH kiểm toán và kế toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
------------
PHẠM NGUYỄN ĐÌNH TUẤN
VẬN DỤNG BẢNG CÂN BẰNG ĐIỂM ĐÁNH GIÁ
THÀNH QUẢ HOẠT ĐỘNG TẠI CÔNG TY
TNHH KIỂM TOÁN VÀ KẾ TOÁN
Chuyên ngành: Kế toán
Mã số: 60.34.30
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Đà Nẵng - Năm 2015
Công trình được hoàn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trương Bá Thanh
Phản biện 1: TS. Đoàn Ngọc Phi Anh
Phản biện 2: PGS.TS. Trịnh Văn Sơn
Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp
thạc sĩ chuyên ngành Kế toán, họp tại Đại học Đà Nẵng vào ngày 31
tháng 01 năm 2015
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm thông tin – Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng với kinh tế
quốc tế, đồng thời lại phải đối mặt với những khó khăn do suy thoái
toàn cầu, việc lựa chọn chiến lược để tồn tại và phát triển đối với các tổ
chức là không hề dễ dàng. Vậy làm thế nào để biến chiến lược thành
hành động đang là vấn đề đặt ra, trong đó khó khăn nhất là việc đánh
giá thành quả hoạt động của tổ chức để khẳng định con đường mà tổ
chức đang đi không bị chệch hướng. Tuy nhiên, những thước đo truyền
thống sử dụng trong đánh giá thành quả hoạt động của một tổ chức hiện
nay đang trở nên lạc hậu, không còn phù hợp. Để đáp ứng với yêu cầu
đó, Bảng cân bằng điểm (BSC) ra đời giúp các tổ chức có hướng
chuyển tầm nhìn và chiến lược thành những mục tiêu và thước đo cụ
thể, thông qua việc thiết lập một hệ thống xoay quanh bốn phương diện:
tài chính, khách hàng, quy trình hoạt động kinh doanh nội bộ, học hỏi
và phát triển. Mục tiêu của Bảng cân bằng điểm là xây dựng hệ thống
đo lường thành quả hoạt động và phục vụ cho quản trị chiến lược.
Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toánlà một đơn vị đã có hơn 20
năm hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ kiểm toán và kế toán
cho nhiều đối tượng khách hàng (KH) khác nhau: công ty có vốn đầu tư
nước ngoài, công ty cổ phần, công ty đại chúng, doanh nghiệp (DN) và
tổ chức có vốn góp của nhà nước, Việc làm thế nào để khẳng định
vai trò và vị trí của Công ty trong lĩnh vực kiểm toán và kế toán, đồng
thời vượt qua những khó khăn về tình hình hoạt động kinh doanh trong
những năm gần đây đã đặt ra một vấn đề cho Công ty là phải xây dựng
một kế hoạch, chiến lược tốt và xây dựng được một hệ thống đo lường,
đánh giá thành quả hoạt động một cách hữu hiệu và hiệu quả.
Với những hiểu biết về môi trường kinh doanh thực tế tại Công ty,
tác giả nhận thấy Bảng cân bằng điểm là một giải pháp tốt để ứng dụng
trong việc chuyển tầm nhìn và chiến lược thành các mục tiêu và thước
đo cụ thể nhằm giúp Công ty có thể đánh giá thành quả hoạt động một
2
cách tốt nhất. Việc đo lường thành quả hoạt động của mỗi bộ phận một
cách xác đáng, công bằng và hợp lý sẽ giúp cho các bộ phận phát triển
tốt hơn nữa, đồng thời mỗi cá nhân của từng bộ phận cũng sẽ phát huy
năng lực, ra sức đóng góp để hoàn thành mục tiêu của Công ty. Xuất
phát từ tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, tác giả quyết định chọn lựa
đề tài: “Vận dụng Bảng cân bằng điểm đánh giá thành quả hoạt động tại
Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán” để làm luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu
• Giới thiệu Bảng cân bằng điểmnhư một hệ thống đo lường thành
quả hoạt động của một tổ chức kinh tế để định hướng cho việc ứng
dụng lý thuyết này vào thực tiễn.
• Phân tích những điểm mạnh, điểm yếu trong việc đánh giá thành
quả hoạt động hiện nay của Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán.
• Vận dụng Bảng cân bằng điểm để xây dựng và hoàn thiện hệ
thống đánh giá thành quả hoạt động hiệu quả cho Công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu về mặt lý luận là các nội dung liên quan
đến Bảng cân bằng điểm tại các DN.
• Đối tượng nghiên cứu về mặt thực tiễn là đánh giá thành quả hoạt
động tại Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán.
• Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu Bảng cân bằng điểm
để đánh giá thành quả hoạt động trên góc độ tổng thể Công ty TNHH
Kiểm toán và Kế toán, không đi vào chi tiết cho từng phòng, ban.
4. Phương pháp nghiên cứu
• Đối với mục tiêu nghiên cứu thứ nhất: Tác giả tổng hợp lý thuyết
về Bảng cân bằng điểm được áp dụng trong các DN của Robert
S.Kaplan và David P.Norton để làm nổi bật lên những điểm chính của
hệ thống này dựa trên bốn phương diện: tài chính, khách hàng, quy
trình hoạt động kinh doanh nội bộ, học hỏi và phát triển. Qua đó, tác
giả sẽ đưa ra mối liên hệ, cũng như cách thức liên kết giữa tầm nhìn và
chiến lược của DN với bốn phương diện nêu trên.
3
• Đối với mục tiêu nghiên cứu thứ hai: Tác giả tiến hành quan sát,
phỏng vấn, thu thập cách thức đánh giá thành quả hoạt động tại Công
ty. Từ đó, tác giả phân tích và đánh giá ưu, nhược điểm của cách thức
này nhằm làm cơ sở triển khai và hoàn thiện hệ thống đánh giá thành
quả hoạt động của Công ty.
• Đối với mục tiêu nghiên cứu thứ ba: Tác giả tiến hành so sánh
tình hình thực tế và lý thuyết để tiến hành triển khai thiết lập bốn
phương diện của Bảng cân bằng điểm tại Công ty.
5. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Vì tầm quan trọng của Bảng cân bằng điểm đối với việc quản trị
chiến lược nên có khá nhiều các nghiên cứu liên quan đến việc ứng
dụng Bảng cân bằng điểm vào các tổ chức lợi nhuận và phi lợi nhuận.
Một trong những nhà nghiên cứu về Bảng cân bằng điểm hàng đầu hiện
nay là Paul Niven, trong cuốn sách mới nhất của mình “Balanced
Scorecard Evolution: A Dynamic Approach to Strategy Execution” [7]
xuất bản tháng 8 năm 2014.
Tại Việt Nam, Bảng cân bằng điểm du nhập và được đề cập đến
nhiềuvào đầu những năm 2000 qua các hội thảo về triển khai ứng dụng
các mô hình quản trị kinh doanh và một số bài báo giới thiệu. Sau đó,
một số công ty tư vấn của nước ngoài bắt đầu chào hàng để triển khai
tại các DN Việt Nam như Deloit, Erns & Young. Một số công ty của
Việt Nam đã đi tiên phong trong việc áp dụng mô hình này như: tập
đoàn FPT, Kinh đô,Về mặt nghiên cứu, theo tìm hiểu của tác giả thì
rất hạn chế. Các kết quả nghiên cứu hầu hết chưa có chiều sâu, chưa
tìm ra được điểm thực sự mới, một số chỉ dừng lại ở cấp độ ứng dụng
trong phạm vi hẹp của một số DN hay mức độ luận văn thạc sĩ, các bài
báo khoa học. Trong số đó đáng kể đến có các nghiên cứu đã được
công bố sau:
Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Bùi Thị Hải Vân (2009) [3]:
Tháng 11 năm 2009 luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Bùi Thị Hải
Vân nghiên cứu về “Các yếu tố ảnh hưởng đến dự định áp dụng Bảng
cân bằng điểm vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam”.
4
Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Anh Thư (2010) [2]:
Đề tài thạc sĩ “Áp dụng mô hình Bảng cân bằng điểm để quản trị chiến
lược tại công ty cổ phần thực phẩm kinh đô miền Bắc” được tác giả bảo
vệ thành công tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân tháng 11 năm 2010.
Bài báo: Áp dụng Bảng cân bằng điểm tại các doanh nghiệp dịch vụ
Việt Nam (2010) [1] của tác giả Đặng Thị Hương đăng trên tạp chí
khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, kinh tế và quản trị kinh doanh 26
(2010) 94-104.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Dựa trên kinh nghiệm triển khai Bảng cân bằng điểm tại một số đơn
vị và công trình nghiên cứu về mô hình Bảng cân bằng điểm của các tác
giả tại DN Việt Nam. Đề tài “Vận dụng Bảng cân bằng điểm đánh giá
thành quả hoạt động tại Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán” của tác
giả sẽ giải quyết được các vấn đề cụ thể sau:
Thứ nhất, tác giả sẽ trình bày bản đồ chiến lược áp dụng chung cho
các tổ chức lợi nhuận và trên cơ sở đó xây dựng bản đồ chiến lược tại
Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán với các mục tiêu cụ thể phù hợp
sứ mệnh và tầm nhìn của Công ty.
Thứ hai, trên cơ sở lý thuyết về mô hình Bảng cân bằng điểm và
thực trạng tại Công ty, tác giả xây dựng mô hình Bảng cân bằng điểm
với các thước đo cụ thể phù hợp với các mục tiêu trên bản đồ chiến
lược.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài nghiên cứu được chia thành ba chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vận dụng bảng cân bằng điểm trong
đánh giá thành quả hoạt động.
Chương 2: Thực trạng đánh giá thành quả hoạt động tại Công ty
TNHH Kiểm toán và Kế toán.
Chương 3: Vận dụng bảng cân bảng điểm trong đánh giá thành quả
hoạt động tại Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬN DỤNGBẢNG CÂN BẰNG
ĐIỂMTRONG ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ HOẠT ĐỘNG
1.1 ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ HOẠT ĐỘNG TRONG DOANH
NGHIỆP
1.1.1 Khái niệm đánh giá thành quả hoạt động
Thành quả hoạt động của một doanh nghiệp được định nghĩa là kết
quả đạt được sau một quá trình hoạt động kinh doanh.
Đánh giá thành quả hoạt động là một sự miêu tả chính thức về giá
trị, tính hiệu quả hay mức độ thành công của hoạt động sản xuất kinh
doanh trong doanh nghiệp. Mục đích của việc đánh giá là nhằm tổng
kết lại những điều doanh nghiệp đạt được, chưa đạt được và nguyên
nhân là gì, từ đó tiếp tục điều chỉnh hoạt động đúng.
1.1.2 Một số thước đo truyền thống thường được sử dụng trong
đánh giá thành quả hoạt động
Việc đánh giá thành quả hoạt động tại doanh nghiệp phụ thuộc
nhiều vào các thước đo phù hợp được lựa chọn. Các thước đo truyền
thống thường được sử dụng là:
+ Hệ số tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE): được xác
định bằng Lãi ròng/Vốn chủ sở hữu.
+ Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA): được xác định bằng
Lãi ròng/Tổng tài sản.
+ Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROC): hệ số về khả năng sinh
lợi trên nguồn vốn dài hạn được xác định bằng công thức: ROC =
NOPAT/Vốn đầu tư.
Với NOPAT=EBIT(1-T); EBIT là lợi nhuận hoạt động hay thu
nhập trước trả lãi vay và thuế, T là thuế thu nhập doanh nghiệp. Doanh
nghiệp được coi là hoạt động hiệu quả nếu ROC thu được lớn hơn so
với chi phí bình quân sử dụng các nguồn vốn (WACC).
1.2 BẢNG CÂN BẰNG ĐIỂM
1.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Vào năm 1990, kết quả từ những nghiên cứu của David Norton và
6
Robert Kaplan trên đã chỉ ra rằng, nếu chỉ dựa vào các chỉ số đo lường
tài chính, công ty có thể có những quyết định sai lầm. Nhóm nghiên
cứu đã thử nghiệm nhiều giải pháp và cuối cùng đã tập trung ý tưởng về
“Bảng cân bằng điểm” (Balanced Scorecard), một công cụ đề cao các
thước đo hiệu suất và thu hút được các hoạt động xuyên suốt của tổ
chức, được cấu thành từ bốn phương diện riêng biệt: tài chính, khách
hàng, quy trình hoạt động kinh doanh nội bộ, học hỏi và phát triển.
Tổng kết về kết quả nghiên cứu được Kaplan và Norton trình bày trong
bài viết “The Balanced Scorecard – Measures That Drive
Performance” (tạm dịch: Bảng cân bằng điểm – Những thước đo thúc
đẩy hiệu quả hoạt động) đăng trên tờ Harvard Bussines Review số
tháng 1 và 2 năm 1992.
Quá trình sử dụng bảng cân bằng điểm như một hệ thống quản trị
thực hiện chiến lược được thể hiện trong cuối sách đầu tiên của Robert
S.Kaplan và David Norton năm 1996, “The Balanced Scorecard –
Translating Stratery into Action” (tạm dịch: Bảng cân bằng điểm –
Biến chiến lược thành hành động). Cuốn sách gồm hai phần tổng hợp
kết quả rút ra từ các nghiên cứu và các trải nghiệm liên quan đến khái
niệm bảng cân bằng điểm của tác giả, đồng thời cũng đưa ra các hướng
dẫn về cách thức áp dụng bảng cân bằng điểm. Cho đến nay có thể xem
đây là cuốn sách kinh điểm về ứng dụng bảng cân bằng điểm trong
triển khai chiến lược.
Bản đồ chiến lược được Kaplan và Norton trình bày trong một cuốn
sách năm 2003, “Strategy Maps: Converting Intangible Assets into
Tangible Outcomes” (tạm dịch: Bản đồ chiến lược: biến tài sản vô
hình thành kết quả hữu hình). Cuốn sách đã trình bày vai trò vô cùng
quan trọng của bản đồ chiến lược trong bảng cân bằng điểm, giúp cho
toàn bộ nhân viên trong tổ chức hiểu rõ công việc của họ đóng góp vào
mục tiêu chung như thế nào, tạo động lực để nhân viên phối hợp với
nhau làm việc, cùng hướng về mục tiêu chung.
Ngày nay, bảng cân bằng điểm được sử dụng rộng rãi trong nhiều
loại hình doanh nghiệp thuộc các ngành nghề khác nhau, các tổ chức
7
giáo dục, y tế, tổ chức phi lợi nhuận, các tổ chức Chính phủ tại hầu hết
các quốc gia trên thế giới.
1.2.2 Khái niệm bảng cân bằng điểm
Bảng cân bằng điểm là một công cụ quản trị, nó cung cấp cho các
nhà lãnh đạo thiết lập, thực hiện, giám sát nhằm biến tầm nhìn và chiến
lược của tổ chức thành một tập hợp chặt chẽ các mục tiêu và chương
trình hành động cụ thể được tổ chức thành bốn phương diện khác nhau
là: tài chính, khách hàng, quy trình hoạt động kinh doanh nội bộ, học
hỏi và phát triển [4] . Bốn phương diện của Bảng cân bằng điểm trình
bày tại Hình 1.1 (Phụ lục 1). Mối quan hệ giữa các phương diện này
được thể hiện như sau:
+ Cân bằng giữa mục tiêu ngắn hạn với mục tiêu dài hạn;
+ Cân bằng giữa thước đo bên ngoài và những thước đo bên trong
doanh nghiệp;
+ Cân bằng giữa kết quả mong muốn đạt được trong tương lai với
những kết quả thực tế đã đạt được trong quá khứ;
+ Cân bằng giữa tính khách quan với chủ quan.
1.2.3 Sự cần thiết phải vận dụng bảng cân bằng điểm để đánh
giá thành quả hoạt động
Việc sử dụng bảng cân bằng điểm là cần thiết vì hai lý do sau:
Thứ nhất, việc hạch toán kế toán có thể bị bóp méo để phục vụ cho
mục đích tài chính trong ngắn hạn và những thông tin công bố ra bên
ngoài không còn khách quan và trung thực với tình hình hoạt động
trong nội bộ doanh nghiệp.
Thước đo tài chính truyền thống không cung cấp đầy đủ các thông
tin để đánh giá thành quả hoạt động. Báo cáo tài chính hiện nay chỉ
cung cấp các thông tin tài chính còn thông tin phi tài chính vẫn chưa
được công bố đầy đủ như những tài sản vô hình thuộc về trí tuệ của tổ
chức và năng lực của tổ chức. Do vậy, các chỉ số này không tiên liệu
được các yếu tố định hướng cho sự thành công trong tương lai của tổ
chức.
8
Các thước đo tài chính hy sinh lợi ích trong dài hạn để đạt được các
mục tiêu ngắn hạn. Các hoạt động tạo ra giá trị dài hạn trong tổ chức có
thể bị ảnh hưởng bởi các mục tiêu tài chính ngắn hạn như tối thiểu hóa
chi phí bằng cắt giảm nhân công làm thu hẹp quy mô sản xuất.
Thứ hai, ngày nay doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào việc phát
triển nhanh chóng kỹ thuật mới để tăng tài sản hữu hình hay dựa vào
việc quản lý tốt tài sản hữu hình và nguồn vốn để tạo ra lợi thế cạnh
tranh mà cần phải tập trung khai thác vào các tài sản vô hình. Hệ thống
báo cáo tài chính chưa phản ánh được giá trị tài sản vô hình thuộc về trí
tuệ doanh nghiệp trong khi những tài sản này lại ảnh hưởng đến sự
thành công của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh.
Ngày nay tổ chức đã nhận thức được sức mạnh tài sản vô hình và
tích cực đầu tư tài sản này. Sự gia tăng giá trị tài sản vô hình hình thành
nhu cầu hệ thống đánh giá thành quả hoạt động phải ghi nhận được giá
trị,quản lý, kiểm soát tài sản vô hình để mang lại lợi ích ngày càng cao
cho quá trình phát triển của tổ chức.
1.3 VẬN DỤNG BẢNG CÂN BẰNG ĐIỂM TRONG ĐÁNH GIÁ
THÀNH QUẢ HOẠT ĐỘNG
Việc đánh giá thành quả hoạt động nhằm đảm bảo con đường mà
doanh nghiệp đang đi không bị chệch hướng với chiến lược đặt ra ban
đầu, trong đó bảng cân bằng điểm là cầu nối nhằm biến chiến lược
thành hành động cụ thể. Hình 1.2 (Phụ lục 2) thể hiện mối liên kết giữa
các thành phần của bảng cân bằng điểm.
1.3.1 Sứ mệnh, giá trị cốt lõi, tầm nhìn và chiến lược trong
doanh nghiệp
Sứ mệnh:là một tuyên bố súc tích mang tính nội bộ về lý do tồn tại
của tổ chức, mục tích cơ bản để tổ chức hoạt động và những giá trị định
hướng cho hoạt hoạt động của nhân viên. Sứ mệnh cũng mô tả cách
thức một tổ chức cạnh tranh và mang lại giá trị cho khách hàng.
Giá trị cốt lõi:là nguyên tắc tồn tại mãi mãi để dẫn dắt một tổ chức.
Chúng đại diện cho những niềm tin sâu sắc trong tổ chức và những
nguyên lý trường tồn mà tổ chức sử dụng để dẫn dắt việc ra quyết định
9
Tầm nhìn:là một tuyên bố súc tích xác định những mục tiêu trung và
dài hạn của tổ chức (từ ba đến mười năm). Tầm nhìn nên hướng ngoại,
có định hướng thị trường và nên thể hiện rõ tổ chức muốn thế giới nhìn
nhận mình như thế nào bằng các thuật ngữ sinh động hoặc dễ thấy.
Chiến lược: là cách doanh nghiệp sử dụng nguồn lực nội tại nắm
bắt cơ hội thị trường để đạt mục tiêu. Lựa chọn chiến lược ảnh hưởng
quan trọng đến quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có
ba nhóm chiến lược cơ bản: chiến lược dẫn đầu về chi phí; chiến lược
khác biệt hóa sản phẩm và chiến lược tập trung.
1.3.2 Bản đồ chiến lược trong bảng cân bằng điểm
Bản đồ chiến lược là một bản mô tả trên giấy về những gì tổ chức
muốn làm tốt trong cả bốn phương diện nhằm thực thi chiến lược một
cách thành công. Một bản đồ chỉ dẫn trong suốt hành trình, đưa tổ chức
đến điểm đích đã lựa chọn. Bản đồ chiến lược xác định những con
đường nhân – quả đan xen qua bốn phương diện có thể dẫn tới việc
thực hiện chiến lược của tổ chức. Việc trình bày bản đồ chiến lược sẽ
giúp cho tổ chức nhìn thấy toàn cảnh bức tranh các mục tiêu, chương
trình hành động. Cũng từ đó giúp tổ chức cân đối, điều chỉnh các nội
dung phù hợp với các nguồn lực hiện có cũng như các mục tiêu, định
hướng chiến lược khi có sự thay đổi. Ví dụ một bản đồ chiến lược trong
mô hình bảng cân bằng điểm được trình bày tại Hình 1.2 (Phụ lục 3).
1.3.3 Bốn phương diện của bảng cân bằng điểm
a. Phương diện tài chính
Các thước đo của phương diện tài chính là những thước đo kết quả,
phản ánh lợi ích mà cổ đông sẽ nhận được từ doanh nghiệp, được thúc
đẩy từ những thước đo của phương diện khách hàng và phương diện
quy trình hoạt động kinh doanh nội bộ.
Tùy theo chiến lược của mỗi doanh nghiệp để tiến hành xác định
các mục tiêu của phương diện tài chính. Thông thường, mục tiêu mà
doanh nghiệp hướng đến đối với phương diện này là tạo ra giá trị tăng
thêm cho cổ đông. Căn cứ vào các mục tiêu đã xác định đối với phương
diện tài chính để lựa chọn thước đo thích hợp cho từng mục tiêu. Các
10
thước đo có thể sử dụng để đo lường thành quả hoạt động của phương
diện này là: lợi nhuận hoạt động, ROE, giá trị kinh tế tăng thêm (EVA),
lợi nhuận hoạt động tăng do tăng trưởng, lợi nhuận hoạt động tăng do
giá, lợi nhuận hoạt động tăng do năng suất,
b. Phương diện khách hàng
Các thước đo dùng để đánh giá thành quả hoạt động của phương
diện khách hàng là thước đo kết quả, phản ánh giá trị mà tổ chức đã
mang lại cho khách hàng, là kết quả được tạo ra từ phương diện quy
trình hoạt động kinh doanh nội bộ.
Để do lường thành quả hoạt động của phương diện khách hàng,
phải căn cứ vào các mục tiêu đã xác định cho phương diện này để lựa
chọn các thước đo thích hợp với từng mục tiêu. Các mục tiêu của
phương diện khách hàng được xác định dựa trên sự mong đợi của
khách hàng và chiến lược của doanh nghiệp. Các thước đo có thể sử
dụng để đo lường thành quả hoạt động của phương diện này là: thị phần
khách hàng mục tiêu, mức độ hài lòng của khách hàng qua khảo sát, tỷ
lệ % khách hàng cũ tiếp tục mua hàng, số lượng khách hàng mới, khả
năng sinh lợi theo khách hàng. Các thước đo này áp dụng cho tất cả các
loại hình doanh nghiệp, tuy nhiên tùy theo mục tiêu chiến lược của từng
tổ chức mà việc xây dựng các thước đo sẽ khác nhau. Để đo lường
thành quả hoạt động của phương diện này, cần phải xác định được
nhóm khách hàng và phân khúc
c. Phương diện quy trình hoạt động kinh doanh nội bộ
Nếu doanh nghiệp không đặt ra mục tiêu cải tiến thường xuyên quy
trình hoạt động để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng
hoặc không có chiến lược phát triển sản phẩm, dịch vụ mới chắc chắn
doanh nghiệp đó sẽ không thể duy trì lợi thế cạnh tranh trong dài hạn.
Đối với phương diện này, doanh nghiệp phải xác định các quy trình
chính cần phải thực hiện và cải tiến nhằm hướng đến việc gia tăng giá
trị cho khách hàng và cho các cổ đông.
Các thước