Chúng ta đang sống trong một thế giới mà môi trường có nhiều biến đổi: khí hậu
biến đổi, nhiệt độ trái đất tăng lên, mực nước biển dâng cao, hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm
môi trường, suy giảm đa dạng sinh học Trong đó, biến đổi khí hậu l à mộtvấn đề
hiện đang được các nước trên thế giới quan tâm sâu sắc. Biến đổi khí hậu mà tiêu biểu
là sự nóng lên toàn cầu đang diễn ra. Nhiệt độ trên thế giới đã tăng thêm khoảng 0,7
0
C
kể từ thời kỳ tiền công nghiệp và hiện đang tăng với tốc độ ngày càng cao. Ngoài các
nguyên nhân tự nhiên và tính chất biến đổi phức tạp của các hệ thống khí hậu tr ên thế
giới, hầu hết các nhà khoa học về môi trường hàng đầu trên thế giới đều khẳng định:
các loại khí nhà kính phát thải vào khí quyển do các hoạt động của con ngườiđã làm
cho khí hậu toàn cầu nóng lên.
Biến đổi khí hậu đang thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia do những ảnh h ưởng
hiện nay và hiểm họa trong tương lai đối với xã hội loài người. Các hiện tượng khí hậu
dị thường và thiên tai liên tục diễn ra ở nhiều vùng trên thế giới. Các nhà khoa học từ
lâu cũng đã lên tiếng cảnh báo hiểm họa nghi êm trọng này nhưng chỉ cho đến gần đây,
loài người mới thấy được ý nghĩa quan trọng của việc bảo vệ môi tr ường và thực hiện
cuộc chiến thực sự chống lại sự biến đổi khí hậu.
Để có thể giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu thế giới cần tăng c ường các biện pháp
nhằm giảm thiểu phát thải khí nhà kính từ các nước công nghiệp và huy động sự tham
gia nhiều hơn nữa của các nước đang phát triển, đề ra các biện pháp khuyến khích các
nước này hạn chế mức phát thải, đồng thời đảm bảo tăng tr ưởng kinh tế.
Theo nghiên cứu mới nhất của Liên Hợp Quốc, Việt Nam là quốc gia đang phát
triển thuộc nhóm các nước bị ảnh hưởng nhiều nhất ở khu vực Đông Nam Á từ sự biến
đổi khí hậu này. Bởi vậy, việc xây dựng chiến lược quốc gia nhằm đối phó và thích
ứng với sự biến đổi khí hậu của Việt Nam l à một việc làm cấp thiết trong thời gian tới.
Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia biên soạn Tổng luận “TÁC
ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU VÀ SỰ DÂNG CAO NƯỚC BIẾN”
nhằm giúp các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu có
cách nhìn bao quát hơn về nguy cơ biến đổi khí hậu tòan cầu, từ đó đưa ra các quyết
sách hợp lý nhằm thích ứng và đối phó với xu thế này.
58 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2060 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổng luận tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu và sự dâng cao nước biến, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1LỜI GIỚI THIỆU
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà môi trường có nhiều biến đổi: khí hậu
biến đổi, nhiệt độ trái đất tăng lên, mực nước biển dâng cao, hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm
môi trường, suy giảm đa dạng sinh học… Trong đó, biến đổi khí hậu là một vấn đề
hiện đang được các nước trên thế giới quan tâm sâu sắc. Biến đổi khí hậu mà tiêu biểu
là sự nóng lên toàn cầu đang diễn ra. Nhiệt độ trên thế giới đã tăng thêm khoảng 0,70C
kể từ thời kỳ tiền công nghiệp và hiện đang tăng với tốc độ ngày càng cao. Ngoài các
nguyên nhân tự nhiên và tính chất biến đổi phức tạp của các hệ thống khí hậu trên thế
giới, hầu hết các nhà khoa học về môi trường hàng đầu trên thế giới đều khẳng định:
các loại khí nhà kính phát thải vào khí quyển do các hoạt động của con người đã làm
cho khí hậu toàn cầu nóng lên.
Biến đổi khí hậu đang thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia do những ảnh hưởng
hiện nay và hiểm họa trong tương lai đối với xã hội loài người. Các hiện tượng khí hậu
dị thường và thiên tai liên tục diễn ra ở nhiều vùng trên thế giới. Các nhà khoa học từ
lâu cũng đã lên tiếng cảnh báo hiểm họa nghiêm trọng này nhưng chỉ cho đến gần đây,
loài người mới thấy được ý nghĩa quan trọng của việc bảo vệ môi trường và thực hiện
cuộc chiến thực sự chống lại sự biến đổi khí hậu.
Để có thể giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu thế giới cần tăng cường các biện pháp
nhằm giảm thiểu phát thải khí nhà kính từ các nước công nghiệp và huy động sự tham
gia nhiều hơn nữa của các nước đang phát triển, đề ra các biện pháp khuyến khích các
nước này hạn chế mức phát thải, đồng thời đảm bảo tăng trưởng kinh tế.
Theo nghiên cứu mới nhất của Liên Hợp Quốc, Việt Nam là quốc gia đang phát
triển thuộc nhóm các nước bị ảnh hưởng nhiều nhất ở khu vực Đông Nam Á từ sự biến
đổi khí hậu này. Bởi vậy, việc xây dựng chiến lược quốc gia nhằm đối phó và thích
ứng với sự biến đổi khí hậu của Việt Nam là một việc làm cấp thiết trong thời gian tới.
Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia biên soạn Tổng luận “TÁC
ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU VÀ SỰ DÂNG CAO NƯỚC BIẾN”
nhằm giúp các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu có
cách nhìn bao quát hơn về nguy cơ biến đổi khí hậu tòan cầu, từ đó đưa ra các quyết
sách hợp lý nhằm thích ứng và đối phó với xu thế này.
TRUNG TÂM THÔNG TIN KH&CN QUỐC GIA
2MỞ ĐẦU
Trong những năm 80, bằng chứng khoa học về khả năng biến đổi khí hậu toàn cầu
đã dẫn đến sự quan tâm chung ngày càng tăng. Từ năm 1990, một loạt các hội nghị
quốc tế đã đưa ra những lời kêu gọi khẩn cấp để có một hiệp ước toàn cầu về vấn đề
này. Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP) và Tổ chức Khí tượng Thế
giới (WMO) đã hưởng ứng bằng cách thiết lập nhóm Công tác Liên Chính phủ để
chuẩn bị cho các cuộc hiệp thương của Hiệp ước. Đã có sự tiến bộ nhanh chóng, một
phần do sự nỗ lực của Ủy ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC) và các cuộc
họp về biến đổi khí hậu ở cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Đáp lại kiến nghị của Nhóm Công tác, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc tại khóa họp
năm 1990 đã thành lập Ủy ban Hiệp thương Liên Chính phủ cho một Công ước khung
về Biến đổi khí hậu (INC/FCCC). INC/FCCC đã được ủy nhiệm soạn thảo một Công
ước khung và các công cụ pháp lý bất kỳ liên quan được coi là cần thiết. Những nhà
thương thuyết từ hơn 150 quốc gia đã gặp nhau trong 5 phiên họp trong khoảng thời
gian từ tháng 2/1991 đến tháng 5/1992 và đã chấp nhận Công ước khung của Liên Hợp
Quốc về Biến đổi khí hậu vào ngày 9 tháng 5 năm 1992 tại trụ sở Liên Hợp Quốc ở
New York.
Ngay sau đó, tại Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Môi trường và Phát triển, hay
thường gọi là Hội nghị Thượng đỉnh, đã được tổ chức vào tháng 6 năm 1992, ở Rio de
Janeiro, Braxin, 155 quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã ký Công ước Khung của Liên
hợp quốc về Biến đổi khí hậu. Mục tiêu của Công ước là nhằm “ổn định các nồng độ
khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được sự can thiệp nguy hiểm
của con người đối với hệ thống khí hậu”.
Nghị định thư Kyoto của Công ước khí hậu là văn bản pháp lý để thực hiện Công
ước khung về Biến đổi khí hậu có hiệu lực kể từ ngày 16/2/2005 bằng sự phê chuẩn
của Nga (tháng 10/2004). Nội dung quan trọng của Nghị định thư Kyoto là đưa ra Chỉ
tiêu giảm phát thải khí nhà kính có tính ràng buộc pháp lý đối với các nước phát triển
và cơ chế giúp các nước đang phát triển đạt được sự phát triển kinh tế, xã hội một cách
bền vững thông qua thực hiện "Cơ chế phát triển sạch"(CDM). Bản thỏa thuận nêu
cam kết của các nước công nghiệp hóa giảm phát thải sáu loại khí nhà kính ở mức 5%
vào năm 2012.
Tháng 12/2007, Hội nghị về khí hậu của Liên Hợp Quốc được tổ chức tại Bali,
Inđônêxia, các đại biểu đến từ gần 190 quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ đã cố gắng tìm ra
một lộ trình cho các cuộc đàm phán về một công ước nóng lên toàn cầu mới sẽ có hiệu
lực vào năm 2012, khi kết thúc thời kỳ cam kết đầu tiên của Nghị định thư Kyoto. Hội
nghị Bali có ba mục tiêu chính: (1) Mở đầu các đàm phán về ứng phó với biến đổi khí
hậu giai đoạn sau năm 2012; (2) Đưa ra lịch trình đàm phán quốc tế; (3) Đạt được
Thỏa thuận quốc tế mới nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu. Các
quyết định đưa ra tại Hội nghị Bali lần này sẽ mở đầu cho quá trình đạt được các thỏa
thuận vào đầu năm 2009, là một dấu hiệu thể hiện sự đoàn kết của cộng đồng quốc tế
3cùng ứng phó với biến đổi khí hậu. Hội nghị các Bên lần này đóng một vai trò quan
trọng trong việc thành lập một chương trình nghị sự ứng phó với biến đổi khí hậu
trong tương lai.
Báo cáo “Ảnh hưởng của mực nước biển dâng cao đối với các nước đang phát
triển: Phân tích so sánh” của Ngân hàng Thế giới (WB) công bố đầu năm 2007 cho
biết: Mực nước biển chỉ cần dâng thêm 1m thì sẽ gây hiểm họa lớn đối với các nước
có vùng dân cư và đời sống kinh tế tập trung ở các vùng đồng bằng thấp ở ven biển.
Theo Báo cáo Tình trạng môi trường biển của Chương trình hành động toàn cầu thuộc
UNEP (2006), thì hiện nay, gần 40% dân số thế giới sống tại các vùng ven biển hẹp
(chỉ chiếm 6,7% diện tích bề mặt Trái Đất) và phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Mật độ dân số tại khu vực bờ biển có thể tăng từ 77 người/km2 năm 1990, lên
tới 115 người/km2 năm 2025.
Với nguy cơ nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu, ảnh hưởng đối với các cộng
đồng ven biển là không thể tránh khỏi. Còn theo đánh giá của Chương trình Phát triển
Liên Hợp Quốc (UNDP, 2007), Việt Nam nằm trong top 5 nước đứng đầu thế giới dễ
bị tổn thương nhất trước sự biến đổi khí hậu. Nếu mực nước biển tăng 1m, Việt Nam
sẽ mất 5% diện tích đất đai, 11% người mất nhà cửa, giảm 7% sản lượng nông nghiệp
và 10% thu nhập quốc nội (GDP). Nước biển dâng 3-5m đồng nghĩa với một thảm họa
có thể xảy ra ở Việt Nam. Việt Nam phải xây dựng kịch bản thích ứng và đối phó chi
tiết vấn đề khí hậu và nước biển dâng, để từ đó đưa ra các chính sách, chương trình
hành động đúng, bởi biến đổi khí hậu không chỉ đơn giản là vấn đề của từng ngành,
mà liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế, xã hội khác.
Như vậy, Trái đất nóng lên, nước biển dâng cao và biến đổi khí hậu đến nay không
còn là vấn đề riêng của một nước nào mà đó là vấn đề chung, là trách nhiệm của toàn
cầu. Các quốc gia trên thế giới đang rất nỗ lực xây dựng và thực hiện các hành động
chiến lược nhằm thích ứng với sự nóng lên toàn cầu, ngăn ngừa và hạn chế tác động
của các hiện tượng khí hậu cực đoan do biến đổi khí hậu như nước biển dâng. Tài liệu
này tổng hợp chung về tình hình biến đổi khí hậu và đánh giá những ảnh hưởng của sự
gia tăng mực nước biển đối với một số quốc gia có biển trong khu vực, dựa trên tổng
hợp thông tin từ các Báo cáo lần thứ 4, xuất bản năm 2007 của Ủy ban Liên chính phủ
về biến đổi khí hậu (IPCC), Báo cáo “Ảnh hưởng khi mực nước biển dâng cao đối với
các nước đang phát triển: Phân tích so sánh” của Ngân hàng Thế giới (WB), Báo cáo
Phát triển Con người 2007-2008 của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
(UNDP), tài liệu về thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng của một số quốc
gia trong khu vực như Trung Quốc, Bănglađét cùng một số kết quả điều tra khảo sát
của các nhà khoa học Việt Nam. Hy vọng rằng những đánh giá trên sẽ cung cấp thông
tin cho Việt Nam trong việc xây dựng chiến lược và các chương trình nhằm thích ứng
với sự biến đổi khí hậu, giảm thiểu những tổn thất do biến đổi khí hậu và mực nước
biển dâng cao, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển bền vững, hài hòa giữa phát triển
kinh tế và bảo vệ môi trường.
4I. TỔNG QUAN VỀ SỰ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ
DÂNG CAO NƯỚC BIẾN
1.1. TÌNH HÌNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU
1.1.1. Một số khái niệm
Hiệu ứng nhà kính
Nhiệt độ bề mặt Trái đất được tạo nên do sự cân bằng giữa năng lượng Mặt trời đến
bề mặt Trái đất và năng lượng bức xạ của Trái đất vào khoảng không gian giữa các
hành tinh. Năng lượng Mặt trời chủ yếu là các tia sóng ngắn dễ dàng xuyên qua cửa sổ
khí quyển. Trong khi đó, bức xạ của Trái đất với nhiệt độ bề mặt trung bình +16oC là
sóng dài có năng lượng thấp, dễ dàng bị khí quyển giữ lại. Các tác nhân gây ra sự hấp
thụ bức xạ sóng dài trong khí quyển là khí CO2, bụi, hơi nước, mêtan (CH4), CFC ...
Kết quả của sự của sự trao đổi không cân bằng về năng lượng giữa Trái đất với
không gian xung quanh, dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ của khí quyển Trái đất. Hiện
tượng này diễn ra theo cơ chế tương tự như nhà kính trồng cây và được gọi là “hiệu
ứng nhà kính”.
Sự gia tăng tiêu thụ nhiên liệu hoá thạch của loài người đang làm cho nồng độ khí
CO2 của khí quyển tăng lên. Sự gia tăng khí CO2 và các khí nhà kính khác trong khí
quyển Trái đất làm nhiệt độ Trái đất tăng lên. Vai trò gây nên hiệu ứng nhà kính của
các chất khí được xếp theo thứ tự sau: CO2 => CFC => CH4 => O3 =>NO2. Sự gia tăng
nhiệt độ Trái đất do Hiệu ứng nhà kính có tác động mạnh mẽ tới nhiều mặt của môi
trường Trái đất.
Biến đổi khí hậu
Hệ thống khí hậu Trái đất bao gồm khí quyển, lục địa, đại dương, băng quyển và
sinh quyển. Các quá trình khí hậu diễn ra trong sự tương tác liên tục của những thành
phần này. Quy mô thời gian của sự hồi tiếp ở mỗi thành phần khác nhau rất nhiều.
Nhiều quá trình hồi tiếp của các nhân tố vật lý, hóa học và sinh hóa có vài trò tăng
tường sự biến đổi khí hậu hoặc hạn chế sự biến đổi khí hậu. Công ước khung của LHQ
về biến đổi khí hậu đã định nghĩa: “Biến đổi khí hậu là “những ảnh hưởng có hại của
biến đổi khí hậu”, là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra
những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản
của các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ thống
kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người”.
Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do sự gia tăng các hoạt động
tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ khí
nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn
chế sự biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto nhằm hạn chế và ổn định sáu loại khí
nhà kính chủ yếu bao gồm: CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs và SF6.
• CO2 phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là nguồn khí
nhà kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO2 cũng sinh ra tử các
hoạt động công nghiệp như sản xuất xi măng và cán thép.
• CH4 sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ
thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than.
5• N2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.
• HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23 là sản
phẩm phụ của quá trình sản uất HCFC-22.
• PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.
• SF6 sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê.
Các biểu hiện của biến đổi khí hậu:
- Sự nóng lên của khí quyển và Trái đất nói chung.
- Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của
con người và các sinh vật trên Trái đất.
- Sự dâng cao mực nước biển do băng tan, dẫn tới sự ngập úng ở các vùng đất thấp,
các đảo nhỏ trên biển.
- Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau
của Trái đất dẫn tới nguy cơ đe doạ sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái
và hoạt động của con người.
- Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần
hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
- Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của
thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển.
1.1.2. Các nguyên nhân và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu
Bằng chứng về sự nóng lên của hệ thống khí hậu được thể hiện ở sự gia tăng nhiệt
độ trung bình của không khí và đại dương trên toàn cầu, tình trạng băng tan và tăng
mực nước biển trung bình trở nên phổ biến. 11 trong số 12 năm qua (1995-2006) được
xếp vào những năm có nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng kỷ lục (từ năm 1850). Xu thế
nhiệt độ tăng trong 100 năm (kể từ năm 1906 – 2005) là 0,740C (0,560C đến 0,920C),
lớn hơn xu thế được đưa ra trong báo cáo đánh giá lần thứ 3 của IPCC là 0,60C (từ
0,40C đến 0,80C) (1901-2000). Sự gia tăng nhiệt độ đang trở nên phổ biến trên toàn
cầu và tăng nhiều hơn ở các khu vực vĩ độ cao ở phía bắc. Khu vực đất liền nóng lên
nhanh hơn các khu vực đại dương. Những thay đổi về nồng độ khí nhà kính trong khí
quyển, các sol khí, độ che phủ đất và bức xạ mặt trời đã làm thay đổi cân bằng năng
lượng của hệ thống khí hậu. Lượng khí thải nhà kính trên toàn cầu do con người đã
tăng khoảng 70% so với thời kỳ trước cách mạng công nghiệp, trong khoảng thời gian
từ 1970 đến 2004.
Khí CO2 là loại khí nhà kính quan trọng nhất do các hoạt động của con người tạo ra. Từ
năm 1970 đến năm 2004, phát thải hàng năm của loại khí này tăng khoảng 80%. Xu thế
giảm dài hạn khí thải CO2 trên một đơn vị năng lượng đã bị đảo ngược sau năm 2000.
Năm 2005, nồng độ CO2 trong khí quyển là 379 ppm và CH4 là 1.774 ppm, vượt xa
mức tự nhiên trong hơn 650.000 năm qua. Nồng độ CO2 trên toàn cầu tăng chủ yếu do
sử dụng nhiên liệu hoá thạch và thay đổi mục đích sử dụng đất (hoạt động này chỉ góp
một phần nhỏ). Tăng nồng độ CH4 chủ yếu do nông nghiệp và đốt nhiên liệu hóa
thạch. Tốc độ tăng CH4 cũng đã giảm kể từ những năm đầu thập kỷ 90.
Kể từ 1750, nồng độ CO2, CH4, N2O trong khí quyển toàn cầu tăng rõ rệt do các
hoạt động của con người và hiện nay vượt xa so với mức của thời kỳ trước cách mạng
công nghiệp, làm tan chảy cả các khối băng đã tồn tại qua hàng nghìn năm.
6Hầu hết sự gia tăng nhiệt độ trung bình trên toàn cầu quan sát được từ giữa thế kỷ
20 có thể do tăng nồng độ khí nhà kính. Trong hơn 50 năm qua, nhiệt độ ở các lục địa
(trừ Nam Cực) đã tăng lên đáng kể.
Nóng lên toàn cầu làm gia tăng mực nước biển. Từ năm 1961, mực nước biển trung
bình trên toàn cầu dâng cao với tốc độ trung bình là 1,8 mm/năm (từ 1,3-2,3 mm/năm)
và từ năm 1993 ở mức 3,1mm/năm (từ 2,4- 3,8 mm/năm), do sự dãn nở vì nhiệt, tan
các mũ băng và những tảng băng ở vùng cực. Tốc độ băng tan diễn ra nhanh nhất
trong thời gian từ 1993 đến 2003 thể hiện sự biến đổi trong một thập kỷ, chứ chưa phải
là một xu thế tan chảy dài hạn rõ ràng.
Nóng lên toàn cầu làm giảm lượng băng và tuyết. Dữ liệu vệ tinh từ năm 1978 chỉ
ra rằng, trung bình hàng năm, diện tích băng biển ở Bắc cực giảm khoảng 2,7%/thập
kỷ (từ 2,1-3,3%/thập kỷ), mức giảm lớn nhất trong mùa hè là 7,4%/thập kỷ (5,0-
9,8%/thập kỷ). Độ che phủ băng và tuyết ở vùng núi nhìn chung giảm ở cả hai bán
cầu.
Từ năm 1900 đến 2005, lượng mưa tăng đáng kể ở các khu vực phía đông của Bắc
và Nam Mỹ, Bắc Âu, Bắc và Trung Á, nhưng giảm ở Sahel, Địa Trung Hải, Nam Phi
và các khu vực Nam Á. Tổng diện tích bị ảnh hưởng bởi hạn hán đã tăng lên từ những
năm 1970.
Rõ ràng là trong hơn 50 năm qua: số ngày lạnh, đêm lạnh và sương giá ít hơn ở hầu
hết các khu vực đất liền và tăng số ngày nóng, đêm nóng. Các đợt sóng nhiệt trở nên
thường xuyên hơn ở hầu hết các khu vực đất liền, tần suất của các hiện tượng như mưa
lớn tăng ở hầu hết các khu vực và kể từ năm 1975 phạm vi ảnh hưởng của mực nước
biển cao tăng trên toàn thế giới.
Bão nhiệt đới gia tăng, xuất hiện với cường độ mạnh ở Bắc Đại Tây Dương từ
khoảng năm 1970 và không thấy tăng lên ở những nơi khác. Cũng không có xu thế rõ
ràng về số lượng các cơn bão nhiệt đới hàng năm. Khó có thể xác định được xu hướng
lâu dài về hoạt động của bão, đặc biệt trước năm 1970.
Nhiệt độ trung bình của Bắc bán cầu trong nửa sau của thế kỷ 20 cao hơn bất kỳ
giai đoạn 50 năm nào trong 500 năm gần đây và có thể cao nhất trong ít nhất 1300
năm qua. Bằng chứng quan sát được từ tất cả các châu lục và hầu hết các đại dương
chỉ ra rằng, nhiều hệ thống tự nhiên đang bị ảnh hưởng bởi những biến đổi khí hậu khu
vực, đặc biệt là nhiệt độ tăng.
Những biến đổi về tuyết, băng và các vùng đất đóng băng, kích thước các hồ băng
và sự bất ổn ở các vùng núi và vùng đóng băng khác dẫn đến những thay đổi ở một số
hệ sinh thái ở Nam Cực và Bắc Cực.
Một số hệ sinh thái dưới nước cũng bị ảnh hưởng do tăng lưu lượng nước, ảnh
hưởng đến cấu trúc nhiệt và chất lượng nước sông hồ. Với các hệ sinh thái trên cạn,
mùa xuân đến sớm hơn, xu thế dịch chuyển lên các cực và dịch chuyển lên cao đối với
một số hệ động vật, thực vật có liên quan đến hiện tượng nóng lên gần đây. Còn với
các hệ sinh thái biển và nước ngọt, những thay đổi về hệ động vật, thực vật và sự
phong phú của tảo, sinh vật phù du và cá liên quan đến sự gia tăng nhiệt độ của nước,
cũng như liên quan đến những thay đổi về độ che phủ của băng, độ mặn, hàm lượng
ôxy và sự lưu thông của nước.
7Có thể tóm lược những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các khu vực trên thế
giới như sau:
Châu Phi - Vào năm 2020, khoảng từ 75 - 250 triệu người sẽ phải chịu áp lực lớn
về nước do biến đổi khí hậu.- Vào năm 2020, ở một số nước, sản lượng nông nghiệp dựa vào nước
mưa có thể giảm tới 50%. Sản xuất nông nghiệp tại nhiều nước châu
Phi sẽ bị thiệt hại nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu hơn tới an ninh
lương thực và tăng tình trạng suy dinh dưỡng.- Đến cuối thế kỷ 21, mực nước biển dâng sẽ gây ảnh hưởng tới các
vùng trũng ven biển, đông dân cư. Chi phí thích ứng có thể chiếm ít
nhất từ 5%-10% tổng sản phẩm quốc nội (GDP).- Năm 2080, diện tích đất khô cằn và bán khô cằn ở châu Phi sẽ tăng từ
5%-8% theo các kịch bản khí hậu.
Châu Á - Đến những năm 2050, lượng nước ngọt có thể sử dụng được ở Trung
Á, Nam Á, Đông Á và Đông Nam Á, đặc biệt tại các lưu vực sông lớn
sẽ giảm.- Vùng ven biển, nhất là các vùng châu thổ rộng lớn đông dân ở Nam Á,
Đông Á và Đông Nam Á sẽ chịu rủi ro nhiều nhất, do lũ từ sông, biển.- Biến đổi khí hậu kết hợp đô thị hoá, công nghiệp hoá và phát triển kinh
tế nhanh chóng gây áp lực tới tài nguyên thiên nhiên và môi trường.- Sự hoành hành của dịch bệnh và tỷ lệ tử vong do tiêu chảy, chủ yếu
liên quan đến lũ lụt và hạn hán sẽ gia tăng ở Đông Á, Nam Á và Đông
Nam Á do những thay đổi trong chu trình thuỷ văn.
Ôxtrâylia
và New
Zealand
- Vào năm 2020, suy giảm đa dạng sinh học ở mức cao sẽ diễn ra tại một
số điểm giàu đa dạng sinh học, gồm có Rạn san hô Great Barrier và
các vùng nhiệt đới ẩm ướt ở Queensland, Ôxtrâylia.- Đến 2030, các vấn đề về an ninh nguồn nước sẽ trầm trọng hơn ở miền
nam và đông Ôxtrâylia, tại miền Bắc và một số vùng Đông New
Zealand .- Vào năm 2030, sản xuất nông, lâm nghiệp sẽ giảm ở hầu hết miền
đông nam Ôxtrâylia và các vùng miền đông New Zealand do hạn hán
và cháy rừng xảy ra nhiều hơn. Tuy nhiên, một số vùng khác ở New
Zealand sẽ được hưởng những lợi ích ban đầu.- Vào năm 2050, phát triển ven biển và tăng dân số ở một số khu vực
thuộc Ôxtrâylia và New Zealand sẽ làm tăng nguy cơ mực nước biển
dâng, tăng tần suất và cường độ của bão, lũ ven biển.
Châu Âu - Biến đổi khí hậu sẽ làm tăng sự khác biệt giữa các khu vực. Các tác
động tiêu cực bao gồm tăng nguy cơ xảy ra lũ quét trong nội địa, lũ lụt
ven biển thường xuyên hơn và xói mòn mạnh hơn (do bão lớn và mực
nước biển dâng cao).- Các vùng n