Chi Dầu mè (danh pháp khoa học: Jatropha) là một chi của khoảng 175 loài cây thân mọng, cây bụi hay cây thân gỗ(một sốcó lá sớm rụng, nhưdầu mè (Jatropha curcasL.)). Các loài trong chi Jatrophacó nguồn gốc từTrung Mỹ, và đã được du nhập vào nhiều khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới khác, như Ấn Độ, châu Phi, Bắc Mỹ,. Xuất phát từkhu vực Caribe, chúng được các thương nhân Bồ Đào Nha đưa vào châu Phi và châu Á nhưlà các loài thực vật có giá trịlàm hàng rào. Các cây trưởng thành mang các cụm hoa đực và cái khá đẹp mắt đồng thời chúng lại không mọc quá cao.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 24 trang
24 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2723 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổng quan các đặc điểm của cây cọc rào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổng quan tài liệu 
Trang 4 
Chương 1: TỔNG QUAN 
 1.1. Sơ lược về các đặc điểm của cây Cọc rào 
1.1.1. Phân loại khoa học 
Giới: Plantae 
Ngành: Magnoliophyta 
Lớp: Magnoliopsida 
Bộ: Malpighiales 
Họ: Euphorbiaceae 
Phân họ: Crotonoideae 
Tông: Jatropheae 
Chi: Jatropha 
Loài: Jatropha curcas L. 
1.1.2. Nguồn gốc và phân bố 
Chi Dầu mè (danh pháp khoa học: Jatropha) là một chi của khoảng 175 loài 
cây thân mọng, cây bụi hay cây thân gỗ (một số có lá sớm rụng, như dầu mè (Jatropha 
curcas L.)). Các loài trong chi Jatropha có nguồn gốc từ Trung Mỹ, và đã được du 
nhập vào nhiều khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới khác, như Ấn Độ, châu Phi, Bắc 
Mỹ,... Xuất phát từ khu vực Caribe, chúng được các thương nhân Bồ Đào Nha đưa vào 
châu Phi và châu Á như là các loài thực vật có giá trị làm hàng rào. Các cây trưởng 
thành mang các cụm hoa đực và cái khá đẹp mắt đồng thời chúng lại không mọc quá 
cao. 
Cây Jatropha curcas L., thuộc chi Jatropha, họ Thầu dầu. Chi Jatropha có 
nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, ghép từ hai chữ Iatrós (bác sĩ) và trophé (thức ăn), ám chỉ 
công dụng làm thuốc của cây này. Curcas là tên gọi thông thường của cây Physic nut ở 
Malabar, Ấn Độ. Tên thông dụng ở các nước hiện nay là Jatropha, ở Việt Nam gọi là 
cây Cọc giậu, Cọc rào, Cây li, Ba đậu nam, Dầu mè,… (Nguyễn Công Tạn, 2008). 
Loài JCL dại phân bố nhiều ở vùng thung lũng á nhiệt đới khô nóng và vùng 
rừng mưa nhiệt đới ẩm, thường ở vùng đồi núi, đất dốc thung lũng có độ cao 700-1600 
m so với mực nước biển. 
Tổng quan tài liệu 
Trang 5 
JCL là một loài cây có lịch sử 70 triệu năm, nguồn gốc từ Mexico (nơi duy nhất 
có hóa thạch của cây này) và Trung Mỹ, được người Bồ Đào Nha đưa qua Cape 
Verde, rồi lan truyền sang châu Phi, châu Á, sau đó được trồng ở nhiều nước, trở thành 
cây bản địa ở khắp các nước nhiệt đới, cận nhiệt đới trên toàn thế giới (Nguyễn Công 
Tạn, 2008). 
1.1.3. Đặc điểm hình thái – Đặc tính sinh học 
 a b 
 c d 
Ảnh 1.1: Cây Cọc rào (a) và một số bộ phận chính của cây 
(b – hoa; c – quả; d – hạt) 
Tổng quan tài liệu 
Trang 6 
Hình 1.1: Hình thái cây Jatropha curcas L. 
a - cành đang ra hoa; b - vỏ cây; c - gân lá; d - hoa có nhuỵ; e - hoa có nhị; 
f - mặt cắt ngang của quả xanh; g - quả; h - mặt cắt dọc của quả 
(Hình a, c và f từ Aponte năm 1978; Hình d và e từ Dehgan năm 1984) 
(Nguyễn Công Tạn, 2008) 
JCL là cây gỗ nhỏ, có thể cao đến 5 m. Cành xòe, có nhựa mủ, trên cành có 
những vết sẹo. Thân, vỏ, lá có nhựa nhớt, không màu. Lá mọc so le, hình trái xoan, hơi 
tròn, chia 5-7 thùy nông với chiều dài và rộng khỏang 6-15cm. Phiến lá dạng giấy lụa 
(Nguyễn Công Tạn, 2008). Cụm hoa tận cùng có màu vàng. Hoa đơn tính, cùng gốc, 
đôi khi có hoa lưỡng tính. Bộ nhị 10, xếp thành hai vòng riêng biệt, mỗi vòng 5, tạo 
thành cột đơn gần nhau. Bộ nhụy có 3 vòi nhụy, dính với nhau ở khỏang 2/3 chiều dài, 
phần trên rời nhau và núm nhụy rẽ đôi (Dehgan và Webster, 1979). Quả non hình 
trứng, lúc chín màu vàng, sau nâu xám, chứa hạt màu đen. Thông thường, có 5 rễ được 
tạo ra khi hạt nảy mầm, một rễ chính và 4 rễ phụ. Nếu trồng bằng phương pháp thông 
thường thì cây không có rễ cái (Nguyễn Công Tạn, 2008). 
Cây JCL ưa ánh sáng, ưa khí hậu ấm áp, chịu khô hạn, có thể sống trong môi 
trường có lượng mưa trung bình năm 520-2000 mm, nhiệt độ bình quân năm 11-28oC. 
Cây chịu được đất xấu, đất sỏi, đất đá vôi bạc màu... Cây JCL nảy chồi rất dễ, có thể 
Tổng quan tài liệu 
Trang 7 
giâm hom, nếu trồng bằng hạt, cây có rễ chính và rễ ngang, nếu giâm hom thì không 
có rễ chính. 
Nói chung, sau khi trồng 3 năm, cây cao 3 m. Với cây thực sinh, sau trồng 3-4 
năm thì kết trái. Thời gian ra quả bình thường là 6-20 năm, ít thấy hiện tượng ra quả 
cách năm. Ra hoa từ tháng 3 đến giữa tháng 4, thời gian ra hoa kéo dài 4-5 tháng, chín 
vào tháng 8-9, quả khó rụng. 
1.1.4. Các ưu điểm sinh học và giá trị của cây Cọc rào 
JCL là lòai cây mà hiện nay được các nhà khoa học đánh giá rất cao vì các ưu 
điểm sinh học và giá trị của cây. 
Ý nghĩa về mặt kinh tế, xã hội 
Phát hiện quan trọng nhất từ JCL là lấy hạt làm nguyên liệu sản xuất dầu diesel 
sinh học (biodiesel). 
Cây JCL có chu kỳ sống lâu có thể lên đến 50 năm, cho quả, hạt sớm, hàng năm 
năng suất có thể đạt đến 10 – 12 tấn/ha nếu trồng trên đất tốt và đầu tư cao (chăm sóc, 
bón phân, tưới tiêu,...), hàm lượng dầu trong hạt cao trung bình 32 – 35%. Đây là 
nguồn nguyên liệu dầu diesel sinh học rất tiềm năng để dần thay thế các tài nguyên 
nhiên liệu hóa thạch đang ngày càng bị cạn kiệt. 
Từ hạt JCL ép ra dầu thô, từ dầu thô tinh luyện được diesel sinh học và 
glycerin. Mặc dù diesel sinh học được sản xuất từ nhiều loại nguyên liệu: cải dầu, 
hướng dương, dầu cọ, mỡ động vật,… nhưng sản xuất từ JCL có giá thành rẻ nhất và 
chất lượng tốt tương đương với dầu diesel hóa thạch truyền thống. 
Nếu 1 ha JCL đạt năng suất 8 – 10 tấn hạt/ha/năm có thể sản xuất được 3 tấn 
diesel sinh học. Loại dầu này sẽ thay thế được một phần dầu diesel truyền thống đang 
cạn kiệt, giảm thiểu được lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, là loại dầu cháy hết và 
có ít lưu huỳnh, là loại dầu sạch, thân thiện với môi trường. 
Thị trường tiêu thụ sản phẩm diesel sinh học từ JCL được coi là vô hạn. Nhà 
khoa học Đức Klause Becker còn cho rằng ”JCL là cây trồng đầu tiên mà người dân 
làm ra không sợ không có đầu ra”. Đó là ưu thế nổi trội hàng đầu của sản xuất JCL khi 
cây này có vị thế là cây sản xuất hàng hóa lớn. 
Là cây lâu năm nhưng ngay trong năm trồng đầu tiên đã thu hoạch được sản 
phẩm là hạt. 
Tổng quan tài liệu 
Trang 8 
Hạt JCL sau khi ép dầu, hơn 30% là sản phẩm dầu, gần 70% là khô dầu, có hàm 
lượng protein khoảng 30%, dùng làm phân hữu cơ rất tốt, nếu khử hết độc tố có thể 
làm thức ăn gia súc cao đạm. 
JCL còn tạo ra hiệu ứng xã hội rất lớn. Do trồng ở các vùng miền núi nghèo, 
cây JCL sẽ tạo nhiều việc làm và thu nhập khả quan cho đồng bào các dân tộc; trong 
khi cho đến nay, trên đất dốc còn lại của các vùng này vẫn chưa tìm kiếm được bất cứ 
cây gì khả dĩ trồng được trên diện tích lớn, có thu nhập cao, lại có thị trường ổn định 
(Nguyễn Công Tạn, 2007). 
Ý nghĩa về mặt bảo vệ môi trường 
JCL là cây lâu năm, phủ đất rất tốt, tuổi thọ 50 năm, sinh trưởng phát triển được 
ở hầu hết các loại đất xấu, nghèo kiệt, đất dốc, đất trơ sỏi đá, gia súc không ăn. Vì vậy, 
cây JCL trồng trên các vùng đất dốc sẽ được coi là cây “lấp đầy” lỗ hổng sinh thái ở 
các vùng sinh thái xung yếu miền núi, sớm tạo ra thảm thực bì dày đặc chống xói mòn, 
chống cháy, nâng cao độ phì của đất. Không những vậy, JCL còn có thể trồng ở những 
vùng đất sa mạc hóa, bãi thải khai thác khoáng sản, góp phần phục hồi hệ sinh thái các 
vùng này. Vì vậy, cây JCL được đánh giá là “vệ sĩ sinh thái”, tạo ra hiệu ứng to lớn về 
bảo vệ môi trường. 
Cây JCL được coi là loài cây thân thiện với môi trường bởi các lý do sau đây: 
1) Chu kỳ sống dài (30 – 50 năm), khả năng cộng sinh với nấm rễ micorrhiza cao nên 
thích nghi sinh trưởng tốt trên những lập địa suy thoái, khô cằn và hoang hóa, do vậy 
cây có tác dụng cải tạo đất, cải tạo môi trường rất tốt; 2) Có thể thu hái quả hạt hàng 
năm, không phải đốn hạ cây, tạo ra thảm thực vật có độ che phủ ổn định, có khả năng 
hấp thụ CO2 lớn, vì vậy cây JCL cũng rất có ý nghĩa về bảo vệ môi trường không khí. 
Được sử dụng làm phân bón và thức ăn cho gia súc 
Sau khi ép dầu, bã khô dầu có hàm lượng N 4,14 – 4,78%, P2O5 0,50 – 0,66%, 
CaO 0,60 – 0,65%, MgO 0,17 – 0,21% được sử dụng làm phân hữu cơ rất tốt để bón 
cho các loại cây trồng, nhất là cho vùng sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp 
sạch, vừa góp phần sản xuất sản phẩm sạch, vừa nâng cao độ phì của đất. 
Trong chữa trị bệnh 
Trong thành phần cây JCL, đã phân tích được những hợp chất chủ yếu như 
tecpen, flavon, coumarin, lipid, sterol, alkaloid. Nhiều bộ phận của cây này có thể 
Tổng quan tài liệu 
Trang 9 
chữa bệnh như lá, vỏ cây, hạt và rễ. Rễ trị tiêu viêm, cầm máu, trị ngứa; dầu của hạt có 
thể nhuận tràng; dịch nhựa trắng tiết ra từ vết thương của cành có thể trị viêm lợi, làm 
lành vết thương, chữa trị bệnh trĩ và mụn cơm; nước sắc từ lá dùng để chữa bệnh 
phong thấp, đau răng,… 
Trong cây JCL có một số độc tố, nhất là phytotoxin (curcin) trong hạt, nếu được 
nghiên cứu sâu hơn rất có thể cung cấp cho chúng ta một loại dược liệu mới. 
1.2. Tình hình nghiên cứu, sử dụng, phát triển NLSH và biodiesel từ cây 
Cọc rào trên thế giới và Việt Nam 
1.2.1. Thế giới 
Tháng 6/2003, Hội nghị thượng đỉnh EU về năng lượng đã kêu gọi cộng đồng 
EU tăng cường sử dụng bio-fuels, đến năm 2005 chiếm 2-3%, năm 2010 tăng lên 
5,75% và năm 2020 là 20%. 
Tháng 8/2004, Hội nghị các nước Châu Á mở rộng tổ chức tại Băng Cốc Thái 
Lan đã ra tuyên bố 8 điểm về sự hợp tác chia sẻ kinh nghiệm cùng nhau phát triển 
NLSH dùng cho giao thông vận tải. 
Tại Hội nghị quốc tế về năng lượng do APEC tổ chức từ ngày 27-29/4/2005 tại 
Vancouver, Canada, NLSH (Biofuel) đã được chọn để sử dụng trong ngành năng 
lượng cũng như ngành giao thông vận tải của các nước APEC trong lộ trình sản xuất 
nhiên liệu thay thế dần cho xăng dầu khoáng. 
Việc nghiên cứu sử dụng NLSH giờ đã trở thành xu thế phát triển tất yếu ở 
nhiều quốc gia trên toàn cầu để thay thế dần xăng dầu khoáng trong các thập kỷ tới. 
Dự báo ở cuối thế kỷ 21, năng lượng tái tạo (mặt trời, gió, địa nhiệt, thuỷ điện nhỏ, 
nhiên liệu sinh học) sẽ chiếm trên 50% của năng lượng thương mại (Đặng Tùng, 
2007). 
Để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đảm bảo an ninh năng lượng lâu dài và phát 
triển bền vững, nhiều quốc gia trong vòng 2 - 3 thập kỷ qua đã tập trung nghiên cứu sử 
dụng NLSH (xăng/diesel pha ethanol và diesel sinh học), thay thế một phần xăng, dầu 
khoáng, tiến tới xây dựng ngành “xăng dầu sạch” ở quốc gia mình. Hiện có khoảng 50 
nước trên thế giới khai thác và sử dụng NLSH ở các mức độ khác nhau. Nhìn chung, 
các nước trên thế giới đi theo hai hướng phát triển NLSH: ethanol nhiên liệu, được sản 
Tổng quan tài liệu 
Trang 10 
xuất chủ yếu từ ngô (Mỹ), mía đường (Brazil), sắn (Thái Lan),... còn diesel sinh học 
sản xuất từ cải dầu, hướng dương (châu Âu), cọ dầu (Đông Nam Á), dầu mỡ phế thải, 
JCL, tảo,... 
Năm 2003 toàn thế giới đã sản xuất khoảng 38 tỷ lít ethanol thì đến năm 2005 
đã sản xuất được 50 tỷ lít ethanol (trong đó 75% dùng làm NLSH) và dự kiến đến 
2012 là khoảng 80 tỷ lít ethanol. Diesel sinh học nguồn gốc động thực vật được sản 
xuất năm 2005 đạt 4 triệu tấn và dự kiến đến năm 2010 sẽ tăng lên đến 20 triệu tấn. 
Tại châu Âu , nhiều công ty đã nghiên cứu sản xuất diesel sinh học từ dầu đậu 
nành, dầu hạt cải, dầu hướng dương. Các nước như Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, 
Áo, Đan Mạch đã đầu tư rất nhiều vào các chương trình NLSH. 
Giáo sư Klause Becker ở Đại học Stuttgart đã nhận đơn đặt hàng của Tập đoàn 
ôtô Daimler Chrysler của Đức nghiên cứu về cây JCL. Giáo sư cho biết, cách đây 15 
năm, ông là một trong những người đầu tiên ở châu Âu cùng với một hãng tư vấn của 
Áo đã tiến hành nghiên cứu cây JCL ở Nicaragoa. Loài cây này đã có cách đây 70 
triệu năm nhưng chẳng được ai quan tâm. Sau khi có dự án của Daimler Chrysler, đã 
dấy lên cơn sốt JCL trên toàn thế giới. 
Dầu diesel sinh học từ JCL đã được sử dụng vào các loại xe thông thường. Dự 
báo đến năm 2030, xe ôtô trên toàn thế giới từ 500 triệu chiếc hiện nay lên 900 triệu 
chiếc, trong đó Trung Quốc có tới 190 triệu chiếc. Diesel sinh học từ JCL là loại dầu 
cháy một cách sạch sẽ và sạch hơn bất kỳ một loại chất đốt diesel nào khác. Cây JCL 
trồng được trên đất bị thoái hóa, sau 10 – 15 năm, có thể tái sử dụng diện tích này để 
trồng các loại cây khác vì cây JCL đã chặn đứng được tình trạng rửa trôi. GS. Klause 
Becker còn cho rằng: “ Ai có thể nói lên được những cái xấu, cái bất lợi của cây JCL, 
tôi xin thưởng tiền cho người đó. Các vị có thể vặn vẹo đủ thứ, lật ngược, lật xuôi, 
nhưng quả thật các vị không thể bới móc được điều gì xấu liên quan đến loại cây này” 
(Nguyễn Công Tạn, 2007). 
Về hiệu quả giảm ô nhiễm môi trường, theo ông Boon thoong Ungtrakul, phụ 
trách dự án sản xuất dầu diesel sinh học tại Chieng Mai, Thái Lan cho biết, nếu sử 
dụng B100 (100% diesel sinh học), lượng khí thải giảm 50% so với diesel truyền 
thống, còn B20 (20% diesel sinh học + 80% diesel truyền thống), lượng khí thải giảm 
20%. 
Tổng quan tài liệu 
Trang 11 
Dầu diesel sinh học nói chung và dầu diesel sinh học từ hạt cây JCL nói riêng 
đã bắt đầu được sử dụng khá phổ biến ở các dạng B5, B10, B20, B30 và thậm chí 
B100 tại các nước như Đức, Anh, Tây Ban Nha, Mỹ, Ấn Độ, Brazil,… Đặc biệt Đức là 
nước đi đầu, dẫn đầu về thị phần sản xuất và sử dụng dầu diesel sinh học trên thế giới, 
chiếm 50%. Gần đây nhất tại Anh, tàu hỏa cao tốc đầu tiên trên thế giới chạy bằng 
diesel sinh học (B20) có tên Virgin Voyager đã được đưa vào hoạt động 
(thisisdorset.net. 2007). 
Hiệu quả kinh tế của cây JCL được đánh giá là khả quan. Ở Ấn Độ, trồng JCL 
trên vùng đất khô cằn, 1 cây cho 5 – 6 kg hạt, 1 ha trồng 2500 cây có thể đạt năng suất 
trên 10 tấn hạt/ha/năm. Với hàm lượng dầu của hạt 38%, thì 1 ha JCL có thể sản xuất 
được 4,5 tấn dầu/năm. Với giá bán hạt tính ra 2000 VND/kg thì giá trị thu được trên 1 
ha đạt 20 triệu VND/năm. Ở Trung Quốc, doanh nghiệp ký hợp đồng mua hạt JCL của 
nông dân với giá 1,6 NDT/kg, tức khoảng 3500 VND/kg. Như vậy, với năng suất 10 
tấn hạt/ha/năm thì 1 ha JCL đạt doanh thu tới 35 triệu VND/năm. 
Cây JCL trồng được trên mọi loại đất, kể cả vùng sa mạc nóng bỏng ở Ai Cập, 
JCL vẫn phát triển tốt. Ở các vùng đất dốc, đất nghèo kiệt, không trồng được các loại 
cây nông nghiệp khác, cây JCL vẫn phát triển tốt. Chu kỳ kinh tế của cây này là 30 – 
50 năm. Cây JCL còn cho sản phẩm phụ là phân hữu cơ, thức ăn chăn nuôi giàu đạm 
(sau khi khử độc), làm dược liệu, nuôi tằm lá sồi (Nguyễn Công Tạn, 2007). 
Các nước nhiệt đới, á nhiệt đới đang phát triển mạnh cây JCL. Thái Lan hiện có 
1600 ha JCL, dự kiến sẽ tăng lên 320 nghìn ha trong vài năm tới. Indonesia đặt mục 
tiêu đến năm 2010, nhiên liệu sinh học đáp ứng 20% nhu cầu năng lượng trong ngành 
điện và giao thông vận tải. Ở nước này, các loại đất màu mỡ đều dành để trồng cây Cọ 
dầu, còn cây JCL sẽ trồng trên các loại đất khô cằn nhưng mức đầu tư chỉ bằng 10% so 
với cây Cọ dầu. Nhà khoa học Robert Manurung, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu 
Công nghệ sinh học thuộc Viện Công nghệ Bandung cho biết, một số công ty nước 
ngoài đang xúc tiến dự án bao tiêu 1 triệu ha JCL với nông dân của 3 tỉnh Papua, 
Kalimantan và Nusa Tenggara. Mới đây, một công ty Hà Lan đã đặt mua 1 triệu tấn 
dầu JCL nguyên chất. Manurung và nhiều nhà nghiên cứu khác ở Indonesia dự báo 
rằng, JCL sẽ sớm soán ngôi cây Cọ dầu, trở thành nguồn năng lượng có khả năng thay 
thế nhiên liệu hóa thạch và dầu cọ, đồng thời có thể giúp nông dân nghèo ở các tỉnh 
Tổng quan tài liệu 
Trang 12 
miền đông quanh năm khô hạn có cơ hội làm giàu. Theo Ủy ban quốc gia về nghiên 
cứu phát triển NLSH từ cây JCL của Indonesia, Chính phủ nước này có kế hoạch dành 
ít nhất 5 triệu ha đồi trọc lập các đồn điền trồng JCL, mía đường và sắn để sản xuất các 
loại NLSH. 
Ấn Độ đã xác định JCL là cây cho hạt có dầu thích hợp nhất để sản xuất diesel 
sinh học. Từ năm 2001, nhiều bang ở Ấn Độ đã có chương trình khuyến khích trồng 
JCL trên quy mô lớn ở các vùng đất hoang hóa, được nhà nước hỗ trợ giống và các 
nguồn vật tư đầu vào nhằm tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển bền vững xã 
hội nông thôn Ấn Độ. Cơ quan kế hoạch của Chính phủ Ấn Độ đặt chỉ tiêu trồng 11 
triệu ha cây JCL vào năm 2012 để có đủ nguyên liệu sản xuất diesel sinh học phối trộn 
theo tỷ lệ 20%. Trong tương lai, Ấn Độ tiếp tục mở rộng trồng JCL trên phạm vi cả 
nước, đưa diện tích trồng trên 33 triệu ha, trong số hơn 133 triệu ha đất đang bị bỏ 
hoang. 
Myanma là nước phát triển trồng JCL với tốc độ nhanh. Đến 2006, diện tích 
trồng JCL ở Myanma đã đạt 800.000 ha. 
Trung Quốc là nước quan tâm phát triển mạnh JCL trong vài năm gần đây, chủ 
yếu là 7 tỉnh gồm Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Phúc Kiến, Quảng Tây, Quảng 
Đông và đảo Hải Nam; trong đó, ở khu tự trị Quảng Tây, đến cuối năm 2007 đã trồng 
được 15 nghìn ha, dự định đưa lên khoảng 10 vạn ha trong vài năm tới. Các tỉnh khác 
có điều kiện đã có kế hoạch trồng JCL trên quy mô lớn trong mấy năm tới. 
Theo ước tính của Giáo sư Klause Becker, cho đến nay, cả thế giới đã trồng 
được khoảng 5 triệu ha JCL. Hiện nay, có khoảng 1000 nhóm nghiên cứu về diesel 
sinh học và JCL. Cho đến thời điểm này, JCL vẫn là một cây dại, mới được đưa vào 
đối tượng cây trồng được khoảng trên 15 năm, cũng có thể coi JCL là cây nông nghiệp 
trẻ nhất trong lịch sử trồng cây nông nghiệp của loài người. 
1.2.2. Việt Nam 
Nhu cầu sử dụng năng lượng của Việt Nam ngày càng gia tăng nhanh chóng, 
tương thích với tốc độ phát triển kinh tế và sự phát triển dân số. Sản lượng năng lượng 
nước ta tiếp tục tăng cao. Năm 2005 đã tiêu thụ gần 27 triệu tấn dầu qui đổi, dự đoán 
tăng lên đến gần 37 triệu tấn vào năm 2010 và 51 triệu tấn vào năm 2020. Trong đó, 
ngành công nghiệp có tỷ lệ sử dụng năng lượng cao nhất chiếm 46%, vận tải chiếm 
Tổng quan tài liệu 
Trang 13 
35%, thương mại dịch vụ chiếm 12%, nông nghiệp chiếm 1% và các ngành khác 
chiếm 6%. 
Việt Nam là một nước được thiên nhiên ưu đãi, hội đủ các nguồn tài nguyên 
năng lượng. Tuy nhiên, khả năng khai thác, chế biến và sử dụng nguồn tài nguyên 
năng lượng còn hạn chế. Theo phân tích tình hình phát triển kinh tế và các nguồn cung 
cấp năng lượng, dự kiến trong thời gian tới (tính đến năm 2020) nước ta tiếp tục phải 
nhập khẩu các sản phẩm dầu mỏ, trong khi giá dầu luôn có áp lực rất lớn đến phát triển 
kinh tế (Thái Xuân Du, 2007). 
Để giải quyết vấn đề này, nhiều công trình nghiên cứu về sản xuất NLSH đã 
được tiến hành: sản xuất diesel từ đậu tương, vừng, dầu phế thải; sản xuất ethanol từ 
mía, ngô, lúa, sắn,...Việc nghiên cứu và sản xuất nhiên liệu sạch sử dụng cho giao 
thông vận tải đã được giao cho một số cơ quan như Petrolimex, Petro Việt Nam, Đại 
học kỹ thuật Đà Nẵng,... và đã có kết quả ứng dụng bước đầu đáng khích lệ. 
Trong năm 2007, đề tài “Nghiên cứu gây trồng phát triển cây Cọc rào (Jatropha 
curcas)” do Trung tâm Công nghệ sinh học Lâm nghiệp, Viện Khoa học Lâm nghiệp 
Việt Nam thực hiện (2007 – 2010) đã thu thập được 8 xuất xứ hạt JCL và tuyển chọn 
được 29 cây trội với các đặc tính vượt trội về sinh trưởng, năng suất hạt (2,8-5,0 
kg/năm) và hàm lượng dầu trong hạt (25 – 39%). 
Các vùng đã tiến hành khảo sát đánh giá là Đồng Nai, ĐăkLăk, Ninh Thuận, 
Bình Thuận và Phú Thọ. Các định hướng cho tiêu chuẩn lập địa, chọn đất gây trồng 
trước hết tập trung cho các vùng đất cằn cỗi, suy thoái, các vùng hoang hóa, đất cát 
khô hạn và thậm chí cả các vùng bãi thải ô nhiễm. Điều này sẽ đảm bảo là không cạnh 
tranh lấy mất đất canh tác nông nghiệp của dân, không ảnh hưởng tới vấn đề an toàn 
lương thực tại các vùng triển khai dự án. Ngược lại sẽ có tác động cải tạo môi trường 
đất đai, và mang lại nguồn thu nhập ổn định cho cộng đồng người nông dân thông qua 
việc gây trồng JCL. 
Với tập hợp 8 xuất xứ thu thập được và 29 cây trội tuyển chọn được trong năm 
2007, đề tài đã xây dựng thiết lập vườn tập hợp các giống, cây trội và tiến hành khảo 
nghiệm các xuất xứ tại Đại Lải, Ninh Thuận và Phú Thọ. 
Các cây trội tuyển chọn rất có tiềm năng về năng suất hạt (2,8-5,0 kg/năm) và 
hàm lượng dầu béo. Trung tâm đã ký văn bản thỏa thuận hợp tác với Công ty Green 
Tổng quan tài liệu 
Trang 14 
Energy Vietnam (GEV) nhằm khảo nghiệm và thử nghiệm cây trội và ứng dụng ngay 
các giống mới triển vọng nhất vào các dự án đầu tư sản xuất vùng nguyên liệu hàng 
nghìn ha tại Ninh Thuận, Bình Định, Quảng Nam, Thừa Thiên Huế và Quảng Trị. 
1.3. Sự phát sinh hình thái thực vật 
1.3.1. Định nghĩa 
Phát sinh hình thái thực vật là những phát triển của cơ thể thực vật: t