Hệ thống tài chính mà trung tâm là hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng
trong việc điều tiết nền kinh tế thông qua việc điều hòa cung cầu về nguồn tài chính
giữa các chủ thể phục vụ cho các hoạt động kinh tế. Hệ thống tài chính Việt Nam trải
qua thời gian dài hình thành, phát triển cùng với thay đổi của lịch sử đất nước, nhưng
chuyển biến rõ rệt từ thời điểm nền kinh tế chuyển đổi từ nên kinh tế tập trung bao cấp
sang cơ chế thị trường và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Bài viết trước hết
tóm lược những thông tin cơ bản nhất về quá trình phát triển của hệ thống tài chính
Việt Nam từ khi Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực năm 1991, mô tả một cách tổng quát
đặc điểm và thực trạng của hệ thống ngân hàng tài chính hiện nay, từ đó phân tích
những khó khăn và thách thức của các doanh nghiệp khi tiếp cận hệ thống ngân hàng
tài chính.
14 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 454 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng quan hệ thống ngân hàng tài chính Việt Nam và những khó khăn của các doanh nghiệp khi tiếp cận hệ thống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
177
TỔNG QUAN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
VIỆT NAM VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
KHI TIẾP CẬN HỆ THỐNG
PGS.TS. Tô Trung Thành
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
NCS. Hồ Hải Yến
Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam
Tóm tắt:
Hệ thống tài chính mà trung tâm là hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng
trong việc điều tiết nền kinh tế thông qua việc điều hòa cung cầu về nguồn tài chính
giữa các chủ thể phục vụ cho các hoạt động kinh tế. Hệ thống tài chính Việt Nam trải
qua thời gian dài hình thành, phát triển cùng với thay đổi của lịch sử đất nước, nhưng
chuyển biến rõ rệt từ thời điểm nền kinh tế chuyển đổi từ nên kinh tế tập trung bao cấp
sang cơ chế thị trường và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Bài viết trước hết
tóm lược những thông tin cơ bản nhất về quá trình phát triển của hệ thống tài chính
Việt Nam từ khi Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực năm 1991, mô tả một cách tổng quát
đặc điểm và thực trạng của hệ thống ngân hàng tài chính hiện nay, từ đó phân tích
những khó khăn và thách thức của các doanh nghiệp khi tiếp cận hệ thống ngân hàng
tài chính.
Từ khóa : Ngân hàng, Hệ thống tài chính, Rào cản, Doanh nghiệp, SME
1. Tổng quan hệ thống ngân hàng tài chính Việt Nam
1.1. Sơ lược một số mốc quan trọng trong lịch sự phát triển hệ thống tài
chính Việt Nam từ thời kỳ mở cửa 1990.
Năm 1990, Hai pháp lệnh ngân hàng đƣợc ban hành là Pháp lệnh NHNN
và Pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính, từ đó chuyển cơ chế
hoạt động của ngân hàng từ một cấp sang hai cấp với vai trò quản lý hoạt động
kinh doanh tiền tệ của NHNN. Pháp lệnh ngoại hối cũng cho phép các NH nƣớc
ngoài đƣợc thành lập VP đại điện, CN tại Việt Nam, các NHTMCP cũng bắt đầu
đƣợc thành lập.
Năm 1993, việc bình thƣờng hóa quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ
quốc tế IMF, WB, ADB tạo điều kiện cho nền kinh tế và hệ thống tài chính Việt
178
Nam có thể tiếp nhận nhiều sự trợ giúp tài chính, hỗ trợ kỹ thuật và tƣ vấn chính
sách của các tổ chức này.
Năm 1997, Luật NHNN VN và Luật các TCTD đƣợc thông qua, và có
hiệu lực thi hành từ năm 1998. Đây cũng là năm xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế
Châu Á, ảnh hƣởng tiêu cực đến hoạt động của nền kinh tế cũng nhƣ hệ thống tài
chính Việt Nam, nhiều ngân hàng TMCP bộc lộ những yếu kém đƣợc cơ cấu lại.
Để bảo vệ quyền lợi ngƣời gửi tiền, ngày 9/11/1999, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
ra đời với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của ngƣời gửi tiền; hỗ trợ các tổ chức
tín dụng gặp khó khăn; kiểm soát và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân
hàng. Đồng thời năm 2000, Chính phủ bắt đầu tiến hành tái cơ cấu hệ thống
NHTM Nhà nƣớc và các NHTM CP theo Đề án cơ cấu lại các NHTM NN giai
đoạn 2001 – 2010, Đề án chấn chỉnh, sắp xếp, củng cố hoạt động của các
NHTMCP để khắc phục những yếu kém, tập trung xây dựng các NHTMCP lớn
mạnh và Đề án xử lý nguồn nợ đọng của các NHTM để xử lý dứt điểm các khoản
nợ phát sinh trƣớc 31/12/2000. Năm 2000 cũng đánh dấu sự ra đời của Trung
tâm Giao dịch chứng khoán TP Hồ chí Minh, tiếp theo sau là sự ra đời của Trung
tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội năm 2005, tạo tiền đề cho sự phát triển của
TTCK Việt Nam.
Năm 2001, Hiệp định thƣơng mại Việt Nam – Hoa kỳ đƣợc ký kết, theo
đó Việt Nam cam kết mở cửa thị trƣờng tài chính ngân hàng cho các định chế tài
chính, doanh nghiệp Việt Nam và đến năm 2010 các tổ chức tài chính của Hoa
kỳ đƣợc đối xử bình đẳng nhƣ các tổ chức tài chính Việt Nam. Đây là sự kiện lớn
mở ra cơ hội cũng nhƣ thách thức cho việc hội nhập đối với các định chế tài
chính và Thị trƣờng tài chính Việt Nam.
Song song với việc cơ cấu ngân hàng và xu hƣớng hội nhập thị trƣờng tài
chính, thì tự do hóa lãi suất cũng đƣợc tiến hành từng bƣớc. Tháng 11 năm 2001,
trần lãi suất cho vay ngoại tệ đƣợc xóa bỏ, ngƣời vay ngoại tệ trong nƣớc có thể
thƣơng lƣợng lãi suất với các NH. Và tháng 6 năm 2002, lãi suất đƣợc tự do hóa
hoàn toàn với việc tự do hóa lãi suất cho vạy VND, các NH xác định lãi suất trên
cơ sở tự thẩm định và thƣơng lƣợng với khách hàng.
Năm 2004, Luật các TCTD đƣợc sửa đổi. Đến tháng 6 năm 2010, để phù
hợp với sự phát triển kinh tế và hệ thống tài chính, Luật NHNN Việt Nam và
Luật các TCTD mới đã đƣợc Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ
179
01/01/2011. Luật NHNN 2010 đã xác định rõ vai trò của NHNN trong việc thực
thi các chính sách tiền tệ và giám sát hoạt động của các NHTM. Trong khi đó,
Luật các TCTD chấm dứt hoạt động huy động vốn của các tổ chức phi ngân hàng
trong lĩnh vực chứng khoán hay dịch vụ đầu tƣ tài chính từ đầu năm 2011.
Năm 2012, Chính phủ phê duyệt Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD
giai đoạn 2011-2015 với các nội dung : (i) cơ cấu lại NHTM NN, (ii) chấn chỉnh,
sắp xếp các NHTMCP, các TCTD nƣớc ngoài, các công ty cho thuê tài chính,
Quỹ tín dụng(iii) củng cố đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng phù hợp với
thông lệ quốc tế, và (iv) phát triển hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng phù hợp
với chuẩn BASEL II. Tháng 7/2017, Chính phủ phê duyệt Đề án Cơ cấu lại hệ
thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 – 2020, tiếp tục mục tiêu
cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, đảm bảo an toàn hệ thống, đồng thời thực hiện
mục tiêu xử lý nợ xấu.
1.2. Đặc điểm hệ thống tài chính Việt Nam
Bốn thành tố chính của hệ thống tài chính Việt Nam hiện nay bao gồm:
1.2.1. Thị trường Tài chính và các công cụ tài chính
Nguồn : Chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright
180
Nếu nhƣ ở các quốc gia khác, các thị trƣờng tài chính phát triển tƣơng đối
đồng đều thì tại Việt Nam, thị trƣờng vay nợ ngân hàng là phổ biến nhất, ngân
hàng đóng vai trò chính trong việc huy động và phân bổ vốn (gồm cả ngắn hạn,
trung hạn hay dài hạn), các thị trƣờng khác quy mô nhỏ hơn nhiều. Thị trƣờng tín
dụng ngân hàng tăng trƣởng mạnh thể hiện ở tỷ lệ dƣ nợ tín dụng NH/GDP từ
năm 2015 luôn xấp xỉ trên 100%. Thị trƣờng trái phiếu đang phát triển chủ yếu là
trái phiếu CP với tỷ trọng dƣ nợ xấp xỉ 70%. Trong khi đó thị trƣờng CK phát
triển khá nhanh với tỷ lệ vốn hóa tăng 6 lần trong 11 năm (2006 - 2016) tuy
nhiên thiếu ổn định, dễ bị tác động tiêu cực bới các biến động kinh tế trong và
ngoài nƣớc.
Các công cụ tài chính đƣợc sử dụng tại thị trƣờng tài chính Việt Nam mặc
dù cơ bản đã hình thành nhƣng lại có sự phát triển mất cân bằng, nhiều công cụ
tài chính chƣa đƣợc sử dụng hoặc khối lƣợng hạn chế (nhất là công cụ tài chính
phái sinh, chƣa có HĐ swap lãi suất, chƣa có HĐ tƣơng lai). Chiếm tỷ trọng chủ
yếu vẫn là các khoản vay của các TCTD. Phổ biến tiếp theo là cổ phiếu với sự
phát triển của TTCK, đây là công cụ huy động vốn của công ty phổ biến hơn Trái
phiếu công ty. Trong khi đó, trái phiếu CP, trái phiếu kho bạc, trái phiếu đô thị là
những công cụ huy động vốn dài hạn quan trọng của chi tiêu ngân sách.
181
1.2.2. Các tổ chức tài chính
Nguồn : Chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright
182
Tổng tài sản của các ĐCTC đến cuối năm 2017 xấp xỉ 200% GDP, tăng
17% so với năm 2016. Tỷ trọng tài sản của các TCTD là 95,9%, các Công ty bảo
hiểm chiếm 3%, trong khi các CTCK và các công ty quản lý quỹ chỉ chiếm 1,1%.
(1) Các Tổ chức tín dụng
Đến thời điểm cuối năm 2016, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) bao
gồm 04 NHTMNN, 03 ngân hàng đƣợc Ngân hàng Nhà nƣớc mua lại, 28
NHTMCP, 02 NHCS; 26 tổ chức tín dụng phi ngân hàng (bao gồm 15 Công ty
tài chính và 11 công ty cho thuê tài chính), 01 NH HTX và 1.147 Quỹ Tín dụng
nhân dân; 03 tổ chức tài chính vi mô; 03 ngân hàng liên doanh, 05 ngân hàng
100% vốn nƣớc ngoài và hơn 50 chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài (Theo Báo
cáo thường niên của NHNN 2016). Mặc dù chỉ có 4 NHTM NN nhƣng những
NH này lại chiếm 47,3% tổng tài sản của toàn hệ thống, lớn hơn tổng tài sản của
các NHTMCP với 40% tổng tài sản toàn hệ thống. Các Công ty tài chính và các
công ty cho thuê tài chính có quy mô tài sản khá nhỏ, các công ty tài chính chủ
yếu thuộc các tổng công ty lớn để phụ trách việc dàn xếp tài chính của TCT trong
khi các công ty cho thuê tài chính đều thuộc các NHTM, hoạt động còn hạn chế,
chủ yếu tài sản do NH mẹ thuê lại. Các quỹ tín dụng nhân dân mặc dù chiếm số
lƣợng khá nhiều nhƣng quy mô tƣơng đối nhỏ, tính tới hết tháng năm 2017, huy
động trên 82.000 tỷ đồng và cho vay khoảng 76.000 tỷ đồng; cung cấp tín dụng
cho khoảng 8 - 9 triệu ngƣời, chủ yếu hoạt động ở địa bàn nông thôn.
(2) Công ty chứng khoản và các tổ chức tham gia Thị trường chứng khoán
Hiện tại trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam, có 91 Công ty chứng
khoán, 47 Công ty quản lý quỹ, 22 VPĐD tổ chức kinh doanh chứng khoán nƣớc
ngoài, 12 ngân hàng lƣu ký chứng khoán, 1 ngân hàng chỉ định thanh toán, 26
Quỹ đầu tƣ chứng khoán đang hoạt động.
1.2.3. Cơ sở hạ tầng tài chính
(1) Hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước
Hệ thống pháp luật tƣơng đối đầy đủ với Luật NSNN, Luật NHNN, Luật
các TCTD, Luật Kinh doanh Bảo hiểm, Luật Chứng khoán Tuy nhiên, việc
vấn đề quản lý nhà nƣớc vẫn còn nhiều hạn chế : Sau giai đoạn triển khai Đề án
Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015, một trong những bất cập
chính là thiếu cơ chế, chính sách xử lý các TCTD hoạt động yếu kém, nếu áp
dụng các khuôn khổ pháp lý hiện tại thì nhiều TCTD không thể phục hồi đƣợc.
Luật TCTD hiện hành cần bổ sung các nội dung liên quan đến tái cơ cấu các
183
TCTD yếu kém, phƣơng án phục hồi, phƣơng án cơ cấu lại, vấn đề sở hữu
chéo Ngày 20/11/2017, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật TCTD cùng với Nghị quyết 42 của Quốc hội về việc xử lý nợ xấu
đã mở hành láng pháp lý cho việc xử lý các TCTD yếu kém.
(2) Nguồn lực và hệ thống giám sát, thực thi
Nguồn lực và hệ thống giám sát còn nhiều hạn chế. Các cơ quan giám sát
(NHNN, UBCKNN và Giám sát Bảo hiểm) vừa thực hiện chứcc năng cấp phép,
ban hành cơ chế - chính sách, vừa thực hiện chức năng hƣớng dẫn, triển khai
thực hiện cơ chê chính sách và kiêm luôn vai trò kiểm tra, thanh tra, giám sát
hoạt động của các ĐCTC. Điều này dễ dẫn tới xung đột về lợi ích và hiệu quả
giám sát không cao.
Mặc dù vậy, các cơ quan giám sát đang chủ động khắc phục những tồn tại
của bản thân với mục tiêu hệ thống tài chính lành mạnh và hội nhập quốc tế, đặc
biệt là trong hệ thống ngân hàng. Với vai trò là cơ quan giám sát hoạt động của
các TCTD, NHNN đã ban hành Thông tƣ số 08/2017/TT-NHNN ngày 01/8/2017
quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng; ban hành Thông tƣ số
41/2016/TT-NHNN ngày 31/12/2016, là văn bản theo sát nội dung hƣớng dẫn
trong BASEL II nhất, nhằm hoàn thiện các quy định về quản trị rủi ro trong hoạt
động ngân hàng; xếp hạng các tổ chức tín dụng; các quy định về tỷ lệ an toàn
trong hoạt động ngân hàng. NHNN cũng đang tiến tới xây dựng một mô hình
cảnh báo sớm đối với những rủi ro hệ thống tiềm ẩn của hệ thống NH. Tuy nhiên,
việc giám sát tài chính cần đƣợc thực hiện bởi cơ quan có thẩm quyền cao hơn và
bằng những công cụ giám sát vĩ mô hiệu quả hơn mới có thể phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan quản lý giám sát bộ phận của hệ thống tài chính.
(3) Cung cấp thông tin
Trung tâm thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam (CIC) của NHNN hiện
đang đảm nhận nhiệm vụ lƣu trữ và cung cấp thông tin về xếp hạng tín dụng của
các tổ chức kinh tế. Cuối năm 2017, cùng với việc hoàn tất Dự án hiện đại hóa
ngân hàng và hệ thống thanh toán của NHNN bằng vốn tài trợ của WB, Trung
tâm thông tin tín dụng quốc gia CIC đã đƣợc xây dựng một cơ sở hạ tầng CNTT
tiên tiến, từ đó tạo lập một kho dữ liệu tập trung, thống nhất về khách hàng vay
của các tổ chức tín dụng (TCTD) trên toàn quốc; có thể mở rộng và tích hợp
đƣợc thông tin đa dạng từ nhiều nguồn khác nhau; phát triển các sản phẩm và
dịch vụ để tăng cƣờng nhằm hỗ trợ hoạt động giám sát của NHNN và hoạt động
kinh doanh của NHTM.
184
(4) Hệ thống thanh toán và hỗ trợ giao dịch
Dự án hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán của NHNN dƣới sự
hỗ trợ của WB kéo dài 9 năm với số vốn 72 triệu USD hoàn thành tháng 9/2017
cũng đã tạo điều kiện cho việc triển khai hệ thống thanh toán liên ngân hàng
nhanh chóng, thuận tiện. Trƣớc đó, thủ tƣớng Chính Phủ đã ký quyết định
291/2006/QĐ-TTg ngày 29/12/2006 phê duyệt Đề án thanh toán không dùng tiền
mặt giai đoạn 2006-2010 và định hƣớng đến năm 2020, theo đó NHNN chủ trì
xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ cho các giao dịch bán lẻ, trung tâm chuyển
mạch thẻ thống nhất và kết nối hệ thống thanh toán bù trừ và quyết toán chứng
khoán với hệ thống thanh toán liên ngân hàng quốc gia. Việc xây dựng một trung
tâm thanh toán bù trừ (ACH) tại Việt Nam đã đƣợc triển khai với Công ty cổ
phần Thanh toán Quốc gia Việt Nam (NAPAS) vào tháng 2/2016. NHNN cũng
hƣớng đến xây dựng đề án bổ sung chức năng thanh toán ngoại tệ cho hệ thống
thanh toán liên ngân hàng, cũng nhƣ phối hợp với Bộ Tài chính để chuyển việc
thanh toán chứng khoán, thanh toán trái phiếu sang hệ thống thanh toán liên ngân
hàng, nhằm xử lý tập trung toàn bộ giao dịch thanh toán trên một hệ thống để
quản lý tập trung dòng lƣu chuyển tiền tệ.
1.3. Vài nét về thực trạng các TCTD Việt Nam
Sau giai đoạn tái cơ cấu theo Đề án tái cơ cấu hệ thống các TCTD giai
đoạn 2010- 2016, hệ thống đã có sự tăng trƣởng về quy mô. Tổng tài sản toàn hệ
thống đạt 10 triệu tỷ đồng, tăng 17,7% so với năm 2016, cũng là tốc độ tăng
trƣởng tài sản lớn nhất từ năm 2010.
Hình 1 : Tổng tài sản toàn hệ thống
Nguồn : NHNN
185
Tăng trƣởng tín dụng đạt 18,7%, đặc biệt là tăng trƣởng tín dụng tiêu dùng
đạt khoảng 50-60%. Trong khi đó thanh khoản toàn hệ thống tƣơng đối ổn định,
tỷ lệ tín dụng/huy động (LDR) trung bình 87,57% (LDR của các NHTM NN là
93,7%) và tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn giảm nhẹ (chiếm khoảng
31%). Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dƣ nợ trung bình năm là 2,34%. Tính đến cuối quý
II năm 2018, theo Nghị quyết 42 của NHNN, các TCTD đã xử lý hơn 138,000 tỷ
đồ trong đó có 50,8% là nợ xấu nội bảng, 15,6% là hạch toán theo dõi ngoại
bảng, và xử lý 46,500 tỷ đồng các khoản nợ đã bán cho VAMC đƣợc thanh toán
bằng trái phiếu đặc biệt. Đây cũng là tiền đề quan trọng cho việc triển khai Đề án
Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 – 2020.
Tính đến cuối tháng 8 đã có 6 ngân hàng hoàn tất mua lại trái phiếu của VAMC
bao gồm Vietcombank, Vietinbank, Techcombank, MB Bank, VIB, ACB. Các
ngân hàng này sẽ không phải trích lập dự phòng 20% cho trái phiếu VAMC nữa
mà tự trích lập dự phòng với tỷ lệ thấp hơn, từ đó ảnh hƣởng tích cực đến lợi
nhuận 6 tháng cuối năm.
Hình 2 : Tăng trƣởng tín dụng và tỷ lệ nợ xấu NPL
Nguồn : NHNN
Tăng trƣởng lợi nhuận của các NH trong 6 tháng đầu năm 2018 tƣơng đối
tốt với mức tăng trƣởng cao nhất so với cùng kỳ năm 2017 là 201% (ngân hàng
VIB) và mức thấp nhất là -28 (ngân hàng LienVietPost Bank).
186
Hình 3 : Tăng trƣởng lợi nhuận 6T/2008 so với 2017
Việc tăng trƣởng lợi nhuận vƣợt bậc so với cùng kỳ năm 2017 là do các
ngân hàng tăng trƣởng tín dụng mạnh, tăng thu nhập ngoài lãi với mức tăng trung
bình 45% chủ yếu đến từ các thu nhập dịch vụ, đầu tƣ chứng khoán, kinh doanh
ngoại hối, mức tăng chi phí thấp hơn so với tăng trƣởng thu nhập, và giảm chi
phí trích lập dự phòng rủi ro.
2. Những khó khăn của các doanh nghiệp khi tiếp cận hệ thống ngân
hàng tài chính
Trong số hơn 500,000 doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay thì có 97% là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó có 85-90% là những doanh nghiệp nhỏ và
siêu nhỏ, DN khởi nghiệp nhƣng DNNVV lại có thể coi là trụ cột của nền kinh tế
khi đóng góp tới hơn 40% GDP và sử dụng tới 51% lao động xã hội.
Những doanh nghiệp này thƣờng khó đảm bảo các yêu cầu cấp tín dụng
của các NHTM (TSBĐ không đủ điều kiện, hệ thống kế toán tài chính và thông
tin chƣa đầy đủ và minh bạch), cũng không có quan hệ tín dụng lâu dài với các
NH, khiến cho việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng gặp nhiều rào cản, khó khăn,
buộc các DN phải tìm kiếm các nguồn tín dụng phi chính thức. Kết quả phân tích
dữ liệu điều tra của Ngân hàng Thế giới cho thấy, có 24,7% DN Việt Nam năm
2015 coi tiếp cận tín dụng là trở ngại lớn nhất khiến DN khó phát triển.
187
2.1. Rào cản từ thể chế tài chính
Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 cùng với Đề
án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 – 2020
một mặt có tác động tích cực trong việc làm lành mạnh hóa hệ thống tài chính
nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng, nhƣng mặt khác cũng tạo những áp
lực cho các NH trong việc quản trị rủi ro, duy trì tỷ lệ an toàn vốn, đảm bảo an
toàn hoạt động kinh doanh, giảm thiểu nợ xấu, khiến các NH đôi khi phải đánh
đổi giữa tăng trƣởng với an toàn hoặc chuyển hƣớng hoạt động ngoài lĩnh vực tín
dụng truyền thống. Thông tƣ số 41/2016/TT-NHNN cho phép các NHTM có một
lộ trình thực hiện đến năm 2020 để nâng tỷ lệ duy trì an toàn vốn. Trong bối cảnh
mà việc tăng vốn điều lệ và cấp 2 đang khó khăn với nhiều NHTM thì giải pháp
trƣớc mắt là phải đảm bảo hoặc tăng mức lợi nhuận trong khi có thể phải đảnh
đổi hạn chế tín dụng để đảm bảo tỷ lệ vốn, các NHTM nên chuyển sang các
mảng dịch vụ thu phí, các mảng dịch vụ này chủ yếu liên quan đến rủi ro hoạt
động và phần vồn duy trì sẽ ít hơn so với phần vốn đảm bảo cho rủi ro tín dụng.
Với yêu cầu xử lý nợ xấu cúng khiến các NHTM chặt chẽ hơn trong việc thẩm
định và cấp tín dụng, và ví thế nhiều DN nhất là DN SME sẽ khó đạt đƣợc yêu
cầu tín dụng của NH hơn.
Nhìn chung vai trò cung ứng vốn cho cả nền kinh tế đang tập trung hết
vào hệ thống ngân hàng đã khiến cho các DN phụ thuộc vào nguồn vốn ngân
hàng, không có xu hƣớng tìm kiếm nguồn vốn từ các ĐC phi ngân hàng khác.
Nhƣng mặt khác, các ĐC phi ngân hàng cũng khó có sức ảnh hƣớng đến thị
trƣờng tài chính và nhu cầu của các DN do các sản phẩm tài chính trên thị trƣờng
còn hạn chế, việc triển khai các sản phẩm tài chính mới trên thị trƣờng luôn có độ
trễ do hành lang pháp lý cũng nhƣ khả năng tiếp cận của NH cũng nhƣ DN.
2.2. Rào cản từ các thị trường tài chính
Thị trƣờng vay nợ ngân hàng gần nhƣ là thị trƣờng cung cấp tín dụng chủ
yếu với các doanh nghiệp. Đây là nguồn vốn tín dụng chính thức, ít rủi ro lại dồi
dào. Tuy nhiên đây lại đƣợc coi là nguồn vốn khó tiếp cận nhất của các doanh
nghiệp. Trong khi đó thị trƣờng trái phiếu công ty lẽ ra có thể là kênh huy động
vốn hữu hiệu của các doanh nghiệp, vì chỉ cần doanh nghiệp hoạt động tối thiểu
một năm, có lãi, có kiểm toán đầy đủ là có thể đủ điều kiện phát hành nhƣng rất
188
ít doanh nghiệp nào tiếp cận nguồn vốn này. Nguyên nhân là do các chi phí để có
thể phát hành trái phiếu khá cao, bao gồm chi phí kiểm toán, chi phí minh bạch
thông tin, chi phí bảo lãnh phát hành và thƣờng cao hơn chi phí phát sinh khi
vay vốn ngân hàng, mặt khác yêu cầu về việc xếp hạng tín dụng mới đƣợc phát
hành trái phiếu khá khó đáp ứng vì rất ít doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xếp hạng
tín dụng. Ngoài ra, thị trƣờng trái phiếu quy mô nhỏ, tính thanh khoản thấp, dẫn
đến việc khó tìm kiếm nhà đầu tƣ trái phiếu. Còn thị trƣờng cổ phiếu vẫn là bất
khả thi với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì yêu cầu để niêm yết trên sản giao
dịch: (1) các doanh nghiệp SME thƣờng ngại không muốn công bố thông tin tình
hình tài chính, (2) các doanh nghiệp e ngại việc bộ máy quản lý thay đổi khi
tham gia cổ phần hóa trong khi hoạt động còn mới, (3) doanh nghiệp SME đối
diện với việc bấp bênh về lợi nhuận nên tỷ lệ trả cổ tức thấp, dẫn đến việc giá trị
doanh nghiệp có thể bị ảnh hƣởng, (4) các doanh nghiệp nhỏ thƣờng có trình độ
quản lý thấp. Ngoài ra, các doanh nghiệp SME thƣờng cần nguồn vốn ngắn hạn
để bù đắp thâm hụt tài chính tạm thời. Nhiều doanh nghiệp tìm đến các nguồn tài
chính phi chính thức nhƣ ngƣời thân, bạn bè, gia đình, tín dụng thƣơng mại (mua
chịu đối tác), thậm chí là tín dụng đen với chi phí rất cao. Điều đó đặt ra nhu cầu
cấp