Viện Hải dương học là một trong những Viện nghiên cứu khoa học được thành lập
sớm nhất ở Đông Dương (ngày 14/9/1922), đến nay Viện đã tồn tại và phát triển qua 98
năm. Là một Viện nghiên cứu cơ bản về hải dương học, tài nguyên và môi trường biển.
Nhiệm vụ của Viện là nghiên cứu các lĩnh vực vật lý biển, địa chất - địa mạo, hóa học
biển, sinh thái môi trường và sinh vật biển; xác định, đánh giá nguồn lợi, tài nguyên, môi
trường và thiên nhiên biển Việt Nam; nghiên cứu độc tố, độc chất trong sinh vật và môi
trường biển; bảo đảm hệ thống đài trạm quan trắc và cảnh báo môi trường biển, hệ thống
thông tin và dữ liệu hải dương học; duy trì và phát triển quan hệ hợp tác khu vực và quốc
tế. Đồng thời Viện đã và đang phát triển nghiên cứu ứng dụng triển khai về bảo tồn đa
dạng sinh học, bảo tàng hải dương học; công nghệ nuôi trồng; vật lý hải dương, khí tượng
- thủy văn và động lực biển. Về nguồn nhân lực, đội ngũ cán bộ nghiên cứu được đào tạo
chính quy, với tổng số 127 công chức, viên chức. Trong số đó có 02 giáo sư, 02 phó giáo
sư, 22 tiến sĩ, 38 thạc sĩ, 42 cử nhân, 25 viên chức thuộc các trình độ khác. Trong lịch sử
hơn 95 năm hoạt động, đồng hành cùng lịch sử của dân tộc, Viện Hải dương học đã có
nhiều thành tựu về phát triển nền khoa học và công nghệ biển quốc gia, đóng góp xứng
đáng cho sự nghiệp nghiên cứu biển, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển kinh
tế, bảo vệ an ninh, chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Tiếp nối truyền thống, trong
thời gian từ 2015 đến nay, Viện Hải dương học không ngừng phấn đấu vượt mọi khó khăn
xây dựng tiềm lực khoa học để đạt được những thành tích trong các hoạt động nghiên cứu,
đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hợp tác quốc tế, quản lý và phát triển cơ sở vật chất
ngày một đi lên, để trở thành một trung tâm nghiên cứu mạnh về hải dương học có tầm cỡ
khu vực và ngày càng có uy tín trong khu vực và trên trường quốc tế.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 17/06/2022 | Lượt xem: 226 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng quan hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ biển của Viện Hải Dương học giai đoạn 2015-2020, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC 45 NĂM VIỆN HÀN LÂM KHCNVN
160
TỔNG QUAN HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ BIỂN
CỦA VIỆN HẢI DƢƠNG HỌC GIAI ĐOẠN 2015-2020
Hồ Văn Thệ
Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Email: hovantheio@gmail.com
I. MỞ ĐẦU
Viện Hải dương học là một trong những Viện nghiên cứu khoa học được thành lập
sớm nhất ở Đông Dương (ngày 14/9/1922), đến nay Viện đã tồn tại và phát triển qua 98
năm. Là một Viện nghiên cứu cơ bản về hải dương học, tài nguyên và môi trường biển.
Nhiệm vụ của Viện là nghiên cứu các lĩnh vực vật lý biển, địa chất - địa mạo, hóa học
biển, sinh thái môi trường và sinh vật biển; xác định, đánh giá nguồn lợi, tài nguyên, môi
trường và thiên nhiên biển Việt Nam; nghiên cứu độc tố, độc chất trong sinh vật và môi
trường biển; bảo đảm hệ thống đài trạm quan trắc và cảnh báo môi trường biển, hệ thống
thông tin và dữ liệu hải dương học; duy trì và phát triển quan hệ hợp tác khu vực và quốc
tế. Đồng thời Viện đã và đang phát triển nghiên cứu ứng dụng triển khai về bảo tồn đa
dạng sinh học, bảo tàng hải dương học; công nghệ nuôi trồng; vật lý hải dương, khí tượng
- thủy văn và động lực biển. Về nguồn nhân lực, đội ngũ cán bộ nghiên cứu được đào tạo
chính quy, với tổng số 127 công chức, viên chức. Trong số đó có 02 giáo sư, 02 phó giáo
sư, 22 tiến sĩ, 38 thạc sĩ, 42 cử nhân, 25 viên chức thuộc các trình độ khác. Trong lịch sử
hơn 95 năm hoạt động, đồng hành cùng lịch sử của dân tộc, Viện Hải dương học đã có
nhiều thành tựu về phát triển nền khoa học và công nghệ biển quốc gia, đóng góp xứng
đáng cho sự nghiệp nghiên cứu biển, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển kinh
tế, bảo vệ an ninh, chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Tiếp nối truyền thống, trong
thời gian từ 2015 đến nay, Viện Hải dương học không ngừng phấn đấu vượt mọi khó khăn
xây dựng tiềm lực khoa học để đạt được những thành tích trong các hoạt động nghiên cứu,
đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hợp tác quốc tế, quản lý và phát triển cơ sở vật chất
ngày một đi lên, để trở thành một trung tâm nghiên cứu mạnh về hải dương học có tầm cỡ
khu vực và ngày càng có uy tín trong khu vực và trên trường quốc tế.
II. KẾT QUẢ NỔI BẬT NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ BIỂN GIAI ĐOẠN
2015-2020
Trong giai đoạn vừa qua (2015-2020), toàn thể cán bộ, viên chức Viện Hải dương
học chủ trì hơn hơn 69 lượt đề tài, dự án các cấp (bao gồm 05 đề tài cấp Nhà nước, 11 đề
tài nghiên cứu cơ bản tài trợ bởi Quỹ Phát triển KH&CNQG, 19 đề tài cấp Viện Hàn lâm),
các chương trình hợp tác quốc tế, triển khai các nhiệm vụ đài - trạm, giám sát môi trường
và hơn 70 hợp đồng khoa học với các địa phương, trường, viện, doanh nghiệp... trong và
ngoài nước.
DOI: 10.15625/vap.2020.00136
ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ CÁC CHẤT CÓ HOẠT TÍNH SINH HỌC
161
2.1. Các hoạt động khoa học trong 05 năm qua của Viện khẳng định thế mạnh
nghiên cứu cơ bản
Các hoạt động khoa học trong 05 năm qua tiếp tục khẳng định thế mạnh của Viện là
nghiên cứu cơ bản đóng góp vào hiểu biết các quy luật của biển Việt Nam nói riêng và Biển
Đông nói chung, đạt được những thành tựu mới với các nghiên cứu bản chất và đa dạng sinh
học của các hệ sinh thái, hiểu biết về cơ chế phát tán nguồn giống để bảo tồn nguồn lợi và
các hệ sinh thái hiệu quả. Có thể kể đến một số kết quả nổi bật trong thời gần đây như:
Dự án “Xây dựng bộ sưu tập mẫu sinh vật biển miền Nam Việt Nam” được thực
hiện từ năm 2015-2019 đã thu thập, bổ sung được 18.624 mẫu vật với 2.439 mẫu trưng
bày và 16.185 tiêu bản nghiên cứu, bao gồm các nhóm: thực vật biển, sinh vật phù du, hải
miên, thân mềm, giáp xác, da gai, giun nhiều tơ, san hô mềm, san hô cứng, cá sụn, cá
xương. Dự án đã góp phần nâng cao năng lực cho các cán bộ nghiên cứu khoa học trong
lĩnh vực phân loại học và góp phần nâng cao giá trị đa dạng sinh học của sinh vật biển
Việt Nam.
Đề tài độc lập cấp Nhà nước “Nghiên cứu một số quá trình tương tác biển - khí
quyển - lục địa và biến động môi trường ở Biển Đông với bối cảnh biến đổi khí hậu trong
khuôn khổ chương trình IOC-WESTPAC” đã làm rõ một số quá trình tương tác biển - khí
quyển - lục địa và biến động môi trường ở Biển Đông với bối cảnh biến đổi khí hậu; Nâng
cao năng lực và vị thế quốc tế của Việt Nam thông qua các hoạt động phối hợp với IOC và
IOC/WESTPAC; góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông.
Đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu cơ chế phát tán nguồn giống và tính liên kết quần
thể nguồn lợi, nâng cao hiệu quả quản lý các khu bảo tồn vùng biển ven bờ từ Quảng Trị
đến Kiên Giang” có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo vệ nguồn lợi của các khu bảo tồn
và vườn quốc gia. Trên cơ sở này để xác định được phạm vi ưu tiên bảo vệ các bãi giống
quan trọng nghiên cứu và đề xuất được mô hình và giải pháp bảo tồn và khai thác hợp lý
nguồn lợi.
Các đề tài nghiên cứu cơ bản tài trợ bởi Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia
(Nafosted) đã đóng góp được những nghiên cứu cơ bản có giá trị cho khoa học biển về đa
dạng sinh học, đóng góp các loài mới cho khoa học; sinh lý - sinh thái và tăng cường năng
lực xuất bản khoa học quốc tế.
Với hơn 95 năm hoạt động và quan hệ quốc tế rộng, Viện đã được giao chủ trì xây
dựng hệ thống dữ liệu biển của quốc gia, tập hợp kết quả của 6.731 chuyến khảo sát ở
Biển Đông với tổng số trạm là 149.000 trạm về điều kiện tự nhiên, nguồn lợi, tài nguyên
và môi trường Biển Đông. Trong 05 năm vừa qua, Viện tiếp tục cập nhật và bổ sung thông
tin và thường xuyên cung cấp các dữ liệu cho việc xây dựng các hoạt động khai thác tài
nguyên, bảo vệ môi trường biển và khẳng định chủ quyền quốc gia trên biển.
2.2. Đạt nhiều kết quả mới và có ý nghĩa trong nghiên cứu ứng dụng và triển khai
thành công một số giải pháp công nghệ
2.2.1. Ứng dụng các kết quả nghiên cứu cơ bản vào thực tiễn và phát triển công nghệ
KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC 45 NĂM VIỆN HÀN LÂM KHCNVN
162
Kết quả nghiên cứu một số đề tài cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam, được triển khai trong 05 năm qua theo hướng nghiên cứu cơ bản với định hướng
ứng dụng vào thực tiễn đã cung cấp nhiều dẫn liệu khoa học tăng cường hiểu biết về tương
tác giữa lục địa và biển phục vụ cho khắc phục và giảm nhẹ thiên tai, xây dựng công trình
bờ, quy hoạch phát triển nuôi trồng và du lịch bền vững, cụ thể đề tài: “Đánh giá ảnh
hưởng của các công trình chỉnh trị tới chế độ thủy-thạch động lực và cấu trúc hình thái các
vùng cửa sông ven biển Nam Trung Bộ và đề xuất giải pháp khắc phục hậu quả”, đề tài:
“Nghiên cứu biến động hình thái địa hình các cửa sông ven biển dưới tác động của việc
nạo vét tận thu cát nhiễm mặn khu vực Nam Trung Bộ”.
Kết quả của đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu phát triển bộ KIT phát hiện nhanh
một số độc tố vi tảo trong sản phẩm thủy sản” đã xây dựng, phát triển được bộ KIT phát
hiện nhanh độc tố vi tảo gây ngộ độc mất trí nhớ ASP và ngộ độc gây liệt cơ PSP trong
sản phẩm hải sản. Giai đoạn 2016-2019, được sự đầu tư của Viện Hàn lâm về dự án “Tăng
cường năng lực phòng thí nghiệm trọng điểm cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam về an toàn thực phẩm và môi trường (Khu vực miền Trung), một số kết quả
nghiên cứu của đề tài: “Nghiên cứu độc tố của một số loài cá rạn và thân mềm có nguy cơ
gây ngộ độc thực phẩm tại Việt Nam” đã nâng cao hiểu biết về độc tố học biển làm cơ sở
cho bảo đảm an toàn thực phẩm biển.
Ứng dụng có hiệu quả công nghệ viễn thám và GIS ven bờ, triển khai thành công
công nghệ chụp ảnh viễn thám bằng máy bay không người lái trong nghiên cứu hải dương
học (Đề tài: Nghiên cứu ứng dụng thử nghiệm máy bay không người lái (UAV) kết hợp
với một số thiết bị khoa học chuyên dụng (máy ảnh chuyên dụng, phổ kế phản xạ) trong
nghiên cứu thủy văn và môi trường vùng nước nông ven bờ (điểm triển khai khu vực Phú
Yên - Bình Thuận).
Đề tài “Điều tra, đánh giá hiện tượng dòng Rip (Rip current) tại các bãi tắm, xác
định nguyên nhân và đề xuất các giải pháp phòng tránh” đã được thực hiện tại các tỉnh ven
biển Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Quảng Nam. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã
được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi đến cộng đồng qua các buổi hội thảo, tập huấn, phim
phóng sự, nhằm bảo đảm an toàn cho các địa phương ven biển và phát triển du lịch biển.
Đề tài “Nghiên cứu ứng dụng đèn LED cho nghề lưới vây kết hợp ánh sáng khai
thác thủy sản xa bờ” đã sử dụng nguồn năng lượng thân thiện với môi trường, tiết kiệm
năng lượng và nâng cao hiệu quả kinh tế trong khai thác thủy sản.
2.2.2. Nghiên cứu ứng dụng hỗ trợ xây dựng và quản lý các khu bảo tồn biển
Các nghiên cứu ứng dụng theo hướng này chủ yếu được triển khai thông qua các đề
tài dự án của Bộ chuyên ngành hoặc theo đặt hàng của của các địa phương Quảng Ngãi,
Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bà Rịa- Vũng Tàu, Kiên Giang). Qua đó, Viện Hải dương học
tiếp tục đóng vai trò tiên phong trong nghiên cứu khoa học phục vụ thiết lập và quản lý
các khu bảo tồn biển. Các nghiên cứu trước đây của Viện về đa dạng sinh học, hiện trạng
khai thác tài nguyên và tiềm năng bảo tồn thiên nhiên đã được chú trọng đã giúp xây dựng
luận chứng và đưa các khu các khu bảo tồn biển ở Nam Việt Nam (Phú Quốc, Côn Đảo,
ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ CÁC CHẤT CÓ HOẠT TÍNH SINH HỌC
163
Cù Lao Cau, Hòn Mun, Cù Lao Chàm) đi vào hoạt động. Trong những năm gần đây Viện
tiếp tục giám sát biến động đa dạng sinh học, tài nguyên và chất lượng môi trường để phục
vụ cho quản lý thích ứng các khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm, vịnh Nha Trang, Cù Lao
Cau, Phú Quốc. Viện cũng đã tiến hành khảo sát và cung cấp tư liệu cho việc mở rộng
chức năng quản lý biển của Vườn Quốc gia Núi Chúa (tỉnh Ninh Thuận). Nhằm hỗ trợ
hoạt động quản lý ở các khu bảo tồn biển đã thành lập, Viện đã tổ chức nhiều khóa đào tạo
về giám sát hệ sinh thái, tài nguyên và môi trường, kỹ năng lặn biển cho các vườn quốc
gia và khu bảo tồn biển như Cù Lao Chàm, Lý Sơn, vịnh Nha Trang, Núi Chúa, Côn Đảo
và Phú Quốc. Từ năm 2019, thực hiện Nghị định số 26/2019/NĐ-CP về quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Thủy sản, Viện cùng với một số địa phương thực
hiện các nghiên cứu quy hoạch lại các phân khu chức năng của một số khu bảo tồn biển
như Vườn Quốc gia Côn Đảo, Khu Bảo tồn biển Cù Lao Cau. Ngoài ra, Viện còn tham gia
xây dựng các mô hình quản lý và phục hồi hệ sinh thái với sự tham gia của cộng đồng
hoặc doanh nghiệp. Trong thời gian qua, Viện đã và đang chuyển giao công nghệ phục hồi
san hô cứng cho các khu bảo tồn biển trọng điểm nhằm tái tạo hệ sinh thái ở những khu
vực đã bị suy thoái do tác động của con người và tai biến thiên nhiên như Lý Sơn (Quảng
Ngãi), Nha Trang, Phú Quốc.
2.2.3. Cung cấp cơ sở khoa học phục vụ quy hoạch phát triển kinh tế biển cho các
địa phương
Theo đặt hàng của các địa phương hoặc doanh nghiệp, Viện đã xây dựng cơ sở khoa
học - kinh tế - xã hội và công nghệ để khai thác, quản lý và phát triển bền vững các nguồn
tài nguyên và bảo vệ môi trường biển. Viện cũng đã tích cực tiến hành các nghiên cứu
nhằm giải quyết vấn đề con giống vật nuôi, vấn đề quy hoạch khai thác và nuôi trồng bền
vững, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nghiên cứu các cơ chế, nguyên nhân và dự báo các tai
biến thiên nhiên, các quá trình suy giảm chất lượng môi trường, các giải pháp phát triển
nguồn lợi, đồng thời Viện cũng chú trọng đến công tác tuyên truyền, giáo dục hướng dẫn
cộng đồng những kỹ thuật thuật đơn giản để khai thác, phát triển và bảo vệ nguồn lợi tài
nguyên môi trường một cách bền vững. Các đề tài dự án tiến hành trong 05 năm qua trải
khắp nhiều tỉnh ven biển miền Trung và Nam Bộ (Hà Tĩnh, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bến
Tre, Trà Vinh, Kiên Giang). Một số kết quả cụ thể như: Điều tra, tính toán các tham số
thủy thạch động lực phục vụ việc thiết kế các trung tâm công nghiệp lớn ven biển như:
Khu vực giàn khoan dầu khí; Khu công nghiệp Vũng Áng (Hà Tĩnh); Khu nghĩ dưỡng cao
cấp tại Cam Ranh (Khánh Hòa); Xác định các khu vực có khả năng cải tạo, phát triển bãi
tắm nhân tạo và đề xuất các phương án bảo vệ bãi tắm tự nhiên trong vịnh Nha Trang;
“Đánh giá hiện trạng, dự báo diễn biến đa dạng sinh học, chất lượng các thành phần môi
trường tại tỉnh Ninh Thuận phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, trọng điểm là khu vực phía
Nam của tỉnh”; “Nghiên cứu nâng cao hiệu quả thu giống và nuôi hàu thương phẩm tại
tỉnh Bến Tre”. Đặc biệt sự cố môi trường gây ra hiện tượng cá chết hàng loạt tại các tỉnh
miền Trung 4-5/2016, Viện đóng vai trò chủ trì và nòng cốt trong tổ “Tác nhân sinh học”,
cử một số chuyên gia tham gia trong tổ “Thuỷ văn - động lực” cung cấp cơ sở khoa học
cho hội đồng quốc gia về tìm hiểu nguyên nhân cá chết hàng loạt ở miền Trung. Mặt khác,
KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC 45 NĂM VIỆN HÀN LÂM KHCNVN
164
Viện cũng đã tổ chức triển khai hoạt động quan trắc môi trường theo yêu cầu của Tổng
cục Môi trường, Bộ Tài nguyên Môi trường. Trong năm 2020, Viện đang chủ trì đề tài cấp
Nhà nước: “Nghiên cứu, đánh giá nguồn lợi sinh vật biển và xây dựng giải pháp khai thác
hợp lý, phát triển bền vững ở vùng biển huyện Lý Sơn (Quảng Ngãi) và lân cận”.
2.2.4. Phát triển các đối tượng nuôi trồng mới phục vụ phát triển kinh tế
Về phát triển công nghệ nuôi trồng, Viện đã kế thừa các kết quả nghiên cứu trước
đây, như: đề tài cấp Nhà nước thuộc chương trình KC 06.05/06-10: “Nghiên cứu công
nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm một số loài cá cảnh có giá trị xuất khẩu” được
thực hiện giai đoạn 2008-2010; Đề tài “Trồng rong Nho biển - Caulerpa lentilifera J.
Agardh dùng làm thực phẩm”. Đề tài “Chuyển giao kỹ thuật trồng, bảo quản và chế biến
rong nho biển (Caulerpa lentillifera J. Agardh., 1837) cho quân và dân huyện đảo Trường
Sa, tỉnh Khánh Hòa”. Đây là tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo về sinh sản nhân tạo
của một số loài sinh vật cảnh biển quý hiếm đang có nguy cơ cạn kiệt và các đối tượng
nuôi trồng có giá trị kinh tế. Những sản phẩm của đề tài đã được thị trường tiêu thụ cá
cảnh trong nước và thế giới chấp nhận. Đến nay, Viện vẫn tiếp tục nghiên cứu phát triển
các đối tượng nuôi mới, quy hoạch khai thác và nuôi trồng bền vững. Những kết quả này
đã góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập cho người lao động, góp phần phát
triển kinh tế vùng ven biển và hải đảo nói riêng và phát triển bền vững nghề nuôi trồng
thủy sản trong nước nói chung. Một số kết quả nổi bật trong thời gần đây như sau:
Kết quả bước đầu của đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu xác định tiềm năng và ứng
dụng công nghệ nuôi biển mở ở vùng biển Nam Trung Bộ” là định hướng mới phát triển
công nghệ nuôi trồng theo mô hình công nghiệp và thân thiện môi trường, đề tài đã xây
dựng bộ tiêu chí xác định vùng nuôi và đối tượng nuôi phù hợp để phát triển công nghệ
nuôi mở, dự kiến sẽ chuyển giao công nghệ trong thời gian tới;
Đề tài “Hoàn thiện quy trình và thử nghiệm sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá
khoang cổ nemo Amphiprion ocellaris”. Đề tài “Đánh giá hiện trạng khai thác và khả năng
sinh sản nhân tạo cá bắp nẻ xanh (Paracanthurus hepatus Linnaeus, 1776) ở Khánh Hòa”.
2.3. Hợp tác quốc tế, quảng bá hoạt động khoa học của Viện thông qua hội nghị - hội
thảo và xuất bản các công trình khoa học
Viện Hải dương học đã tích cực tìm kiếm cơ hội, tăng cường hợp tác với các nước
trong khu vực và trên thế giới nhằm xây dựng và phát triển cơ sở vật chất, tiềm lực khoa
học, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học. Trong 05 năm qua Viện tiếp tục duy trì quan hệ hợp
tác với các đối tác truyền thống, tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về nghiên
cứu khoa học và công nghệ biển với Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Pháp, Malaysia,
Đức, Thụy Điển, Thái Lan, Đan Mạch. Viện giữ vai trò quan trọng trong hệ thống hoạt
động của tổ chức IOC/WESTPAC (Chủ tịch IOC/WESTPAC 2017-2019; 2019-2021).
Các hoạt động hợp tác quốc tế của Viện được thực hiện theo nhiều hình thức: Ký kết các
thỏa thuận về trao đổi khoa học, đào tạo, nghiên cứu chung với các đối tác nước ngoài;
chủ trì và tham gia các chương trình, dự án được tài trợ; tổ chức các hội nghị, hội thảo,
khóa tập huấn quốc tế; tham gia các mạng lưới, hoạt động, chương trình của các tổ chức
ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ CÁC CHẤT CÓ HOẠT TÍNH SINH HỌC
165
quốc tế và khu vực, tham gia chương trình hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và các nước,
chương trình hợp tác song phương của Viện Hàn lâm KHCNVN. Đặc biệt năm 2016,
2018, Viện Hải dương học đã chủ trì và đóng góp tích cực cho sự thành công hai chuyến
khảo sát hỗn hợp: “Khảo sát, nghiên cứu đa dạng sinh học và hóa sinh lần thứ 5 và 6 giữa
VAST-FEB RAS bằng tàu Viện sĩ Oparin trong vùng biển Việt Nam”. Hiện nay, Viện
đang triển khai Dự án “Xây dựng năng lực hải dương học ứng dụng tại Việt Nam” do
Chính phủ Hàn Quốc tài trợ, với mục tiêu đào tạo nhân lực, tăng cường năng lực nghiên
cứu hải dương học ứng dụng ở Việt Nam.
Trong 05 năm qua, nhiều hội nghị, hội thảo, tập huấn quốc tế đã được tổ chức tại
Viện Hải dương học
Hội thảo “Các hoạt động trên biển và những tác động có thể có đối với nguồn lợi và
môi trường Biển Đông”, ngày 09/7/2015. Hội thảo đã đánh giá hiện trạng và thành tựu
nghiên cứu khoa học về nguồn lợi, môi trường và tác động của hoạt động con người trên
Biển Đông, xác định nhu cầu và định hướng hoạt động khoa học phục vụ quản lý bền
vững Biển Đông. Các báo cáo cũng nhấn mạnh đến tác động của việc xây dựng các công
trình ngoài khơi đối với môi trường và nguồn lợi Biển Đông, đặc biệt là các công trình xây
dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa.
Viện đã phối hợp với IOC/WESTPAC tổ chức hội thảo “Tăng cường năng lực xác
định loài và phân tích di truyền các loài sinh vật biển trong hệ sinh thái rạn san hô ở Tây
Thái Bình Dương. Hội thảo đã góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu cơ bản về định loại
thông qua các phương pháp nghiên cứu hiện đại trên thế giới.
Đáng chú ý “Diễn đàn Khoa học vì sự tăng trưởng xanh ở Biển Đông, 2017” được tổ
chức nhân kỷ niệm 95 năm thành lập Viện Hải dương học đã thu hút đông đảo nhà khoa
học trong nước và quốc tế, là cơ hội tốt để các nhà khoa học, quản lý trong nước và quốc
tế gặp gỡ, trao đổi, chia sẻ thông tin, kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm quản lý về lĩnh
vực biển.
Viện cũng đã phối hợp với các tổ chức quốc tế để tổ chức các khóa tập huấn, như
phối hợp với IOC/WESTPAC tổ chức khóa tập huấn “Áp dụng phương pháp phân tích
hóa học để xác định độc tố ciguatoxins (CTXs) trong cá rạn” tại phòng thí nghiệm trọng
điểm cấp Viện Hàn lâm về an toàn thực phẩm và môi trường khu vực miền Trung; phối
hợp với Đại học Copenhagen (Đan Mạch) tổ chức khóa tập huấn “Ô nhiễm rác thải nhựa -
Nghiên cứu tại vịnh Nha Trang và đầm Nha Phu, Việt Nam”.
Công tác xuất bản trong 05 năm qua của Viện đã công bố được 01 bằng độc quyền
giải pháp hữu ích, 05 sách chuyên khảo, 399 bài báo, trong đó có 296 bài báo trong nước,
103 bài báo quốc tế.
2.4. Bảo tàng Hải dƣơng học thực sự trở thành trung tâm giáo dục về khai thác hợp
lý tài nguyên, bảo vệ môi trƣờng và chủ quyền biển quốc gia
Trong 05 năm gần đây, Bảo tàng Hải dương học đã liên tục phát triển cả về cơ sở vật
chất và chất lượng phục vụ, được Viện Hàn lâm KHCNVN đầu tư thông qua dự án “Xây
KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC 45 NĂM VIỆN HÀN LÂM KHCNVN
166
dựng khu thuần hóa, bảo tồn sinh vật biển và trưng bày mẫu vật Hoàng Sa-Trường Sa” và
dự án “Xây dựng bộ sưu tập mẫu sinh vật biển miền Nam Việt Nam. Bảo tàng đã được bổ
sung nhiều mẫu có giá trị về mặt khoa học, với những mẫu sinh vật biển mang tính độc
đáo, kích thước lớn, như cá Tra Dầu, cá Trà Sóc, cá Mó gù, cá Bục bịch, bộ xương cá Voi,
cá Mập vây đen, các mẫu địa chất tại một số vùng biển sâu xa bờ. Bảo tàng Hải dương học
không chỉ có các hoạt động để phục vụ nghiên cứu khoa học mà còn là điểm tham quan du
lịch hấp dẫn ở thành phố Nha Trang. Trong giai đoạn 2015-2020, Bảo tàng hải dương học
đã tiếp đón hơn 2,2 triệ