Sau 5 năm khủng hoảng tài chính thế giới, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2013 tiếp tục ở
mức thấp, thậm chí thấp hơn so với dự báo của các tổ chức quốc tế như IMF, WB đưa ra từ đầu
năm. Mức tăng trưởng thấp trên toàn thế giới cho thấy nền kinh tế thế giới đang ở một quỹ đạo
tăng trưởng thấp, do vậy các thảo luận về “khủng hoảng”, “phục hồi”, hay “sụt giảm” đang giảm
dần. Bối cảnh nền kinh tế thế giới như vậy cũng đồng nghĩa với một số hệ quả kéo dài như áp
lực lớn trong việc cải thiện mức thâm hụt ngân sách, tình trạng thất nghiệp cao ở các nền kinh tế
phát triển và tăng trưởng thương mại quốc tế yếu. Tuy nhiên, sự mất cân bằng trong tài khoản
vãng lai của một số nền kinh tế phát triển đã tiếp tục có xu hướng giảm nhờ sự thu hẹp mức
thâm hụt tại các nước có thâm hụt lớn như Mỹ và giảm thặng dư ở những nước có thặng dư lớn
như Trung Quốc, Nhật Bản, EU và các nước xuất khẩu dầu mỏ.
34 trang |
Chia sẻ: thanhlam12 | Lượt xem: 634 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổng quan kinh tế thế giới 2013, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BÀI NGHIÊN CỨU NC-32
Tổng quan kinh tế thế giới 2013
Lê Kim Sa và Nguyễn Cẩm Nhung
2
© 2014 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách
Trường ĐH Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Bài Nghiên cứu NC-32
Tổng quan kinh tế thế giới 20131
Lê Kim Sa
2
và Nguyễn Cẩm Nhung
3
Quan điểm được trình bày trong bài nghiên cứu này là của (các) tác giả và không nhất thiết
phản ánh quan điểm của VEPR.
1
Một phiên bản của Nghiên cứu này được công bố như Chương 1 trong Báo cáo Thường niên Kinh tế
Việt Nam 2014, TS. Nguyễn Đức Thành chủ biên, NXB ĐHQGHN 2014.
2
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (VASS). Email: kimsa.le@gmail.com.
3
Giảng viên Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Trường ĐH Kinh tế - ĐHQGHN. Email: nhungnc@yahoo.com.
3
MỤC LỤC
Danh mục hộp ................................................................................................................................. 4
Danh mục hình ................................................................................................................................ 5
Dẫn nhập ......................................................................................................................................... 7
Tăng trưởng toàn cầu trên quỹ đạo thấp ......................................................................................... 8
Thất nghiệp toàn cầu vẫn ở mức cao ............................................................................................ 12
Thương mại tiếp tục trì trệ ............................................................................................................ 14
Hiệp định thương mại chỉ đạt được một số ít thỏa thuận .............................................................. 16
Dòng vốn toàn cầu tăng nhẹ .......................................................................................................... 17
Giá đầu vào ổn định ...................................................................................................................... 20
Làn sóng nới lỏng tiền tệ tại một số nền kinh tế chủ chốt ............................................................ 21
Triển vọng năm 2014 và xa hơn ................................................................................................... 27
Thay lời kết luận: Hàm ý cho Việt Nam ....................................................................................... 31
Tài liệu tham khảo ........................................................................................................................ 32
4
DANH MỤC HỘP
Hộp 1. Khủng hoảng chính trị hay sự bế tắc tìm kiếm tăng trưởng của Thái Lan?...................... 11
Hộp 2. Chuyển dịch nhu cầu hàng hóa ở Trung Quốc và xuất khẩu trên thế giới ........................ 16
Hộp 3. Hướng đi mới trong chính sách tài khóa của một số nước tại khu vực EU ..................... 26
5
DANH MỤC HÌNH
Hình 1. Dòng vốn FDI toàn cầu hàng năm, giai đoạn 2007-2013 ................................................ 18
Hình 2. FDI hàng năm theo nhóm nước kinh tế, 2011-2013 ........................................................ 18
Hình 3. Danh sách 20 nước nhận FDI lớn nhất năm 2013 ........................................................... 19
Hình 4. Biến động giá dầu Brent giao ngay thế giới, tháng 1/2000 – 2/2014 .............................. 20
Hình 5. Chỉ số giá lương thực của FAO ........................................................................................ 21
Hình 6. Dự báo thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ của các nền kinh tế (2014) ........................ 29
6
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2013 ......................................................................... 8
Bảng 2. Tình hình thị trường lao động thế giới (2010-2013) ....................................................... 12
Bảng 3. Tỷ lệ thất nghiệp ở một số nước và khu vực thuộc OECD (2010-2013) (%).................. 13
Bảng 4. Tăng trưởng thương mại hàng hóa và dịch vụ thế giới, 2010-2013 (%) ......................... 15
Bảng 5. Cán cân thanh toán vãng lai, 2010-2013 ......................................................................... 15
Bảng 6. Thâm hụt ngân sách tại một số nền kinh tế giai đoạn 2008–2013 .................................. 23
Bảng 7. Tình trạng nợ chính phủ tại một số nền kinh tế giai đoạn 2008–2013 ............................ 24
Bảng 8. Dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu 2014 ...................................................................... 30
7
DẪN NHẬP
Sau 5 năm khủng hoảng tài chính thế giới, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2013 tiếp tục ở
mức thấp, thậm chí thấp hơn so với dự báo của các tổ chức quốc tế như IMF, WB đưa ra từ đầu
năm. Mức tăng trưởng thấp trên toàn thế giới cho thấy nền kinh tế thế giới đang ở một quỹ đạo
tăng trưởng thấp, do vậy các thảo luận về “khủng hoảng”, “phục hồi”, hay “sụt giảm” đang giảm
dần. Bối cảnh nền kinh tế thế giới như vậy cũng đồng nghĩa với một số hệ quả kéo dài như áp
lực lớn trong việc cải thiện mức thâm hụt ngân sách, tình trạng thất nghiệp cao ở các nền kinh tế
phát triển và tăng trưởng thương mại quốc tế yếu. Tuy nhiên, sự mất cân bằng trong tài khoản
vãng lai của một số nền kinh tế phát triển đã tiếp tục có xu hướng giảm nhờ sự thu hẹp mức
thâm hụt tại các nước có thâm hụt lớn như Mỹ và giảm thặng dư ở những nước có thặng dư lớn
như Trung Quốc, Nhật Bản, EU và các nước xuất khẩu dầu mỏ.
Năm 2013 đã chứng kiến nhiều vòng đàm phán hiệp định thương mại khu vực, đặc biệt hai
hiệp định thương mại khu vực quan trọng là Hiệp định đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây
Dương (Transatlantic Trade and Investment Partnership - TTIP) - hiệp định thương mại song
phương lớn nhất từ trước đến nay được đàm phán giữa EU và Mỹ và Hiệp định đối tác xuyên Thái
Bình Dương (Trans-Pacific Partnership - TPP) - hiệp định thương mại thế hệ mới được kì vọng trở
thành phiên bản thay thế cho vòng đàm phán Doha, vốn chỉ tập trung vào các vấn đề bảo hộ tại
đường biên giới.
Do tăng trưởng kinh tế vẫn đang ở quỹ đạo thấp nên ngay từ đầu năm 2013, các nền kinh tế
chủ chốt như Mỹ, Nhật Bản và khu vực châu Âu vẫn kiên trì chính sách tiền tệ nới lỏng. Mặc dù
các phản ứng của chính sách tiền tệ chưa thực sự rõ nét, chưa đạt được mục tiêu lạm phát ở mức
2% nhưng tăng trưởng của Nhật Bản và châu Âu đã nhích hơn so với năm 2012. Tăng trưởng
của Mỹ tuy không đạt mức của năm trước nhưng diễn biến trên thị trường lao động đã có những
tín hiệu lạc quan hơn vào những tháng cuối năm 2013.
Dòng vốn FDI năm 2013 đã tăng nhẹ, gần đạt bằng mức tăng trưởng trung bình FDI của giai
đoạn 2005-2007. Đặc biệt, hoạt động M&A xuyên quốc gia đã tăng lên với số thương vụ M&A của
các nền kinh tế đang phát triển đã đạt mức trước khủng hoảng và các thương vụ M&A ở các nước
này chủ yếu được bán cho các TNCs của các nền kinh tế đang phát triển khác. Đây là xu hướng
mới so với khảo sát 2007 của UNCTAD đối với các TNCs của các nền kinh tế mới nổi và đang
phát triển.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ tập trung phân tích những chỉ tiêu vĩ mô quan trọng của
các nền kinh tế ở các trình độ phát triển khác nhau, đặc biệt đi sâu phân tích đối với những nền
kinh tế chủ chốt và những biến động của các nước có thể ảnh hưởng đến Việt Nam. Sau khi có bức
8
tranh tổng thể về nền kinh tế thế giới 2013, chúng tôi sẽ bàn luận về triển vọng và hàm ý cho Việt
Nam.
TĂNG TRƢỞNG TOÀN CẦU TRÊN QUỸ ĐẠO THẤP
Tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2013 tiếp tục trên quỹ đạo thấp, thậm chí thấp hơn so với
dự báo của các tổ chức quốc tế như IMF và WB đưa ra từ đầu năm. Với mức 3% năm 2013, tăng
trưởng toàn cầu đã thụt lùi hơn so với năm 2011 và 2012 (IMF, 2014). Trong báo cáo do Ngân
hàng thế giới (WB, 2014) công bố, tăng trưởng kinh tế toàn cầu thậm chí còn đạt mức thấp hơn,
chỉ 2,4% trong năm 2013. Mức tăng trưởng thấp như vậy được cho là “thiếu động lực” từ các nền
kinh tế chủ chốt và tỷ lệ tăng trưởng ở mỗi quốc gia và khu vực có sự trái chiều nhất định. Mặc dù,
tăng trưởng kinh tế ở khu vực đồng tiền chung châu Âu và Nhật Bản đã có nhích hơn một chút so
với năm 2012, nhưng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế lớn nhất thế giới lại không bứt lên được
mà chỉ đạt mức tăng trưởng của năm 2011. Bên cạnh đó, tăng trưởng của các nền kinh tế đang phát
triển cũng ghi nhận ở mức thấp hơn so với 2 năm trước.
Bảng 1. Tăng trƣởng kinh tế giai đoạn 2011-2013
% GDP
IMF WB
2011 2012 2013 2011 2012 2013
Thế giới 3.9 3.2 3.0
3.0 2.5 2.4
Các nền kinh tế phát triển 1.7 1.4 1.3
1.8 1.5 1.3
Mỹ 1.8 2.8 1.9
1.8 2.8 1.8
Nhật -0.6 1.4 1.5
-0.6 2.0 1.7
Châu Âu 1.7 -0.7 -0.5
1.6 -0.6 -0.4
Đức 3.4 0.9 0.5
3.3 0.7 -
Pháp 2.0 0.0 0.3
2.0 0.0 -
Tây Ban Nha 0.1 -1.6 -1.2
0.1 -1.6 -
Ý 0.4 -2.4 -1.9
0.5 -2.0 -
Các nền kinh tế đang phát triển 6.2 5.0 4.7
6.1 4.8 4.8
Trung Quốc 9.3 7.7 7.7
9.3 7.7 7.7
Ấn Độ 6.3 4.7 4.4
6.2 5.0 4.8
ASEAN-5 4.5 6.2 5.2
- - -
Nga 4.3 3.4 1.3
4.3 3.4 -
Brazil 2.7 1.0 2.3 2.7 0.9 2.2
Nguồn: IMF(2013, 2014), WB (2014)
Chú ý: ASEAN-5 gồm Indonesia, Malaysia, Phillipinese, Thailand, Vietnam
Tại châu Âu, chính sách tài khóa “thắt lưng buộc bụng” tiếp tục được thực hiện sang năm
thứ ba dẫn đến hệ lụy như kỳ vọng là làm cho suy giảm tăng trưởng kinh tế. Trong năm 2013,
nền kinh tế của khu vực đồng euro không suy giảm mạnh như năm 2012, nhưng tăng trưởng
GDP vẫn ở mức âm (-0,5%). Tại Đức, đầu tầu của nền kinh tế châu Âu, mức lãi suất cơ bản thấp
đã tạo đà cho lĩnh vực xây dựng và tiêu dùng cá nhân được cải thiện. Chính vì thế, trong báo cáo
9
tháng 12/2013, Ngân hàng liên bang Đức (Bundesbank, 2013) đã nâng dự báo tăng trưởng kinh
tế của nước này từ 0,3% lên 0,5%. Tuy nhiên, do tác động của chính sách tài khóa quá chặt chẽ
được thực hiện kéo dài từ những năm trước nên các biện pháp tiền tệ và tài khóa linh hoạt hơn
đã không làm cho kinh tế Đức đạt mức tăng trưởng cao trong năm 2013 mà vẫn thấp hơn so với
mức tăng trưởng 0,9% trong năm 2012 (Deutsche Bundesbank (2013). Khác với Đức, năm 2013
Pháp đã tìm hướng đi riêng, mặc dù vẫn còn thận trọng đối với chính sách tài khóa, song thay vì
cắt giảm ngân sách hoặc tăng thuế, nước này đã bắt đầu hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế
và giải quyết việc làm. Nhờ vậy, kinh tế Pháp đã tăng trưởng trở lại với mức 0,3%. Khác với
Đức và Pháp, kinh tế Italia và Tây Ban Nha vẫn tiếp tục suy giảm lần lượt với mức -1,9% và
-1,2%, do hai nước này chưa giải quyết được vấn đề nợ công nên tăng trưởng vẫn còn "mong
manh".
Tại Mỹ, chương trình "vách đá tài chính" cắt giảm chi tiêu và tăng thuế đã được Quốc hội
nước này thông qua ngay từ đầu năm và có hiệu lực từ ngày 1/1/2013. Chương trình này được cho
là đã trợ giúp cho thâm hụt ngân sách của Mỹ được cải thiện hơn. Tuy nhiên, IMF (2013) đã cảnh
báo chương trình cắt giảm chi tiêu này sẽ làm tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mỹ giảm ít nhất 0,5
điểm phần trăm. Việc cắt giảm chi tiêu tự động không chỉ tác động làm giảm tốc độ tăng trưởng
trong ngắn hạn mà còn ảnh hưởng tới tiềm năng tăng trưởng trong trung hạn, vì các khoản chi cho
giáo dục và cơ sở hạ tầng bị cắt bớt. Trong năm 2013, Mỹ tiếp tục thực hiện gói nới lỏng định
lượng QE3 được tung ra từ tháng 9/2012. Những yếu tố tích cực này đã bù đắp cho những điều
chỉnh lớn trong hành vi tiêu dùng của người Mỹ do chính sách tăng thuế. Đầu tháng 3/2013, ngân
sách tài khóa 2013 bị tự động cắt giảm 85,4 tỷ USD đã gây trở ngại cho nỗ lực thoát khỏi đà quỹ
đạo tăng trưởng thấp của nền kinh tế số một thế giới. Vì vậy, GDP của Mỹ năm 2013 chỉ đạt mức
tăng trưởng 1,9%. Sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng này của Mỹ được cho là đã kéo tốc độ tăng
trưởng toàn cầu giảm nhẹ từ 3,2% năm 2012 xuống còn 3% năm 2013.
Ở Nhật Bản, năm 2013 là năm đầu tiên của các chính sách “Abenomics” được thực hiện và
đã có những tác động nhất định. Ngay từ đầu năm 2013, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật
Bản đã tăng mạnh, GDP quý I tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước và tăng 1% so với quý
IV/2012. Tăng trưởng GDP quý II đạt 3,8% so với cùng kỳ năm trước và tăng 0,9% so với quý I,
do chi tiêu cho tiêu dùng tăng vượt mức kỳ vọng (Trần Quang Minh, 2013). Nguyên nhân chủ
yếu của kết quả tăng trưởng này được cho là do sự giảm giá mạnh của đồng Yên đã hỗ trợ cho
xuất khẩu tăng đáng kể. Tuy nhiên, bước sang quý III/2013, do chi tiêu cho tiêu dùng chững lại
nên tốc độ tăng trưởng kinh tế Nhật Bản đã bắt đầu chậm hơn và đạt 1,9%, thấp hơn đáng kể so
với quý trước. Mặc dù, đã có một số thành công nhất định trong năm 2013, nhưng chưa thể đưa
ra kết luận cuối cùng về chính sách “Abenomics” trên cơ sở năm đầu tiên, mà vẫn còn phụ thuộc
10
vào việc thực hiện kế hoạch trung hạn của Nhật Bản.
Do tình hình kinh tế thế giới vẫn trên quỹ đạo tăng trưởng thấp và bản thân Trung Quốc
cũng đang trong quá trình điều chỉnh cơ cấu nên nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới này được dự báo
là có tốc độ tăng trưởng GDP thấp hơn những năm trước (IMF 2013). Tăng trưởng GDP của
Trung Quốc trong quý I/2013 đạt mức 7,7% nhưng đã giảm xuống 7,5% trong quý II, bằng với
mức thấp nhất về tỷ lệ tăng trưởng theo quý của Trung Quốc vào quý II/2009 - đáy của đợt suy
giảm sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay (Phạm Sỹ Thành, 2014). Các nhà
lãnh đạo Trung Quốc đã và đang nỗ lực để giảm sự phụ thuộc của nền kinh tế vào hoạt động vay
nợ cũng như những rủi ro có thể xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính (Lê Kim Sa, 2014).
Bước sang tháng 7, nền kinh tế Trung Quốc đã có xu hướng khởi sắc trở lại với động lực chính
là xuất khẩu tăng và sự tăng trở lại của ngành sản xuất chế tạo, tạo đà tăng trưởng GDP cho quý
III lên mức 7,8%. Tuy nhiên, tốc độ gia tăng của ngành sản xuất chế tạo đã giảm sút vào cuối
năm. Thực tế, tăng trưởng GDP đã giảm tốc trong quý IV/2013 nên tăng trưởng kinh tế Trung
Quốc cả năm 2013 đã đạt mức 7,7%, duy trì được so với mức tăng của năm 2012. Mức tăng
trưởng này của kinh tế Trung Quốc được cho là thích hợp và vẫn cao hơn mức dự báo mà các tổ
chức quốc tế đã đưa ra từ đầu năm 2013 tại mức 7,6%. Trong bối cảnh chung của nền kinh tế thế
giới thì tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc vẫn đứng ở vị trí cao và sau 20 năm, phần gia tăng
(7,7%) của năm 2013 bằng GDP của nước này vào năm 1994.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của các nước ASEAN đã đạt 5,1% trong năm 2013, thấp
hơn rõ rệt so với năm 2012. Theo IMF (2014), kinh tế khu vực ASEAN-5 trong năm qua cũng
đã đạt mức tăng trưởng 5,2%, thấp hơn so với năm 2012. Trong khu vực ASEAN, Thái Lan là
nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp nhất, chỉ đạt mức 2,8% trong khi tốc độ tăng trưởng
kinh tế thực của Lào đã đạt 8,2%, Myanmar đạt 7,5%, Phillipinese là 7,2%, Campuchia đạt 7%,
Indonesia đạt 5,8%. Myanmar, sau khi rỡ bỏ lệnh cấm vận, đang nổi lên như một “ngôi sao sáng”
thu hút nhiều doanh nghiệp nước ngoài đến gặp gỡ, tiếp xúc và tìm hiểu cơ hội kinh doanh.
Quốc gia này với lợi thế giàu tài nguyên và đang có nhu cầu đầu tư rất lớn trong lĩnh vực công
nghiệp và cơ sở hạ tầng, nên các nước phát triển như Đức, Pháp đã bắt đầu triển khai những hợp
đồng đầu tiên tại đây.
Tại Thái Lan, những căng thẳng cùng với triển vọng mờ nhạt cho hàng hóa xuất khẩu đã đè
nặng lên nền kinh tế nước này trong nửa cuối năm 2013, làm giảm tiêu dùng, đầu tư và chi tiêu
chính phủ (ADB 2014). Điều này đã tác động làm cho tăng trưởng trong quý IV giảm tốc 0,6%
so với năm 2012 và tăng trưởng GDP giảm mạnh từ 6,5% năm 2012 xuống còn 2,8% năm 2013.
Cuộc khủng hoảng chính trị tại Thái Lan đã gây ảnh hưởng tiêu cực lớn đối với nhu cầu nội địa,
chỉ số niềm tin của người tiêu dùng sụt giảm từ tháng 3/2013 xuống mức thấp nhất như thời kỳ
11
sau thảm họa ngập lụt cuối năm 2009 và 2011. Điều này một phần phản ánh một hiệu ứng cơ sở
từ năm 2012, khi chi tiêu được kích thích bởi nhu cầu thay thế hàng gia dụng sau trận lũ lụt
nghiêm trọng vào cuối năm 2011 và các khoản thanh toán cứu trợ lũ lụt của chính phủ.
Hộp 1. Khủng hoảng chính trị hay sự bế tắc tìm kiếm tăng trƣởng của Thái Lan?
Tốc độ tăng trưởng GDP của Thái Lan chỉ đạt 2,8% cho cả năm 2013. Đây là kết quả đã được các tổ
chức quốc tế như WB từng cảnh báo cuộc biểu tình chống Chính phủ sẽ ảnh hưởng đến đầu tư, du lịch
và làm gián đoạn quá trình hoạch định chính sách Thái Lan. Hãng đánh giá tín dụng Fitch cũng tuyên bố
căng thẳng chính trị kéo dài có thể ảnh hưởng đến kinh tế và tín nhiệm của nước này. Các cuộc xung đột
chính trị nặng nề đang diễn ra ở Thái Lan có thể khiến kinh tế nước này lâm vào tình trạng trì trệ sau một
số dấu hiệu khả quan.
Trong quá trình tăng trưởng, Bangkok và các vùng lân cận đã phát triển quá nhanh thành một khu vực
thu nhập cao do có sự tập trung cao độ của các ngành công nghiệp, trái ngược với các vùng kém phát
triển ở phần còn lại của đất nước. Về mặt lý thuyết, các khu vực thu nhập thấp sẽ có cơ hội tăng
trưởng nhanh hơn. Nhưng ở Thái Lan, các vùng nghèo lại tăng trưởng chậm hơn các vùng giàu, đặc
biệt là khu vực Bangkok. Nói cách khác, đô thị hóa ở Thái Lan chủ yếu diễn ra ở Bangkok và gắn liền
với sự phát triển của ngành chế tạo như điện tử, máy móc, linh kiện ô tô. Các vùng ngoại vi khác kém
phát triển gắn với những ngành công nghệ thấp.
Việc tập trung phát triển khu vực đô thị trong thời gian dài làm cho nông dân nước này không được
chia sẻ lợi ích từ sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, dẫn tới khoảng cách giàu nghèo ở thành
thị và nông thôn khá lớn, hệ số Gini gần 50% trong nhiều thập kỷ. Đồng thời về chính trị, những
người nông dân chiếm gần 70% dân số Thái Lan đã trở thành “đa số thầm lặng”, không có tiếng nói
và đòi hỏi chính trị nên tạo ra sự phân cực về chính trị của Thái Lan.
Trong cuộc khủng hoảng chính trị hiện nay ở Thái Lan, mâu thuẫn giữa phe “chống Thaksin” và “ủng
hộ Thaksin” chỉ là hiện tượng, về cơ bản đó là sự đối lập về lợi ích giữa các tầng lớp xã hội. Phe
“chống Thaksin” là tầng lớp tinh hoa mà chủ yếu là chính khách địa phương, doanh nghiệp, các nhóm
chính trị, quan chức và một bộ phận giai cấp trung lưu thành phố. Phe “ủng hộ Thaksin” là tầng lớp
bình dân chủ yếu là nông dân phía Đông Bắc, đòi hỏi sự cân bằng hơn, và coi chính sách của
Thanksin thực hiện trong thời gian cầm quyền là đại diện cho lợi ích của họ.
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Thái Lan trong thời gian qua có xu hướng tập trung
vào các ngành chế tạo, đặc biệt là linh kiện ô tô. Trong khi đó, đầu tư tư nhân ở Thái Lan lại không
tăng lên, thậm chí tỷ lệ đầu tư tư nhân trong GDP của Thái Lan đã giảm xuống và chủ yếu chảy vào
lĩnh vực xây dựng dân dụng chứ không vào lĩnh vực chế tạo, vốn là động lực và thế mạnh của nền
kinh tế Thái Lan. Nền công nghiệp Thái Lan chủ yếu vẫn là gia công và lắp ráp, chưa làm chủ được
công nghệ mà vẫn chủ yếu phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài.
Cùng với sự phát triển khu vực FDI, xuất khẩu của Thái Lan sang khu vực Đông Á đã tăng lên nhanh
12
chóng và sản phẩm của Thái Lan đã chuyển dịch lên phía trên của chuỗi giá trị. Tuy nhiên, tiền lương
của khu vực FDI ở Thái Lan cũng đã tăng lên nhanh chóng làm xói mòn lợi thế so sánh của nước này
so với sự vươn lên của các nước trong khu vực khác như Trung Quốc và Việt Nam.
Hiện nay, Thái Lan đang “mắt kẹt” trong sức ép từ các nước xuất khẩu hàng hóa thâm dụng lao động giá
rẻ cũng như hàng công nghệ cao từ các nước phát triển cao. Nhiều nhà đầu tư đã không tiếp tục đầu tư
vào các ngành có sức cạnh tranh trước đây và thực hiện chiến lược “Thái Lan + 1” để chuyển dần cơ sở
sản xuất sang các nước có lợi thế cạnh tranh hơn. Trong khi đó, cơ hội đầu tư vào các ngành mới đã bị
thu hẹp lại bởi sự cạnh tranh của Trung Quốc. Chính vì vậy, theo Ủy ban đầu tư Thái Lan (BOI), đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) trong năm 2013 của Thái Lan đạt khoảng 900 tỷ baht, thấp hơn nhiều so với
con số đăng ký gần 1.500 tỷ bah