Hướng dương (Helianthus annuusL.) có nguồn gốc từ Bắc Mỹ(Putnam và cs.,1990). Loài cây trồng này có lẽ đã đi từ Mexico sang Tây Ban Nha, và từ đó đến các nơi của châu Âu. Người Nga phát triển hai giống hướng dương Mammoth Russian và Russian Giant để cung cấp hạt, năm 1893 đưa trở lại USA(Stevens, 2006). Tuy nhiên, phải đến khi phát hiện ra hệ thống gen bất thụ đực và gen phục hồi thì các dòng lai mới trở nên khả thi và làm tăng mối quan tâm về mặt thương mại lên hướng dương(Putnam và cs., 1990)
20 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 7774 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng quan về cây hướng dương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Luận văn Thạc sĩ GVHD: PGS. TS. Bùi Văn Lệ
HV: Lê Thị Trang Nhã Trang 2
1.1. CÂY HƯỚNG DƯƠNG
1.1.1. Vị trí phân loại
Ngành Magnoliophyta
Lớp Magnoliopsida
Bộ Asterales
Họ Asteraceae
Chi Helianthus
Loài Helianthus annuus L.
1.1.2. Nguồn gốc và phân bố
Hướng dương (Helianthus annuus L.) có nguồn gốc từ Bắc Mỹ (Putnam và cs.,
1990). Loài cây trồng này có lẽ đã đi từ Mexico sang Tây Ban Nha, và từ đó đến
các nơi của châu Âu. Người Nga phát triển hai giống hướng dương Mammoth
Russian và Russian Giant để cung cấp hạt, năm 1893 đưa trở lại USA (Stevens,
2006). Tuy nhiên, phải đến khi phát hiện ra hệ thống gen bất thụ đực và gen phục
hồi thì các dòng lai mới trở nên khả thi và làm tăng mối quan tâm về mặt thương
mại lên hướng dương (Putnam và cs., 1990).
Tên Helianthus có xuất xứ từ tiếng Hy Lạp “helios anthos”, nghĩa là “hoa mặt
trời”. Tên loài annuus nghĩa là “hàng năm” (Stevens, 2006).
Hướng dương được trồng nhiều ở những vùng bán khô hạn của thế giới, từ
Argentina tới Canada và từ Trung Phi đến Liên Xô cũ (Putnam và cs., 1990).
1.1.3. Đặc tính sinh học
1.1.3.1. Đặc điểm hình thái
Hướng dương là cây hàng năm với một rễ cái to và nhiều rễ phụ lan rộng. Thân
thẳng và nhám, nhiều lông, cao từ 0,6 – 3 m. Ban đầu, thân hướng dương có dạng
tròn, sau đó trở nên góc cạnh hơn và có chất gỗ, thường không phân nhánh. Lá
rộng, mọc xen kẽ, hình trứng hay tam giác, có răng cưa hoặc không (Putnam và cs.,
1990; Stevens, 2006).
Hoa hướng dương không phải là một hoa đơn độc như tên gọi của nó mà là tập
hợp gồm 1000 đến 2000 bông hoa nhỏ đính chung trên một đế hoa gọi là cụm hoa
Luận văn Thạc sĩ GVHD: PGS. TS. Bùi Văn Lệ
HV: Lê Thị Trang Nhã Trang 3
đầu. Cụm hoa đầu có đường kính 7,5 – 15 cm và ở tận cùng của nhánh. Các hoa
xung quanh vòng tròn là hoa bìa (disk flower), có cánh nhưng không có nhị và
nhụy. Các hoa còn lại là hoa hoàn chỉnh (đầy đủ nhị và nhụy), gọi là hoa đĩa. Sự nở
hoa bắt đầu từ ngoại vi và lan dần vào trung tâm cụm hoa (Putnam và cs., 1990;
Stevens, 2006).
1.1.3.2. Điều kiện sống
a. Nhiệt độ
Hướng dương chịu được cả nhiệt độ thấp và cao nhưng chịu đựng tốt hơn ở
nhiệt độ thấp. Hạt có thể nảy mầm ở 40C, nhưng nhiệt độ tối thiểu từ 8 đến 100C cần
thiết cho sự nảy mầm hoàn chỉnh. Hạt không bị ảnh hưởng bởi sự thọ hàn trong các
giai đoạn sớm của quá trình nảy mầm. Cây con trong giai đoạn lá mầm vẫn sống sót
ở nhiệt độ thấp hơn – 50C. Nhiệt độ băng giá vào các giai đoạn sau có thể làm hại
cây. Nhiệt độ dưới – 20C có thể làm chết cây hướng dương trưởng thành.
Nhiệt độ thích hợp để tăng trưởng là 21 đến 260C , nhưng quãng nhiệt độ rộng
hơn (18 đến 330C) không ảnh hưởng nhiều đến năng suất cây trồng. Nhiệt độ cao
làm giảm hàm lượng tinh dầu, chất lượng và sự nảy mầm của hạt (Putnam và cs.,
1990).
b. Ánh sáng
Hướng dương rất ưa nắng, không nhạy cảm với ngày dài, và quang kỳ dường
như không quan trọng trong việc lựa chọn ngày gieo trồng hay khu vực sản xuất
trong vùng ôn đới Bắc Mỹ (Putnam và cs., 1990).
c. Nước
Hướng dương là cây dùng nước không hiệu quả. Lượng nước thoát ra của phần
nằm trên mặt đất trên mỗi gram trọng lượng khô là 577 (g H2O/g DM), so với 349 ở
bắp và 304 ở cây lúa miến.
Hướng dương không phải là loài chịu hạn cao nhưng rễ cái phân nhánh rộng của
nó xâm nhập đến 2m trong lòng đất, giúp cho cây vượt qua stress nước. Thời kỳ tới
hạn (khủng hoảng) đối với stress nước là 20 ngày trước và sau khi hoa nở. Nếu gây
Luận văn Thạc sĩ GVHD: PGS. TS. Bùi Văn Lệ
HV: Lê Thị Trang Nhã Trang 4
stress trong thời kỳ này, khi tưới lại sẽ làm tăng sản lượng, hàm lượng tinh dầu và
trọng lượng, nhưng làm giảm hàm lượng protein.
Hệ thống tưới tiêu đầy đủ cho đất rất cần thiết trong việc trồng hướng dương,
nhưng loài cây trồng này không có khả năng chịu ngập (Putnam và cs., 1990).
d. Đất
Hướng dương có thể sinh trưởng trên cả đất cát và đất sét. Cây không nhạy cảm
cao với pH, thích hợp với đất có pH từ 5,7 đến 8,0. Khả năng chịu mặn thấp nhưng
tốt hơn đậu nành.
Nhu cầu khoáng đa lượng của hướng dương không cao bằng bắp, lúa mì hay
khoai tây. Cũng như những cây trồng ngũ cốc khác (ngoài đậu), nitrogen là yếu tố
đầu tiên giới hạn sản lượng. Rơm khô từ hướng dương chứa phần lớn các yếu tố
này, điều này có nghĩa hướng dương sử dụng đạm không hiệu quả. Tuy nhiên, phần
lớn khoáng này được trả lại vào đất thông qua rơm.
Phân bón đạm có xu hướng làm giảm hàm lượng dầu trong hạt, thay đổi cân
bằng amino acid và làm tăng diện tích lá. Ở vùng khô hạn, người ta bón phân đạm
bằng cách ước tính hàm lượng nitrate nitrogen trong đất. Ở vùng ẩm ướt, điều này
được thực hiện dựa trên chất hữu cơ trong đất và tiền sử mùa vụ trước. Nếu mùa
trước là đất bỏ hoang hay trồng cây họ đậu thì cần khoảng 18 lb N/acre, đậu nành
hay ngũ cốc thì cần 60 lb N/acre và nếu mùa trước trồng bắp hay củ cải đường thì
mùa này cần 80 – 100 lb N/acre. Trên đất có hàm lượng hữu cơ cao nên giảm lượng
nitrogen. Bổ sung lân và kali vào các luống trồng có thể giúp hướng dương tối đa
hóa hiệu quả sử dụng phân bón như các loài khác (Putnam và cs., 1990).
1.1.4. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển
1) Giai đoạn nảy mầm: (ảnh 1.1)
Hạt nảy mầm thành cây con với lá đầu tiên trên hai lá mầm dài không quá 4 cm.
2) Giai đoạn sinh dưỡng (Vegetative): (ảnh 1.2)
Giai đoạn này được xác định bằng cách đếm số lá thật dài ít nhất 4 cm, bắt đầu
là V1 rồi đến V2, V3, V4… Nếu các lá bên dưới lão suy thì đếm vết lá để lại trên
cây (ngoại trừ vết lá mầm) để xác định giai đoạn thích hợp.
Luận văn Thạc sĩ GVHD: PGS. TS. Bùi Văn Lệ
HV: Lê Thị Trang Nhã Trang 5
3) Giai đoạn sinh sản (Reproduction):
R1 – Chồi đỉnh hình thành một đầu hoa nhỏ, không phải một nhóm lá như bình
thường. Khi nhìn từ trên xuống, các lá bắc còn non tạo thành dạng sao với rất
nhiều đầu nhọn (ảnh 1.3).
R2 – Các chồi hoa non kéo dài, khoảng cách từ chồi hoa đến lá gần nhất còn
đính với thân là 0,5 – 2 cm, không kể những lá đính trực tiếp bên dưới chồi
(ảnh 1.4).
R3 – Chồi hoa non gia tăng khoảng cách hơn 2 cm so với lá gần nhất (ảnh 1.5).
R4 – Hoa bắt đầu nở. Khi nhìn từ trên cao có thể thấy các hoa bìa chưa trưởng
thành (ảnh 1.6).
R5 – Giai đoạn này là sự khởi đầu nở hoa, có thể chia thành các giai đoạn nhỏ
tuỳ thuộc vào tỷ lệ hoa (hoa đĩa) đã nở hoàn toàn hay đang nở (ảnh 1.7).
R6 – Hoa nở hoàn toàn và hoa bìa bắt đầu héo (ảnh 1.8).
R7 – Đế hoa bắt đầu chuyển sang màu vàng nhạt (ảnh 1.9).
R8 – Đế hoa màu vàng nhưng lá bắc vẫn còn xanh (ảnh 1.10).
R9 – Lá bắc chuyển sang vàng nâu. Giai đoạn này xem như đã trưởng thành về
mặt sinh lý (ảnh 1.11).
1.1.5. Cấu trúc hoa
Cây thuộc họ Cúc thu nhỏ và đơn giản hóa mỗi hoa. Hoa thật ra gồm hàng trăm
hoa đơn cùng hội tụ trên một đế hoa. Có hai loại hoa đơn là hoa đĩa và hoa bìa. Tùy
vào điều này mà người ta phân cây họ Cúc ra làm ba dạng cụm hoa đầu như sau:
1) Cụm hoa đầu chỉ có hoa bìa như bồ công anh, rau diếp.
2) Cụm hoa đầu chỉ có hoa đĩa như cây cỏ lào, cứt lợn, cây kế, ngưu bàng.
3) Cụm hoa đầu có cả hoa đĩa và hoa bìa, với hoa đĩa nhóm sát nhau tạo thành
“mắt hoa” ở vùng trung tâm, trong khi hoa bìa lớn hơn có chức năng như cánh hoa
hướng ra ngoài. Ví dụ: hướng hương, cúc tây, cúc mắt áo, thược dược, cúc zinnia
(hình 1.1).
Trên một cụm hoa đầu, thông thường mỗi chiếc hoa hướng về phía chiếc kế tiếp
theo một góc xấp xỉ bằng góc vàng (khoảng 137,50). Góc vàng là góc tạo thành bởi
Luận văn Thạc sĩ GVHD: PGS. TS. Bùi Văn Lệ
HV: Lê Thị Trang Nhã Trang 6
hai bán kính của một vòng tròn (ví dụ vòng tròn C), chia vòng tròn ra làm hai phần
A và B sao cho tỷ lệ A/B bằng B/C (tỷ lệ vàng). Các bông hoa nhỏ này tạo thành
những vòng xoắn ốc lồng vào nhau, trong đó số các vòng xoắn trái và số các vòng
xoắn phải là các số kế tiếp trong dãy Fibonacci. Dãy Fibonacci là một dãy các số
mà trong đó số phía sau là tổng của hai số trước. Chẳng hạn, trên một bông hoa
hướng dương người ta có thể thấy 21 vòng xoắn phải và 34 vòng xoắn trái
(Rehmeyer, 2007).
Cụm hoa đầu thuộc họ Cúc mang các lá bắc giống như vảy, thường xanh và
chồng lên nhau. Lá bắc là các lá đã biến đổi. Trong họ Cúc, lá bắc rất quan trọng.
Các lá bắc tập trung lại thành một tổng bao.
Ngoài các lá bắc xung quanh cụm hoa đầu, một số hoa thuộc họ Cúc còn có lá
bắc nhỏ dạng vảy, nhạt màu và không dễ thấy, liên kết với các hoa đơn ngay trên đế
hoa.
Hoa đĩa hay hoa bìa đều có từ 4-5 nhị hoa và chúng dính với bao phấn tạo thành
một hình trụ xung quanh vòi nhuỵ.
Mỗi loại hoa có một vòi nhuỵ giống như sợi chỉ đi từ vòng bao phấn đến hai
thuỳ dài của nuốm nhuỵ vươn ra khi hoa nở. Bầu nhuỵ nằm dưới vị trí liên kết của
đài hoa và cánh hoa, gọi là bầu noãn hạ.
Nhuỵ hoa phát triển thành quả. Bầu noãn hạ chuyển thành quả bế. Hạt của hoa
hướng dương thực chất là quả bế với chỉ một hạt.
Ở đỉnh quả bế của cây họ Cúc, đài hoa được tiết giảm trở thành bộ phận tỏa tia
gọi là mào lông. Các mào lông trên quả bế trưởng thành sẽ đóng vai trò như chiếc
dù, giúp quả bay theo gió đến vùng đất mới.
Mào lông là một trong những đặc điểm quan trọng nhất cùa hoa thuộc họ cúc.
Có rất nhiều dạng mào lông khác nhau. Ở Bidens bipinnata, mào lông được tăng độ
cứng bởi các ngạnh (gai) để có thể dính vào lông thú hay quần áo của người đi
đường. Mào lông của hướng dương bao gồm hai vảy sắc sẽ rơi xuống khi quả
trưởng thành. Các loại kế thông thường có tơ mềm tụ lại thành vòng ở đế. Nhiều
loài hoa khác không có mào lông (Conrad, 2007).
Luận văn Thạc sĩ GVHD: PGS. TS. Bùi Văn Lệ
HV: Lê Thị Trang Nhã Trang 7
1.1.6. Tính hướng dương
Hoa Hướng dương trong giai đoạn nụ, chưa trưởng thành, biểu lộ tập tính hướng
dương (hướng theo mặt trời). Khi mặt trời mọc vào buổi sáng, phần lớn hoa hướng
về phía đông; và theo hành trình của một ngày, vào những ngày nhiều nắng, các nụ
hoa theo hành trình của mặt trời di chuyển từ đông sang tây.
Cơ chế của hiện tượng này ở hoa chưa được làm rõ. Tuy nhiên, cử động hướng
về mặt trời của lá đã được biết đến đầu tiên bởi Charles Darwin trong quyển “The
Power of Movement in Plants” của ông vào năm 1880. Theo đó, hiện tượng này có
thể xảy ra nhanh chóng và đảo nghịch. Ở cây sen cạn, một cơ quan đặc biệt ở gốc lá
– thể gối – liên tục hướng mặt lá thẳng góc với các tia mặt trời, tối đa hóa sự nhận
ánh sáng dùng cho quang hợp. Các thể gối có hai loại tế bào gấp và duỗi, phình ra
hay co lại với những thay đổi của áp suất trương (xác định bằng lượng nước trong tế
bào). Khi tế bào duỗi phình ra và tế bào gấp co lại, phiến lá được quay hướng theo
đường đi của mặt trời.
Tính hướng dương còn liên quan đến auxin – hormone thúc đẩy tăng trưởng ở
thực vật. Auxin di chuyển tránh xa nguồn sáng và tích tụ về phía tối của thân. Tại
đây, auxin khiến các tế bào dài ra nhanh hơn phía sáng, dẫn đến sự cong cuống hoa
(Galen, 1999).
1.1.7. Giá trị sử dụng
Hoa hướng dương thường được dùng để trang trí bởi vẻ đẹp rực rỡ của nó.
Ngoài ra, hướng dương còn là một trong ba cây lấy dầu quan trọng nhất, bên cạnh
đậu nành (Glycine max L.) và cải dầu (Brassica napus L.). Hàm lượng dầu trung
bình trong hạt là 40 – 50% (tính cả vỏ hạt) và 50 – 60% (không tính vỏ), trong đó
hơn 90% là acid oleic và acid linoleic. Hàm lượng protein trung bình trong hạt là 20
– 30%. Tinh dầu hướng dương được dùng trong nhiều lĩnh vực như thực phẩm, mỹ
phẩm, dược phẩm… Theo USDA (2006), các thành phần của hướng dương có thể
dùng để trị các bệnh về phổi, thận, da liễu, thấp khớp, hạ sốt, trị các vết thương
ngoài da, vết rắn cắn hay kích thích ngon miệng. Bên cạnh đó, hướng dương còn
Luận văn Thạc sĩ GVHD: PGS. TS. Bùi Văn Lệ
HV: Lê Thị Trang Nhã Trang 8
được dùng làm chất nhuộm hay tham gia vào công nghiệp sợi, công nghiệp giấy và
xua đuổi côn trùng (Stevens, 2006).
Ảnh 1.1: Giai đoạn nảy mầm
ở hướng dương
Ảnh 1.2: Giai đoạn sinh dưỡng
ở hướng dương
(Ảnh 1.1 đến 1.11: Nguồn Schneiter A.A. và J.F. Miller, 1981)
Ảnh 1.3: Giai đoạn sinh sản R1 – khởi đầu ra hoa ở hướng dương
Luận văn Thạc sĩ GVHD: PGS. TS. Bùi Văn Lệ
HV: Lê Thị Trang Nhã Trang 9
Ảnh 1.4: Giai đoạn sinh sản R2 ở hướng dương – khoảng cách từ cụm hoa đến lá
gần nhất nhỏ hơn 2 cm (A: phương ngang, B: phương thẳng đứng)
Ảnh 1.5: Giai đoạn sinh sản R3 ở hướng dương – khoảng cách từ cụm hoa đến lá
gần nhất lớn hơn 2 cm (A: phương ngang, B: phương thẳng đứng)
Ảnh 1.6: Giai đoạn sinh sản R4 ở hướng dương – các hoa bìa xuất hiện (A) và bắt
đầu nở (B)
A B
B A
A B
Luận văn Thạc sĩ GVHD: PGS. TS. Bùi Văn Lệ
HV: Lê Thị Trang Nhã Trang 10
Ảnh 1.7: Giai đoạn sinh sản R5 ở hướng dương – các hoa đĩa lần lượt nở từ ngoài
vào trong (A: hoa nở 10%, B: hoa nở 50%, C: Hoa nở 90%)
Ảnh 1.8: Giai đoạn sinh sản R6 ở
hướng dương – hoa nở hoàn toàn và
hoa đĩa bắt đầu héo
Ảnh 1.9: Giai đoạn sinh sản R7 ở
hướng dương - đế hoa bắt đầu chuyển
sang màu vàng nhạt
C
B A
Luận văn Thạc sĩ GVHD: PGS. TS. Bùi Văn Lệ
HV: Lê Thị Trang Nhã Trang 11
Ảnh 1.10: Giai đoạn sinh sản R8 ở
hướng dương – đế hoa màu vàng
nhưng lá bắc vẫn còn xanh
Ảnh 1.11: Giai đoạn sinh sản R9 ở
hướng dương – lá bắc chuyển sang
màu vàng
Hình 1.1: Cấu trúc một cụm hoa đầu hướng dương (Putt, 1940)
Luận văn Thạc sĩ GVHD: PGS. TS. Bùi Văn Lệ
HV: Lê Thị Trang Nhã Trang 12
1.2. SỰ RA HOA TRONG TỰ NHIÊN
Sự tạo hoa thường trải qua hai giai đoạn: tượng hoa và tăng trưởng hoa. Trong
đó, tượng hoa là giai đoạn chuyển tiếp từ chồi sinh dưỡng sang chồi sinh dục, sinh
mô vô hạn định trở thành sinh mô hạn định và biệt hóa thành cơ quan hoa. Sự tăng
trưởng hoa được đánh dấu bằng hiện tượng xuất hiện nụ hoa và nở hoa.
Sự tạo hoa chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố:
- Yếu tố nội sinh (trạng thái biến dưỡng thực vật): tuổi, hoạt động của các bộ
phận cơ thể và mối quan hệ giữa chúng, nhịp sinh học.
- Yếu tố ngoại sinh (môi trường): quang kỳ, loại ánh sáng, nhiệt độ, stress vô
sinh, stress sinh học.
Khi sự tượng hoa hoàn thành, nụ hoa có thể tiếp tục tăng trưởng và nở nhưng
cũng có thể rơi vào trạng thái ngủ.
1.2.1. Sự tượng hoa
1.2.1.1. Yếu tố ngoại sinh
a. Dinh dưỡng
Thông thường, dinh dưỡng giàu đạm kích thích phát triển dinh dưỡng; ngược
lại, dinh dưỡng giàu carbon kích thích sự ra hoa. Do đó, có thể nói tỷ lệ C/N liên
quan đến chất tạo sự ra hoa. Ở Arabidopsis, thứ Ler tăng trưởng trong tối sẽ ra hoa
khi số lá bằng số lá của cây ra hoa trong điều kiện ngày dài nếu đỉnh chồi tiếp xúc
với môi trường có đường. Vì vậy, bổ sung sucrose cho các cây thuộc kiểu sinh thái
ra hoa muộn sẽ giúp cây vượt qua tác động ức chế ra hoa do các allele trội
FLOWERING LOCUS C (FLC) và FRIRIDA (FRI) điều khiển (Bùi Trang Việt,
2002; Levy và cs, 2008).
b. Nước
Đối với một số loài, sau một thời gian thiếu nước ngắn ở cây trưởng thành, khi
được cung cấp nước trở lại, cây sẽ vào giai đoạn tạo hoa. Ví dụ, đối với cam quýt,
gây stress nước liên tục hoặc theo chu kỳ 4-5 tuần ở mức độ vừa phải (-2.25 MPa)
hoặc khắc nghiệt (-3.5 MPa) đều cảm ứng sự ra hoa. Gây stress nước liên tục và
khắc nghiệt cảm ứng sự ra hoa dễ dàng hơn. Ngược lại, nghiên cứu trên một loại ớt
Luận văn Thạc sĩ GVHD: PGS. TS. Bùi Văn Lệ
HV: Lê Thị Trang Nhã Trang 13
Venezuela, các kết quả cho thấy hạn chế nước trước khi nở hoa làm giảm số lượng
hoa được tạo thành và làm chậm sự nở hoa tối đa (Southwick và cs., 1986; Jaimez
và cs., 2000).
c. Nhiệt độ
Ở một số loài, cây cần trải qua một thời gian lạnh nhất định để trổ hoa. Thời kỳ
này gọi là thời kỳ thọ hàn, là thời gian khởi xướng ra hoa sau khi phơi lạnh. Sau
thời kỳ này, thực vật sẽ đạt được hay phát triển khả năng tạo hoa.
Phân loại thực vật theo thọ hàn:
- Cây cần thọ hàn tuyệt đối (cây dạng hoa hồng): lưỡng niên (cải đường, cà
rốt), đa niên (Lolium).
- Cây cần thọ hàn không bắt buộc (không cần thọ hàn cây vẫn ra hoa nhưng sẽ
ra hoa sớm hơn nếu xử lý thọ hàn): ví dụ lúa mạch đen Petkus ra hoa khi có 7 lá
nếu hạt được thọ hàn, nhưng cần 16-25 lá nếu không được thọ hàn.
- Cây không cần thọ hàn: cây một năm không qua mùa đông, cây đa niên
tượng hoa trước mùa đông (Bùi Trang Việt, 2002).
Yêu cầu về sự thọ hàn:
- Thọ hàn là một quá trình chậm và được xác định rõ thời gian cảm ứng
(thường 2 – 8 tuần ở 40C), nhưng đòi hỏi có các hoạt động biến dưỡng. Thời
gian xử lý thọ hàn tùy theo loài và có tính cộng gộp. Số lượng hoa được tạo ra
tăng theo thời gian xử lý.
- Nhiệt độ xử lý thọ hàn tùy từng loài thực vật nhưng phải trên nhiệt độ đông
đặc (thường 0 – 70C). Sau khi xử lý thọ hàn không được đưa lên nhiệt độ cao
quá vì sự thọ hàn sẽ bị khử.
- Ảnh hưởng của thọ hàn không di truyền cho thế hệ sau. Do đó, thế hệ con
muốn có sự cảm ứng ra hoa từ thọ hàn cũng phải trải qua thời kì xử lý lạnh.
d. Quang kỳ
Quang kỳ là sự xen kẽ giữa sáng và tối trong 24 giờ. Thực vật đáp ứng với
quang kỳ gọi là quang kỳ tính, nghĩa là phản ứng của thực vật đối với độ dài tương
đối của ngày và đêm.
Luận văn Thạc sĩ GVHD: PGS. TS. Bùi Văn Lệ
HV: Lê Thị Trang Nhã Trang 14
Phân loại thực vật theo quang kỳ:
- Cây ngày dài (CND): trổ hoa khi thời gian chiếu sáng dài hơn thời gian tới
hạn Pc. Ví dụ: hoa dền, dâm bụt, hoa phượng…
- Cây ngày ngắn (CNN): trổ hoa khi thời gian chiếu sáng ngắn hơn thời gian
tới hạn Pc. Ví dụ: hoa cúc, mào gà, đậu nành, thuốc lá…
- Cây phiếm định (bất định): trổ hoa ở bất cứ quang kỳ nào. Ví dụ: cà chua,
thuốc lá, đậu phộng…
- Ngoài ra còn có cây nhạy cảm với quang kỳ ngày ngắn – ngày dài hay ngày
dài – ngày ngắn do cần hai quang kỳ cảm ứng liên tiếp nhau mới trổ hoa.
Yêu cầu về quang kỳ:
- Cây phải được giữ trong các điều kiện quang kỳ cố định trong một hay nhiều
chu kỳ liên tiếp tùy loại thực vật mới trổ hoa được.
- Thuật ngữ quang kỳ dễ khiến ta nhấn mạnh vai trò của giai đoạn sáng. Thật
ra, giai đoạn tối (dạ kỳ) mới thật sự quan trọng. Dạ kỳ phải liên tục và nghiêm
ngặt. Chỉ cần một chớp sáng cũng có thể gỡ bỏ ảnh hưởng của dạ kỳ. Sự gián
đoạn đêm bởi những cường độ chiếu sáng thấp ở 7-9 giờ sau khi bắt đầu giai
đoạn tối (thời điểm nhạy cảm tối đa đối với sự gián đoạn đêm) có thể đảo ngược
phản ứng ra hoa (Bùi Trang Việt, 2002).
1.2.1.2. Yếu tố nội sinh
a. Tuổi sinh lý
Sự ra hoa là bước chuyển tiếp quan trọng trong đời sống thực vật. Tuy nhiên,
cây sẽ không ra hoa hay đáp ứng với những kích thích môi trường giúp ra hoa cho
đến khi chúng đã hoàn thành các giai đoạn dinh dưỡng nhất định, nghĩa là vượt qua
giai đoạn ấu niên và đạt đến “độ chín để ra hoa” (đủ trưởng thành để ra hoa).
Tuổi ra hoa lần đầu tiên khác nhau ở mỗi loài có thể do sự khác nhau về độ dài
của thời kỳ ấu niên. Các thực vật sống ở vĩ độ thấp, nơi mà sự khác biệt giữa chiều
dài ngày và nhiệt độ theo mùa không đáng kể, chỉ ra hoa khi đạt được một kích
thước nhất định. SAM (Shoot Apical Meristem – mô phân sinh ngọn chồi) trước khi
ra hoa là sinh mô không hạn định. SAM có thể tạo ra nhiều đốt dinh dưỡng và duy
Luận văn Thạc sĩ GVHD: PGS. TS. Bùi Văn Lệ
HV: Lê Thị Trang Nhã Trang 15
trì trạng thái dinh dưỡng không xác định nếu được cắt và tạo rễ. Tuy nhiên, khi cây
đã đạt được kích thước nhất định, SAM có thể tạo mô sinh sản và trở thành sinh mô
hạn định. Nếu cắt ngọn và tạo rễ lúc này, chỉ một vài đốt sinh dưỡng được tạo ra
trước khi ra hoa (Opik, 2005).
Hình 1.2: Cảm ứng ra hoa ở cây thuốc lá Wincousin được điều khiển bởi số lượng
phytomere (Opik, 2005)
(A) Cắt ngọn và tạo rễ khi cây chưa đạt đủ số lượng đốt (phytomer), cây
tiếp tục tăng trưởng dinh dưỡng.
(B) Cắt ngọn và tạo rễ khi cây đạt gần đủ số lượng đốt (phytomer), cây
tăng trưởng thêm một vài lóng và tạo hoa.
b. Đồng hồ sinh học
Cảm ứng quang kỳ tương tác với một nhịp nội tại của thực vật, tồn tại ngay cả
khi được đặt trong điều kiện cố định. Nhịp này được gọi là nhịp sinh học và tồn tại
ở nấm mốc, thực vật, côn trùng và con người. Nh