Tính đa dạng của nền văn hoá Việt Nam đƣợc thể hiện bằng những giá
trị văn hoá đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc anh em. Trong nền văn hoá đa
dạng mà thống nhất ấy, những giá trị văn hoá của cộng đồng các dân tộc ít
ngƣời có vị trí quan trọng. Với điều kiện địa lí tự nhiên khác nhau, mỗi dân
tộc đã tìm ra phƣơng thức ứng xử thiên nhiên khác nhau, hình thành tập quán
sản xuất. Đây có thể đƣợc coi là một lâu đài văn hóa đồ sộ của mỗi tộc
ngƣời, là sản phẩm đƣợc tích lũy, chắt lọc qua hàng ngàn năm lịch sử, tạo
nên bản sắc văn hóa dân tộc, làm thành chuẩn mực để phân biệt dân tộc này
với dân tộc khác. Tuy nhiên, hiện nay, những giá trị văn hoá đã bị mai một,
thậm chí biến mất. Yêu cầu đặt ra là phải có biện pháp giữ gìn, phát huy
những di sản văn hoá đó.
Lục Nam là một huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang với 8 dân tộc anh
em sinh sống, trong đó ngƣời Dao cƣ trú chủ yếu ở 4 xã Lục Sơn, Bình Sơn,
Vô Tranh, Trƣờng Sơn. Quá trình đấu tranh lâu dài với thiên nhiên, lao động
sản xuất để sinh tồn đã hình thành những kinh nghiệm sản xuất và đƣợc
truyền từ đời này sang đời khác tạo nên bản sắc văn hoá của ngƣời Dao nơi
đây. Tuy nhiên, để hội nhập và phát triển, việc thay đổi tập quán sản xuất và
áp dụng khoa học kĩ thuật mới là yêu cầu cấp thiết đối với nông nghiệp của
ngƣời Dao ở Lục Nam. Trong số kĩ thuật mới đƣợc áp dụng có những kĩ thuật
đem lại hiệu quả sản xuất, nhƣng cũng có kĩ thuật không phù hợp với đặc thù
về nơi cƣ trú, về tập quán và tổ chức xã hội. Điều đó cho thấy tập quán sản
xuất nông nghiệp của đồng bào dân tộc Dao ở Lục Nam có những điểm tích
cực cần đƣợc phát huy.
98 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1850 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của người Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tính đa dạng của nền văn hoá Việt Nam đƣợc thể hiện bằng những giá
trị văn hoá đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc anh em. Trong nền văn hoá đa
dạng mà thống nhất ấy, những giá trị văn hoá của cộng đồng các dân tộc ít
ngƣời có vị trí quan trọng. Với điều kiện địa lí tự nhiên khác nhau, mỗi dân
tộc đã tìm ra phƣơng thức ứng xử thiên nhiên khác nhau, hình thành tập quán
sản xuất. Đây có thể đƣợc coi là một lâu đài văn hóa đồ sộ của mỗi tộc
ngƣời, là sản phẩm đƣợc tích lũy, chắt lọc qua hàng ngàn năm lịch sử, tạo
nên bản sắc văn hóa dân tộc, làm thành chuẩn mực để phân biệt dân tộc này
với dân tộc khác. Tuy nhiên, hiện nay, những giá trị văn hoá đã bị mai một,
thậm chí biến mất. Yêu cầu đặt ra là phải có biện pháp giữ gìn, phát huy
những di sản văn hoá đó.
Lục Nam là một huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang với 8 dân tộc anh
em sinh sống, trong đó ngƣời Dao cƣ trú chủ yếu ở 4 xã Lục Sơn, Bình Sơn,
Vô Tranh, Trƣờng Sơn. Quá trình đấu tranh lâu dài với thiên nhiên, lao động
sản xuất để sinh tồn đã hình thành những kinh nghiệm sản xuất và đƣợc
truyền từ đời này sang đời khác tạo nên bản sắc văn hoá của ngƣời Dao nơi
đây. Tuy nhiên, để hội nhập và phát triển, việc thay đổi tập quán sản xuất và
áp dụng khoa học kĩ thuật mới là yêu cầu cấp thiết đối với nông nghiệp của
ngƣời Dao ở Lục Nam. Trong số kĩ thuật mới đƣợc áp dụng có những kĩ thuật
đem lại hiệu quả sản xuất, nhƣng cũng có kĩ thuật không phù hợp với đặc thù
về nơi cƣ trú, về tập quán và tổ chức xã hội. Điều đó cho thấy tập quán sản
xuất nông nghiệp của đồng bào dân tộc Dao ở Lục Nam có những điểm tích
cực cần đƣợc phát huy. Việc nghiên cứu về những tri thức dân gian trong sản
xuất nông nghiệp sẽ giúp các cơ quan quản lý có thêm cơ sở để giải quyết tốt
vấn đề trên, nhằm tạo ra sự phát triển nông nghiệp bền vững, góp phần xây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của tộc ngƣời Dao ở Lục
Nam tỉnh Bắc Giang.
Với những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Tri thức dân gian trong
sản xuất nông nghiệp của người Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của người Dao ở
huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang đã đƣợc nhiều nhà khoa học nghiên cứu ở các
góc độ khác nhau. Trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục của tác giả Lê Quí Đôn
viết năm 1778 đã đề cập tới ngƣời Man (ngƣời Dao) về phong tục tập quán và
địa vực cƣ trú của họ. Đây là cơ sở để làm rõ tên gọi, những nét cơ bản về văn
hóa và địa bàn cƣ trú của dân tộc Dao ở nƣớc ta cũng nhƣ trên địa bàn huyện
Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
Năm 1971, chuyên khảo công phu về ngƣời Dao của Viện dân tộc học
xuất bản với nhan đề “Người Dao ở Việt Nam” đã nghiên cứu một cách tổng
thể về ngƣời Dao ở nƣớc ta về nhiều mặt nhƣ nguồn gốc ngƣời Dao, đời sống
vật chất và tinh thần của các nhóm ngƣời Dao sống ở nƣớc ta.
Bài viết Bước đầu tìm hiểu các nhóm Dao ở Việt Nam (Nguyễn Khắc
Tụng, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 87/1996) và đề tài nghiên cứu Trang
phục cổ truyền của người Dao ở Việt Nam (Nông Quốc Tuấn, Bảo tàng văn
hóa các dân tộc Việt Nam, năm 2000) đã làm rõ đƣợc cách phân biệt các
nhóm Dao ở Việt Nam qua trang phục của ngƣời phụ nữ. Các công trình đề
cập tới sự phân bố các nhóm Dao ở nƣớc ta, đây lại là một bằng chứng nữa để
phân biệt các nhóm Dao và địa bàn cƣ trú của họ trong đó có ở huyện Lục
Nam, tỉnh Bắc Giang.
Cuốn Lịch sử Lục Nam do Ban thƣờng vụ huyện uỷ Lục Nam tổ chức
biên soạn và xuất bản năm 1994 đã trình bày những nét cơ bản về huyện Lục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Nam và ngƣời Dao sống trên địa bàn. Tác phẩm đề cập tới vị trí địa lí, điều
kiện tự nhiên của huyện Lục Nam. Những nội dung không chỉ đề cập tới nghề
sống chính của dân tộc Kinh chiếm đa số mà còn đề cập tới nghề sống chính
của bộ phận ngƣời Dao ở đây, đó là nghề nông nghiệp. Tác phẩm cho thấy
tầm quan trọng của nông nghiệp trong đời sống của ngƣời Dao nơi đây và đặc
biệt với tầm quan trọng nhƣ vậy họ đã có những cách thức sản xuất nhƣ thế
nào để đảm bảo cuộc sống.
Công trình Địa chí Bắc Giang - Địa lí và kinh tế, do Sở văn hoá thông
tin Bắc Giang phối hợp với Trung tâm UNESCO thông tin tƣ liệu lịch sử và
văn hoá Việt Nam, (năm 2003), đã giới thiệu về dân tộc Dao ở Bắc Giang từ
địa vực cƣ trú, truyền thống văn hoá đến tập quán canh tác.
Các công trình Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2003) và Lịch sử
Đảng bộ huyện Lục Nam (2003) đã giới thiệu sơ lƣợc về ngƣời Dao nhƣ địa
bàn cƣ trú, tên gọi của các nhóm ngƣời Dao tại địa phƣơng và những truyền
thống của họ trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần. Tác phẩm, là cơ sở
để giải thích và làm rõ quá trình di cƣ và tên gọi các nhóm ngƣời Dao ở huyện
Lục Nam.
Năm 2006, Bảo tàng Bắc Giang xuất bản công trình “Di sản văn hoá
Bắc Giang về Văn hoá phi vật thể”, tác phẩm là sự khái quát về những nét
văn hóa phi vật thể của cộng đồng các dân tộc ở tỉnh Bắc Giang trong đó có
đề cập tới ngƣời Dao về địa bàn cƣ trú, những nét văn hoá tiêu biểu của họ
trong đời sống vật chất và tinh thần. Tác phẩm cũng đã cơ bản giới thiệu
đƣợc những tri thức dân gian của dân tộc Dao ở Bắc Giang trong các lĩnh
vực của đời sống trong đó có những tri thức dân gian liên quan tới lĩnh vực
nông nghiệp.
Những kết quả nghiên cứu trên đây chính là ý kiến gợi mở, nguồn tài
liệu quan trọng giúp tác giả tiếp cận và nghiên cứu đề tài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
3. Đối tƣợng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp
bao gồm các hoạt động trồng trọt và chăn nuôi của dân tộc Dao ở huyện Lục
Nam, tỉnh Bắc Giang trong truyền thống và hiện tại.
Mục đích: Nghiên cứu tri thức dân gian truyền thống và hiện tại
trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam. Nghiên cứu
đó xác định những tri thức nào đã biến đổi, sự biến đổi đó phù hợp hoặc
không phù hợp với điều kiện tự nhiên, môi trƣờng sinh thái và phƣơng thức
canh tác hiện tại. Từ đó, đề xuất hƣớng áp dụng khoa học kĩ thuật có hiệu
quả nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững ngành kinh tế nông nghiệp của
ngƣời Dao ở địa phƣơng.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái quát về vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và nguồn gốc của ngƣời
Dao của huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
- Hệ thống lại những tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của
ngƣời Dao ở huyện Lục Nam trong truyền thống.
- Làm rõ sự biến đổi của tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp
dƣới tác động của các yếu tố nội sinh và ngoại sinh thời điểm hiện nay. Từ đó
đề xuất các giải pháp nhằm phát huy tính tích cực của tri thức dân gian của
ngƣời Dao trong sản xuất nông nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu:
Về mặt không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu các thôn bản có
đông ngƣời Dao sinh sống, đó là 4 xã Lục Sơn, Bình Sơn, Vô Tranh và
Trƣờng Sơn - huyện Lục Nam.
Về mặt thời gian: Nghiên cứu những tri thức dân gian trong sản xuất
nông nghiệp truyền thống và hiện tại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Nguồn tƣ liệu
Nguồn tài liệu chung: Bao gồm một số sách sử và địa chí cổ; các công
trình nghiên cứu, sách, báo, tạp chí đã xuất bản của các nhà khoa học trong và
ngoài nƣớc.
Nguồn tài liệu địa phƣơng: Các công trình nghiên cứu về lịch sử, lịch
sử Đảng bộ và văn hoá tộc ngƣời ở tỉnh Bắc Giang nói chung và huyện Lục
Nam nói riêng.
Nguồn tƣ liệu điền dã: Bao gồm sự quan sát trực tiếp cảnh quan, môi
trƣờng, nguồn tài liệu truyền miệng thông qua phỏng vấn trực tiếp.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp lịch sử nghiên cứu khái quát về huyện Lục Nam, nguồn
gốc tộc ngƣời, các tập quán trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao nơi
đây và những biến đổi của nó trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Phƣơng pháp logic nhằm rút ra những nhận xét, đánh giá khách quan về vấn
đề nghiên cứu, giúp ngƣời đọc có cái nhìn hệ thống và khái quát về những tri
thức trong nông nghiệp của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
Phƣơng pháp điền dã dân tộc học khai thác đƣợc nguồn tƣ liệu thực tế
không đƣợc ghi lại thành văn đồng thời khẳng định tính chính xác của nó.
Ngoài ra, đề tài còn kết hợp với một số phƣơng pháp khác nhƣ so sánh, đối
chiếu, phân tích, tổng hợp các nguồn tƣ liệu liên quan để rút ra những kết luận
khoa học.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn hệ thống đƣợc những tri thức dân gian trong sản xuất nông
nghiệp của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang nhƣ: chọn đất, chọn
giống, lựa chọn thời vụ, cách thức chăm sóc, bảo quản sản phẩm...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Qua nghiên cứu Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của
người Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang làm sáng tỏ sự biến đổi của tri
thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp dƣới tác động của các yếu tố nội
sinh và ngoại sinh. Đây sẽ là cơ sở ý tƣởng cho các công trình nghiên cứu
khoa học sau này.
Luận văn cũng góp phần vào việc giới thiệu bản sắc văn hoá của dân
tộc Dao ở huyện Lục Nam nói riêng và cộng đồng các dân tộc ở tỉnh Bắc
Giang nói chung. Luận văn là nguồn tƣ liệu cho dạy học lịch sử địa phƣơng,
giáo dục tƣ tƣởng tình cảm yêu quê hƣơng, đất nƣớc.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, nội dung chính của luận văn đƣợc chia
thành 3 chƣơng.
Chƣơng 1. Khái quát về huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang.
Chƣơng 2. Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao
ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang trong truyền thống.
Chƣơng 3. Sự biến đổi của tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp
của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang hiện nay.
Cuối cùng là tài liệu tham khảo, phụ lục bao gồm một số bảng biểu và
ảnh minh họa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN LỤC NAM
1.1. Lịch sử hành chính huyện Lục Nam
Vùng đất Lục Nam ngày nay vốn thuộc địa phận huyện Na Ngạn thời
Lý- Trần; huyện Na Ngạn - Lục Na thời thuộc Minh; huyện Lục Ngạn thời Lê
sơ; huyện Lục Ngạn, Phƣợng Sơn thời Mạc; huyện Lục Ngạn - Phƣợng Nhãn
- Bảo Lợi thời Lê trung hƣng - Tây Sơn và thời Nguyễn.
Thời kỳ thực dân Pháp thống trị, năm 1889, thực dân Pháp thành lập tỉnh
Lục Nam, tỉnh lỵ đóng ở thị trấn Lục Nam. Năm 1891, tỉnh Lục Nam bị giải
thể, thuộc về tỉnh Bắc Ninh [3, tr.7].
Sau ngày hòa bình lập lai, ngày 21 tháng 1 năm 1957, huyện Lục Nam
đƣợc thành lập (thuộc tỉnh Bắc Giang). Theo Nghị định số 24-Ttg của Thủ
tƣớng Chính phủ, 3 xã Cẩm Lý, Vũ Xá, Đan Hội thuộc huyện Chí Linh của
Hải Dƣơng; 2 xã Yên Sơn, Bắc Lũng thuộc huyện Yên Dũng - Bắc Giang; 7
xã: Hoà Bình A, Tam Dị, Bảo Đài, Bảo Sơn, Tiên Hƣng, Phƣơng Sơn, Tân
Lập thuộc huyện Lạng Giang-Bắc Giang đƣợc trả về huyện Lục Ngạn (cũ).
Trên cơ sở hai huyện là Lục Ngạn và Sơn Động (cũ) chia thành 3 huyện là
Lục Ngạn, Sơn Động và Lục Nam. Khi ấy, Lục Nam có 19 xã và 1 thị trấn:
Nam Sơn, Cẩm Lý, Vũ Xá, Đan Hội, Yên Sơn A, Yên Sơn B, Bắc Sơn, Bắc
Lũng, Bảo Đài, Bảo Sơn, Tam Dị, Hoà Bình A, Hoà Bình B, Tiên Hƣng, Tân
Lập, Phƣơng Sơn, Mỹ An, Nghĩa Phƣơng, Trƣờng Sơn và Thị trấn Lục Nam.
Theo Nghị định số 535-TC CQNTNĐ kí ngày 6 - 9 - 1957 hai xã là Nam Sơn
và Bắc Lũng đƣợc chia thành 4 xã là: Nam Sơn, Cƣơng Sơn, Bắc Lũng và
Khám Lạng [3, tr.7].
Ngày 28-7-1958, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 241-NV chia xã Phƣơng
Sơn thành 2 xã Phƣơng Sơn và Thanh Sơn; chia xã Hoà Bình B thành 2 xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Đông Hƣng và Tiên Nha; chia xã Yên Sơn B thành 2 xã Bình Sơn và Hùng
Sơn; chia xã Mỹ An thành 2 xã Mỹ An và Trƣờng Giang. Đồng thời theo
Nghị định, xã Mỹ An đƣợc chuyển về huyện Lục Ngạn, còn xã Lan Mẫu
thuộc huyện Yên Dũng đƣợc chuyển về huyện Lục Nam.
Thực hiện chỉ thị số 23-TTg kí ngày 15-4-1963 của Thủ tƣớng Chính
phủ, 2 xã đƣợc trả lại tên cũ là Hoà Bình A thành Chu Điện và Bắc Sơn thành
Vô Tranh, 4 xã đƣợc đổi tên mới là Tân Lập thành Đông Phú, Hùng Sơn
thành Lục Sơn, Thanh Sơn thành Thanh Lâm và Nam Sơn thành Huyền Sơn.
Kể từ đây, huyện Lục Nam có 25 xã và 1 thị trấn: Bảo Đài, Bắc Sơn,
Bắc Lũng, Bình Sơn, Cẩm Lý, Cƣơng Sơn, Chu Điện, Đan Hội, Đông Phú,
Đông Hƣng, Huyền Sơn, Khám Lạng, Lan Mẫu, Lục Sơn, Nghĩa Phƣơng,
Phƣơng Sơn, Tam Dị, Tiên Nha, Tiên Hƣng, Thanh Lâm, Trƣờng Giang,
Trƣờng Sơn, Vũ Xá, Vô Tranh, Yên Sơn và Thị trấn Lục Nam.
Ngày 18-2-1997, Chính phủ ra Nghị định số 19/CP thành lập Thị trấn
Đồi Ngô trên cơ sở tách một phần dân cƣ từ xã Chu Điện, Tiên Hƣng, Tam
Dị. Thị trấn huyện lị Đồi Ngô đƣợc đầu tƣ qui hoạch, xây dựng kết cấu hạ
tầng thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của huyện.
1.2. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên
Lục Nam là huyện miền núi, nằm ở phía Đông - Nam của tỉnh Bắc
Giang, có diện tích tự nhiên 59.858 ha. Địa hình của huyện chia thành ba
vùng: vùng núi, vùng trung du và chiêm trũng. Diện tích đất nông nghiệp là
14.800 héc ta, diện tích đất rừng và đồi là 31.170 héc ta.
Huyện Lục Nam nằm ở vị trí từ 21 độ 11 phút đến 21 độ 27 phút vĩ độ
Bắc; từ 106 độ 18 phút đến 106 độ 41 phút kinh độ Đông. Phía Bắc huyện
Lục Nam giáp huyện Lục Ngạn, phía Tây Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Nam
giáp hai tỉnh Quảng Ninh và Hải Dƣơng, phía Đông giáp huyện Sơn Động,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
phía Tây giáp hai huyện là Lạng Giang và Yên Dũng. Trung tâm huyện cách
Hà Nội 100km và cách thành phố Bắc Giang 25km.
Do nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa khu vực núi rừng Đông - Bắc với khu
vực Trung du và đồng bằng Bắc bộ nên khí hậu Lục Nam có tính đa dạng của
chế độ hoàn lƣu gió mùa nhiệt đới phức hợp, có phân hóa rõ rệt theo mùa.
Nhiệt độ bình quân hàng năm là 22,90C. Do sự ảnh hƣởng của địa hình nên
trong cùng một huyện cũng có sự chênh lệch về nhiệt độ, tạo ra những tiểu
vùng khí hậu khác nhau. Số ngày mƣa của huyện trong năm trung bình là 107
ngày, mƣa phân bố không đều giữa các vùng trong huyện, giữa các tháng
trong năm. Mùa mƣa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9, tập trung ở các tháng 6,
7 và 8 (chiếm từ 50 - 60% lƣợng nƣớc mƣa của cả năm).
Huyện Lục Nam có Sông Lục Nam chảy qua từ đầu đến cuối huyện.
Sông Lục Nam phát nguyên từ Đình Lập (Lạng Sơn), thời cổ mang tên là
Minh Đức và đƣợc mệnh danh là một Trƣờng Giang đẹp nhất Bắc Kì. Sông
dài 178 km, chi lƣu là các sông Cẩm Đàn, sông Thanh Luận, sông Bò. Đối với
huyện, đây là nguồn nƣớc chính phục vụ cho nông nghiệp. Nƣớc từ sông Lục
Nam đƣợc dẫn qua các kênh mƣơng về các đầm, ao, hồ tạo ra hệ thống thủy
lợi phong phú, thuận lợi. Ven sông hình thành các làng chài đánh bắt cá và
đây cũng là nghề sống chủ yếu của các làng sống ven sông. Sông Lục, núi
Huyền còn tạo ra một cảnh tƣợng hùng vĩ, rất đẹp, là nguồn lợi cho du lịch
đang đƣợc quan tâm đầu tƣ và khai thác.
Đất đai của huyện Lục Nam rất đa dạng. Đất đồi, đƣợc hình thành chủ
yếu do sự phong hóa của các loại đá mẹ sa thạch và phiến thạch, một phần do
sự phong hoá của đất phù sa cổ, do đó đất đồi của Lục Nam nghèo dinh
dƣỡng. Đất ruộng, loại đất này cũng có nhiều loại nhƣng chủ yếu đƣợc chia
làm 3 nhóm là đất ruộng lúa nƣớc có nguồn gốc Feralit, có nguồn gốc Feralit
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
bạc mầu và lúa nƣớc có nguồn gốc phù sa. Nhìn chung, đất ruộng của Lục
Nam diện tích không lớn, ít dinh dƣỡng.
Toàn huyện có 26.300 ha rừng, trong đó rừng tự nhiên và rừng tái sinh
là 14.300 ha. Rừng nguyên sinh với hai ba tầng cây, tầng thứ nhất với các loại
hầu hết là gỗ quý nhƣ đinh, lim, sến, táu, dẻ; tầng thứ hai là những cây thấp -
cây bụi nhƣ tre, nứa, song, mây. Tuy nhiên, do khai thác chƣa hợp lí nên rừng
nguyên sinh diện tích còn lại không nhiều, chủ yếu là rừng tái sinh, khó định
tầng, bề ngoài rậm rạp, độ che tán lớn, nhƣng bên trong rỗng, cây to gỗ lớn
còn lại ít, phần lớn là gỗ tạp hoặc rừng tre, nứa xen gỗ tạp. Nhiều nơi, chân
núi và sƣờn núi vẫn còn rừng cây che phủ nhƣng đến gần đỉnh núi chỉ có cây
bụi hoặc sim, mua, ràng ràng, cỏ gianh. Huyện Lục Nam có mỏ than bùn khá
lớn, tập trung chủ yếu ở 2 xã là Lục Sơn và Trƣờng Sơn. Ngoài ra còn có đất
sét, có hai loại là đất sét chịu lửa và đất sét làm gạch ngói.
Nhìn chung, huyện Lục Nam có điều kiện thuận lợi về đất, nƣớc, rừng
để phát triển nền nông lâm nghiệp đa dạng về cây trồng, vật nuôi đảm bảo
cuộc sống ổn định cho đồng bào các dân tộc tại địa phƣơng.
1.3. Nguồn gốc ngƣời Dao ở huyện Lục Nam
1.3.1. Tên gọi và nguồn gốc tộc người
Ngƣời Dao ở Việt Nam có khoảng 600 nghìn ngƣời cƣ trú ở 18 tỉnh
(Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Cao Bằng, Yên Bái, Quảng Ninh, Thái
Nguyên, Bắc Cạn, Lai Châu, Lạng Sơn, Hoà Bình, Sơn La, Phú Thọ, Bắc
Giang, Thanh Hoá, Đắc Lắc, Đồng Nai và Hà Tây). Do nhiều biến cố lịch
sử, ngƣời Dao ở Trung Quốc phân tán thành nhiều nhóm nhỏ trong đó có
một số nhóm vào Việt Nam "Không còn nghi ngờ gì nữa, họ vốn có nguồn
gốc ở Trung Quốc, quá trình thiên di của họ vào Việt Nam là một thời kỳ
dài". [8, tr. 56]. Do nhiều biến cố lịch sử nhƣ, một bộ phận ngƣời Dao đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
phải di cƣ vào Lạng Sơn và Quảng Ninh (Việt Nam) rồi từ đây đi sang các
huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Thế của Bắc Giang qua
nhiều thời kì, bằng nhiều con đƣờng, với nhiều nhóm địa phƣơng khác
nhau để sinh cơ lập nghiệp. [27; tr. 299].
Mặc dù có rất nhiều nhóm Dao với những tên gọi khác nhau, nhƣng căn
cứ vào đặc điểm văn hoá mà nét chủ yếu của nó là trang phục phụ nữ, các nhà
khoa học chia ngƣời Dao ở Việt Nam thành các nhóm sau đây:
+ Dao Đỏ còn có tên Dao Cóc Ngáng, Dao Sừng, Dao Dụ Lạy
+ Dao Quần Chẹt (Dao Sơn Đầu, Dao Tam Đảo, Dao Nga Hoàng)
+ Dao Lô Gang (Thanh Phán, Dao Đội Ván, Dao Cóc Mùn)
+ Dao Tiền
+ Dao Quần Trắng
+ Dao Thanh Y (Dao Ban Y, Dao Chàm)
+ Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao Áo Dài, Dao Tẻn) [ 8, tr36]
Về tiếng nói ngôn ngữ dân tộc Dao đƣợc các nhà nghiên cứu xếp vào
ngữ hệ Mông - Dao. Đến nay ngƣời Dao chƣa có chữ viết riêng, từ xa xƣa,
đồng bào dựa vào chữ Hán để phiên âm ra chữ Nôm gọi là chữ Nôm Dao và
sử dụng bộ chữ này để ghi chép gia phả, sách cúng, sáng tác truyện, thơ… Về
tiếng nói, các nhóm Dao đều nói chung một thứ tiếng, đó là tiếng Dao. Sự
khác nhau về tiếng nói giữa các nhóm không nhiều, chỉ trong một số ít từ và
thanh điệu. Cũng nhƣ tiếng Dao trong cả nƣớc, tiếng Dao ở Bắc Giang cũng
gồm hai phƣơng ngữ: phƣơng ngữ thứ nhất gồm hai nhóm Dao là Lô Gang,
Thanh Phán; phƣơng ngữ thứ hai có nhóm Dao Thanh Y. Tại thời điểm hiện
tại, ngƣời Dao sinh sống tại các bản thuộc các xã của Lục Nam vẫn nói tiếng
Dao trong sinh hoạt hàng ngày. Nhƣng khi có khách là ngƣời dân tộc khác họ
cũng có thể nói đƣợc tiếng Việt làm ngôn ngữ giao tiếp thứ hai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Ở Bắc Giang, thế kỉ XVII, nhóm Dao Thanh Y từ Quảng Đông và Móng
Cái qua Lục Ngạn, đến Bắc Giang, sang sông Đuống rồi ngƣợc lên Tuyên
Quang. Một bộ phận khác lên Yên Bái và Lào Cai, đƣợc gọi là Dao tuyển.
Thế kỉ XVIII, một bộ phận dân tộc Dao từ Quảng Đông và Quảng Tây vào
Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Giang, đó là nhóm Dao Lô Gang [ 21, tr.10].
Nhƣ vậy, dân tộc Dao ở Bắc Giang chủ yếu thuộc các nhóm Dao Thanh
Y, Dao Thanh Phán và Dao Lô Gang. Hiện nay họ sống thành làng riêng hoặc
xen kẽ với một số dân tộc anh em nhƣ Kinh, Tày, Nùng, Sán Chay…Kết quả
khảo sát ở địa phƣơng cho thấy ngƣời Dao sinh sống ở các xã của huyện Lục
Nam có nguồn gốc từ Quảng Ninh di thực sang. Ngƣời Dao ở đây thuộc các
nhóm là Dao Thanh Y và Dao Thanh Phán. Ngƣời Dao ở các bản Gốc Dẻ,
Văn Non, xã Lục Sơn, huyện Lục Nam vẫn nhắc tới một địa danh là Khe Sú,
Ba Trẽ nhƣ nói tới nơi cội ngu