Từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, nhiều nhà triết học đã nỗ lực kiến tạo một bộ môn triết học mới -triết học liên văn hoá. Xa hơn phạm vi của triết học so sánh, bộ môn triết học mới này hướng tới mục đích biến đổi (cải biên) triết học nhằm đáp ứng nhu cầu đối thoại giữa các nền văn hoá. Tuy vẫn tồn tại một số bất đồng quan điểm về nội dung và định hướng nghiên cứu, nhưng các nhà triết học tiên phong của Triết học liên văn hoáđều thống nhất với nhau trong việc phê bình thái độ tự phụ của triết học (hàn lâm) phương Tây coi bản thân mình như là triết học phổ quát
22 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1315 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Triết học liên văn hoá: khái niệm và lịch sử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRIẾT HỌC LIÊN VĂN HOÁ: KHÁI NIỆM VÀ LỊCH SỬ
CHOE HYUNDOK (*)
Bài viết trình bày và phân tích sự hình thành, phát triển của một bộ môn triết
học mới – Triết học liên văn hoá. Triết học liên văn hoá không phải là một
chuyên ngành triết học, như Lôgíc học, Mỹ học, Đạo đức học… Nó đề cập
đến mọi chủ đề của triết học từ cái nhìn liên văn hoá. “Đối thoại” đóng vai
trò một nguyên lý, một thành phần căn bản của triết học liên văn hoá. Theo
tác giả, triết học liên văn hoá đặt ra sự khai mở chính bản thân triết học để
hội nhập với tiến trình quy tụ các nền văn hoá khác nhau, bởi sự đối thoại
chung là cách thức để đạt tới tính phổ quát.
Từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, nhiều nhà triết học đã nỗ lực kiến tạo một
bộ môn triết học mới - triết học liên văn hoá. Xa hơn phạm vi của triết học so
sánh, bộ môn triết học mới này hướng tới mục đích biến đổi (cải biên) triết
học nhằm đáp ứng nhu cầu đối thoại giữa các nền văn hoá. Tuy vẫn tồn tại
một số bất đồng quan điểm về nội dung và định hướng nghiên cứu, nhưng các
nhà triết học tiên phong của Triết học liên văn hoá đều thống nhất với nhau
trong việc phê bình thái độ tự phụ của triết học (hàn lâm) phương Tây coi bản
thân mình như là triết học phổ quát, thứ philosophia perennis (triết học vĩnh
hằng), không cần quan tâm đến những truyền thống tư tưởng khác. Các trào
lưu triết học phương Tây đang thịnh hành trong toàn giới triết học trên thế
giới và ngăn cản, loại trừ mọi tiếng nói triết học cất lên từ những nền văn hoá
khác. Các nhà triết học quan tâm đến Triết học liên văn hoá đã cố gắng phát
triển một nền triết học mang tính phổ quát khác hẳn, trong đó các truyền
thống tư tưởng khác nhau có quyền tham gia bình đẳng như nhau.
Sự cần thiết phải xây dựng Triết học liên văn hoá xuất phát không chỉ từ nội
tình của triết học, mà còn có những yếu tố ngoại tại khác: (a) Sự phổ biến của
triết học phương Tây, ở một mức độ nhất định, đi liền với sức mạnh kinh tế
và chính trị to lớn của các quốc gia phương Tây cũng như với lịch sử của chủ
nghĩa thực dân, mặc dù cũng cần thừa nhận rằng những thành tựu của triết
học ấy là một di sản quan trọng của nền văn minh nhân loại. (Để phân tích
mối quan hệ qua lại giữa triết học phương Tây với chính trị và lịch sử các
quốc gia phương Tây, chúng ta cần có những nghiên cứu của khoa học xã hội
và cả xã hội học tri thức). (b) Sự phát triển của lịch sử thế giới từ cuối thế kỷ
trước không thuận lợi cho những nỗ lực mang tính khai mở để phát triển một
nền văn hoá chung sống thuận hoà (convivance) dựa trên tư tưởng về sự bình
đẳng.
Giai đoạn cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX có một ý nghĩa lịch sử đặc biệt đối
với toàn thế giới. Bức tường Berlin sụp đổ năm 1989. Liên bang Xô viết và
các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã trong những năm 90 của thế kỷ
XX. Từ đó, chủ nghĩa tư bản, do không còn chịu tác động của tình trạng cạnh
tranh với đối thủ của nó (chủ nghĩa xã hội), đã tự bành trướng ra mọi ngóc
ngách trên hành tinh này. Quá trình toàn cầu hoá (sự mở rộng của kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa theo đường lối của chủ nghĩa tự do mới và những
hậu quả văn hoá của nó) và sự phát triển của chủ thuyết chính thống (chủ
nghĩa cực đoan tôn giáo) cũng như chiến tranh được viện cớ nhằm tiêu diệt
chủ nghĩa khủng bố là những thách thức rất nghiêm trọng đối với loài người
hiện tại.
Không phải ngẫu nhiên mà Triết học liên văn hoá phát triển một cách đồng
thời với tiến trình toàn cầu hoá, tiến trình đi kèm với sự truyền bá mạnh mẽ
của dòng văn hoá tư bản và sự cô lập hoá (gạt ra bên lề) các nền văn hoá nhỏ.
Triết học liên văn hoá là một dự án hay một cương lĩnh triết học dựa trên
những suy tư (phản tỉnh) phê phán đối với các vấn đề nan giải khác nhau mà
toàn cầu hoá mang lại, đặc biệt là vấn đề về mối quan hệ với “người khác” (tha
nhân). Nó tìm kiếm một con đường (phương thức) xây dựng nên một cộng
đồng liên đới. Nó có ý nghĩa như một câu trả lời mang tính triết học cho thử
thách của thời đại.
I. Sự phát triển của Triết học liên văn hoá
Cuối thập kỷ 80 - đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX đã xuất hiện rất nhiều tác
phẩm có thể được coi là cột mốc đánh dấu bước khởi đầu để chính thức thiết
lập Triết học liên văn hoá. Chẳng hạn, như Ba nơi khởi sinh của triết học.
Trung Quốc, Ấn Độ, châu Âu (Die drei Geburtsorte der Philosophie. China,
Indien, Europa) của Ram Adhar Mall và H.Huelsmann (1989); Triết học liên
văn hoá - Lịch sử và lý thuyết (Interkulturelle Philosophie. Geschichte und
Theorie) của Franz Martin Wimmer (1990); Triết học châu Phi. Tiếp cận một
khái niệm triết học liên văn hoá (Philosophie in Afrika. Annaeherungen an
einen interkulturellen Philosophiebegriff) của Heinz Kimmerle (1991); Triết
học trong sự so sánh các nền văn hoá. Dẫn nhập triết học liên văn hoá
(Philosophie im Vergleich der Kulturen. Einen Einfuehrung in die
interkulturelle Philosophie) của Ram Adhar Mall (1992)…
Trong khoảng 20 năm trở lại đây, số lượng học giả tham gia vào dự án triết
học liên văn hoá ngày càng tăng lên và số công trình nghiên cứu cũng càng
nhiều. Đặc biệt, sự ra đời của hai tổ chức và mạng lưới mang tính hàn lâm
trong lĩnh vực Triết học liên văn hoá đã tạo điều kiện thuận lợi cho những nỗ
lực và hoạt động, vì Triết học liên văn hoá không chỉ giới hạn ở sự tham gia
nhiệt tình của một vài cá nhân, mà đã đạt được một thể thức có tổ chức và có
thiết chế. Nó cũng đảm bảo cho tính liên tục của nỗ lực ấy(1). Cùng lúc người
ta nhận thấy một xu thế là những tác giả chủ đạo có những thái độ và các
quan niệm khác nhau về Triết học liên văn hoá(2). Ở đây, tôi muốn giới thiệu
ngắn gọn những khuynh hướng phát triển của Triết học liên văn hoá tập trung
vào ba nhà triết học đã có những đóng góp to lớn thông qua vai trò dẫn đạo
của họ trong việc lập nên những mạng lưới, tổ chức những cuộc hội thảo quốc
tế và xuất bản những tạp chí thường kỳ cùng với các công trình nghiên cứu.
Để có được cái nhìn tổng quan trong phạm vi bài này, tôi không có cách nào
khác ngoài việc giản lược thái độ lập trường của mỗi nhà triết học, mặc dù
biết rằng làm như vậy là không đúng với những nghiên cứu sâu sắc của họ.
(1) Hội Triết học liên văn hoá, Cologne (Đức) (3).
Tổ chức này được thành lập năm 1992 thông qua những nỗ lực tận tình của
GS,TS. Ram Adhar Mall (Đại học Munich, người gốc Ấn Độ). Hiện tổ chức
này có khoảng 350 thành viên trên toàn thế giới. Năm 2004, GS,TS. Claudia
Bickmann đã đảm nhận nhiệm kỳ chủ tịch và kế nhiệm tổ chức này từ GS,TS.
Mall. Từ khi thành lập Hội, họ đã định kỳ tổ chức các hội thảo quốc tế về
Triết học liên văn hoá. Hội thảo gần đây nhất được tổ chức tại Cologne hồi
tháng Sáu năm 2006 với chủ đề Liệu tôn giáo và triết học có xung đột không?
Một cách tiếp cận của Triết học liên văn hoá. Năm 1993, GS,TS. Mall đã
xuất bản bộ sách Những nghiên cứu về Triết học liên văn hoá (Studien zur
interkulturelle Philosophie) hợp tác với Nhà xuất bản Rodopi ở Amsterdam /
New York. Đến nay đã có 17 tập được xuất bản(4).
Một trong số những ưu tiên nghiên cứu của ông có liên quan đến thông diễn
học với mục đích hiểu biết các nền văn hoá khác. Giữa một cực là “thông
diễn học của tính đồng nhất hoàn toàn, quy chủ thể khác về chỗ chỉ còn là
một tiếng vọng của bản thân, lặp lại sự tự hiểu biết về mình coi như là sự hiểu
biết chủ thể khác [tính thông ước]” và một cực là “sự khác biệt triệt để khiến
cho việc hiểu về chủ thể khác là hầu như không thể [tính vô thông ước]”, ông
đề xuất “thông diễn học tương đồng”. Nghĩa là nắm bắt những cấu trúc trùng
khớp giữa các nền văn hoá khác nhau với tư cách cơ sở mang tính thông diễn
để hiểu biết những nền văn hoá khác. “Nó không đặt bất cứ nền văn hoá nào
vào vị thế trung tâm tuyệt đối và quy giản những nền văn hoá khác về những
hình thức nào đó của nó. Không có một chủ thể thông diễn phổ quát nào hay
bất cứ một chủ thể lịch sử, văn hoá nào mang tính nền tảng độc nhất; đúng
hơn, đó là một thái độ trầm tư – phản tỉnh về những chủ thể khác biệt, đồng
thời về lời cảnh báo không được xem nhẹ chúng. Thái độ mang tính thông
diễn như vậy giúp chúng ta khắc phục được cảm giác bị vướng mắc một cách
tuyệt vọng vào vấn đề vòng tròn thông diễn. […]. Đứng trước những truyền
thống, những nền văn hoá và tính đa dạng đạo đức khác, sẽ là sai lầm nếu cứ
khăng khăng rằng chúng ta bị ràng buộc với truyền thống của chính ta, và chỉ
có thể cố gắng giải nghĩa và hiểu biết nó. Trực giác đạo đức của tôi nói với tôi
rằng, tôi có thể thuộc về nền văn hoá của mình và có thể, trong chừng mực
nào đó, là một người phê bình nó”(5).
(2) Hội Triết học liên văn hoá Vienna (6)
Hội này được thành lập năm 1994 ở Vienna. GS,TS. Franz Martin Wimmer
(Đại học Vienna) đóng một vai trò quyết định ở đây. Từ năm 1998, Hội đã
xuất bản báo Polylog. Zeitschrift fuer interkulturelles Philosophieren (Triết lý
liên văn hoá, tính đến nay đã xuất bản được 15 số) và từ năm 2000 đã lập một
diễn đàn có tên Polylog. Diễn đàn về Triết học liên văn hoá trên Internet
(www.polylog.org).
GS,TS. Wimmer hết sức quan tâm đến những vấn đề sử liệu học của triết học.
Phê phán chủ nghĩa lấy châu Âu làm trung tâm của các nền triết học phương
Tây, ông đề xuất một sự xem xét lại công việc nghiên cứu lịch sử triết học,
cho rằng “triết học không chỉ khởi nguồn từ châu Âu, mà ở bất cứ nơi nào
[…] triết học trong ý nghĩa phổ quát của nó có thể có vô vàn nguồn gốc khác
nhau”(7).
GS,TS. Wimmer trình bày một nguyên tắc tối thiểu của Triết học liên văn
hoá: “Không được coi những học thuyết triết học dựa đều dựa trên những nền
tảng vững chắc (đều vững chắc) và những tác giả của nó chỉ xuất phát từ một
truyền thống văn hoá đơn lẻ. Nguyên tắc đó cũng có thể được trình bày dưới
dạng khẳng định: bất cứ khi nào có thể, cần tìm kiếm sự trùng khớp mang
tính liên văn hoá của các học thuyết và các quan điểm triết học, bởi rất có thể
những học thuyết có cơ sở vững chắc đã phát triển từ không chỉ một truyền
thống văn hoá”(8). Theo ông, việc tuân theo nguyên tắc này, ít nhất, cũng sẽ
thay đổi được thái độ của các nhà triết học về những nền văn hoá khác.
Ông đề xuất “triết học đa thoại” (polylogue philosophy). “Đa thoại được định
nghĩa như hiện cảnh mà “nhiều người, đại diện cho nhiều truyền thống triết
học, bước vào tranh luận với nhau về một [hoặc nhiều] chủ đề hoặc vấn đề”
(Ghi chú số 21). Điều đó trái ngược với đối thoại song phương, qua đó hai đối
thủ có thể tranh luận những chủ đề khác nhau với nhau, vì Wimmer cho rằng
bản thân đối thoại hai chiều vẫn chưa đủ để sửa đổi những khuôn mẫu nghiên
cứu triết học theo thuyết hướng tâm của chúng ta, mà cần có nhiều bên tham
gia và các nền tảng quan điểm đa dạng để làm việc đó. Vì vậy, ông gọi học
thuyết đa thoại mà mình đề xuất là “phi trung tâm”, theo đó mỗi truyền thống
đều chịu ảnh hưởng từ mọi phía, mỗi người đều quan tâm đến mọi người
khác; mọi ảnh hưởng đều có tầm mức quan trọng như nhau” [Wimmer, 2002,
tr.29]. Ví dụ, giả sử một đa thoại đề cập đến “nhân đạo” (humanity), những
nhà triết học tham gia [thảo luận] đều phải được thông tin một cách sẵn sàng
và đầy đủ, để có thể giải thích và đánh giá không chỉ những ý nghĩa của
những từ như humanum hay Menschheit, mà cả muntu trong tiếng Bantu hay
ren (nhân) trong ngôn ngữ Trung Quốc, cũng như các khái niệm liên quan
khác” [Wimmer, 2002, tr.32](9).
(3) Đại hội quốc tế về Triết học liên văn hoá và Chương trình đối thoại triết
học Bắc – Nam, do Tổ đặc trách Mỹ Latinh của Viện Khoa học truyền giáo
của giáo đoàn (MWI, Aachen, Đức) tổ chức.
GS,TS. Raul Fornet-Betancourt (Đại học Bremen, trưởng Ban đặc trách Mỹ
Latinh ở MWI), từ năm 1995, đã đều đặn tổ chức Đại hội quốc tế về Triết học
liên văn hoá hai năm một lần. Đại hội tới đây (lần thứ 7) sẽ được tổ chức ở
Buenos Aires vào tháng 9 năm 2007. Mỗi đại hội đều ra kỷ yếu(10). Từ năm
1989, ông cũng tổ chức Hội nghị chuyên đề triết học có chủ đề Đối thoại Bắc
– Nam. Các nhà triết học từ Bắc và Nam bán cầu tập hợp lại để tranh luận về
những vấn đề đói nghèo, nhân quyền, dân chủ, chủ nghĩa thực dân mới, sự
liên đới, v.v., dựa trên những suy tư triết học của họ – xuất phát từ các bối
cảnh xã hội và văn hoá khác biệt nhau(11). Tính đến nay đã có 11 hội thảo,
tất cả đều có kỷ yếu đã được xuất bản. Hội thảo thứ 12 tiếp theo được tổ chức
ở Madras (Ấn Độ) vào tháng 1 năm 2007 với chủ đề Các nền văn hoá tri
thức. Hai hội thảo thường kỳ này, diễn ra đều đặn, đã đem lại sự hình thành
một mạng lưới liên hệ giữa các bên tham dự.
Từ năm 1997, Fornet-Betancourt đã xuất bản bộ sách Truyền thống tư tưởng
trong Đối thoại: Những nghiên cứu về sự giải phóng và tính liên văn hoá
(Denktraditionen im Dialog: Studien zur Befreiung und Interkulturalitaet)
hợp tác với công ty xuất bản IKO. Đến nay đã có 26 tập được xuất bản. Từ
năm 2002, Viện Khoa học truyền giáo của giáo đoàn đã xuất bản tạp chí
Chakana. Diễn đàn liên văn hoá về thần học và triết học, ra 2 kỳ mỗi năm, đã
bị đình bản năm 2005, sau khi ra được 6 số, do những thay đổi về chính sách
của Viện nghiên cứu này(12). Ban chuyên trách Châu Á của MWI đã tổ chức
nhiều diễn đàn để các nhà triết học châu Á phát triển Triết học liên văn hoá
vào năm 2003 (ở Sri Lanka) và 2004 (ở Philippines) với sự tham gia của các
thành viên châu Á. Diễn đàn tiếp theo không tổ chức được cũng do sự thay
đổi chính sách của Viện nghiên cứu này(13).
Theo Fornet-Betancourt, Triết học liên văn hoá là một dự án nhằm thay đổi
một cách triệt để triết học hiện tại thông qua đối thoại giữa các truyền thống
tư tưởng khác biệt nhau. Nó không chỉ có mục đích hoà hợp những truyền
thống văn hoá bị coi là thứ yếu vào dòng chảy chính của triết học khi vẫn
ngầm chấp nhận khung mẫu đang tồn tại định nghĩa triết học là và không phải
là gì. Ông đề nghị hướng suy tư triết học đến ký ức về lịch sử bị tổn thương.
Để khắc phục những định kiến mang tính nhận thức luận, thì khung mẫu “lý
tính”, cái đã đẩy khá nhiều những truyền thống tư tưởng và nhận thức ở các
nền văn hoá khác ra khỏi phạm trù triết học, cần được xem xét lại. Điều đó là
để “sử dụng một cách hiệu quả nhất những suối nguồn triết học đầy giá trị
khác cho việc phát sinh tri thức triết học và để giữ gìn chúng khỏi bị bỏ
hoang”. “Triết học liên văn hoá cần phải nâng mọi truyền thống văn hoá lên
cùng một vị thế bình đẳng trên khía cạnh thu nhận tri thức”. Thậm chí, khái
niệm triết học cũng nên được phát triển trong những đối thoại và trao đổi liên
– bối cảnh giữa các nền văn hoá khác nhau, để có thể đạt tới tính phổ quát.
Chúng ta có thể đã được nghe ông trình bày một cách trực tiếp về lập trường
của mình. Ở đây, tôi chỉ xin xác định rõ rằng, theo tôi, những điểm quan trọng
trong lập trường của ông thể hiện ở: (a) Sự nhấn mạnh tầm quan trọng của bối
cảnh xã hội, chính trị và lịch sử của các nền văn hoá và triết học, (b) Sự quan
tâm đối với mối quan hệ quyền lực trong các nền văn hoá.
Ba dòng chảy trên được coi như có thể bổ sung lẫn nhau. Những nhà nghiên
cứu với những điểm ưu tiên nghiên cứu khác biệt đã tập hợp lại để cùng phát
triển triết học liên văn hoá.
II. Khái niệm “Triết học liên văn hoá”
Hiện tại, rất khó tìm ra một định nghĩa về Triết học liên văn hoá được tất cả
mọi người tán thành về mọi mặt, bởi nó vẫn còn trong quá trình hình thành và
nhiều người từ những nền văn hoá khác nhau tham gia vào quá trình đó.
Thậm chí, có thể nói, nó đang trong quá trình khu biệt hoá [các đặc trưng để
trở thành khái niệm]. Điều mà tôi trình bày dưới đây chỉ là một mô tả mang
tính thăm dò về một khái niệm có thể chấp nhận được, dựa trên những gì tôi
đã được biết trong vòng 5 năm trở lại đây - khi tham gia vào cuộc vận động
quốc tế vì Triết học liên văn hoá thông qua quá trình hoạt động của tôi ở
MWI với sự cộng tác của Fornet-Betancourt.
Triết học liên văn hoá không phải là một ngành chuyên môn của triết học,
như lôgic học, nhận thức luận, đạo đức học, mỹ học, v.v.. Tính từ “liên văn
hoá” ngụ ý về một quan điểm nghiên cứu triết học, chứ không phải một đối
tượng xác định của suy tư triết học. Điều đó có nghĩa là, Triết học liên văn
hoá đề cập đến mọi chủ đề của triết học từ cái nhìn liên văn hoá. Tất nhiên,
Triết học liên văn hoá cũng có những đề tài đặc thù, như “sự khác biệt”, “sự
đa dạng”, “cái khác”, “thông diễn học về người khác”, “đa, liên và siêu văn
hoá”, v.v.. Tuy vậy, các đề tài ấy vẫn có thể thuộc về những chuyên ngành
khác. Theo nghĩa này, Triết học liên văn hoá cũng giống như triết học nữ
quyền, triết học nữ quyền có vài đề tài đặc thù, như “khác biệt giới”, “cấu trúc
giới”, v.v.. Nhưng thuật ngữ “nữ quyền” chỉ nói lên lập trường nghiên cứu
của nó. Triết học nữ quyền suy tư về mọi chủ đề trong toàn bộ phạm vi của
triết học từ cái nhìn nữ quyền.
Bây giờ, tôi sẽ bàn về những vấn đề có quan hệ với những khái niệm “liên”,
“văn hoá” và “triết học”.
(1) “Liên”
(a) Quan hệ
Tiền tố “liên” biểu thị “mối quan hệ”. Khái niệm “liên – văn hoá” hàm ý một
quan niệm rằng, cứ hai nền văn hoá trở lên thì chắc chắn có quan hệ với nhau
theo cách nào đó. Theo nghĩa này, rõ ràng khái niệm “tính liên văn hoá” khác
biệt với khái niệm “tính đa văn hoá”.
Do trên thực tế, nhiều nền văn hoá có thể tồn tại trong cùng một xã hội
(nguyên nhân là di dân chẳng hạn), khái niệm “đa văn hoá” đã ra đời nhằm
nhận dạng và lý giải tốt hơn những vấn đề nảy sinh trong xã hội như thế, và
nó cũng có ích cho việc tìm kiếm những giải pháp [để giải quyết vấn đề]. Ở
Hàn Quốc, với thực trạng số lao động nhập cư và những đám cưới giữa người
bản xứ với người nhập cư tăng lên, sự tranh luận về những vấn đề của xã hội
đa văn hoá đã trở nên phổ biến.
So sánh với khái niệm về một nền văn hoá thuần nhất của một xã hội không
thừa nhận quyền tồn tại của một nền văn hoá thiểu số (dẫn đến sự phân biệt
đối xử đối với những người không thuộc về dòng văn hoá chính), thì khái
niệm “tính đa văn hoá” rõ ràng là một tiến bộ. Tuy nhiên, khái niệm “tính đa
văn hoá” chỉ diễn tả sự tồn tại mang tính thực thể của nhiều nền văn hoá chứ
không nói gì đến mối quan hệ giữa hay trong số những nền văn hoá đó. Vấn
đề thật sự hệ trọng là làm sao để chung sống hoà bình và liên đới trong một
xã hội tồn tại nhiều nền văn hoá (nhiều học giả diễn tả tình trạng này như là
“sự đụng độ của các nền văn minh”) và như vậy, yêu cầu là phải làm rõ
những mối quan hệ giữa các nền văn hoá đó. Thậm chí còn có người phê bình
là khái niệm xã hội “đa văn hoá” tỏ ra bất lực khi đối mặt với tình trạng sống
song hành (trong các khu Do Thái chẳng hạn) và không thể phát triển một
khuôn mẫu chung sống.
Vấn đề tiếp theo là kiểu quan hệ nào đã được giả định trong khái niệm “tính
liên văn hoá”.
(b) Sự bình đẳng
Tính liên văn hoá hàm ý một mối quan hệ bình đẳng giữa những nền văn hoá
khác biệt như những chủ thể bình đẳng với các quyền bình đẳng. Đó là nền
tảng để chấp nhận người khác với tính căn nguyên độc đáo của họ trong khi
vẫn nhận biết sự khác biệt và đa dạng. Nó mặc định sự gạt bỏ mọi hình thái
của thuyết trung tâm (thuyết coi châu Âu là trung tâm, thuyết Trung Quốc là
trung tâm, thuyết dân tộc Arian là trung tâm, thuyết châu Phi là trung tâm,
v.v.) và tạo dựng một nền tảng để phát triển sự giao tiếp và liên đới.
Đây là một tư tưởng mang tính cương lĩnh, đối lập với thực trạng hiện tại
được quy định bởi lịch sử chủ nghĩa thực dân cũng như những hậu quả văn
hoá của quá trình toàn cầu hoá (sự gạt ra bên lề (loại bỏ) các nền văn hoá
nhỏ). Khái niệm “tính liên văn hoá” là khái niệm có tính quy chuẩn. Dự án
Triết học liên văn hoá nảy sinh từ ý định cải tạo thực tại, chứ không chỉ miêu
tả và giải thích thực tại.
(c) Đối thoại
Đối thoại là một cách thức quan trọng qua đó con người tạo dựng các mối
quan hệ. Đối thoại liên văn hoá có rất nhiều hàm ý. Kimmerle nhấn mạnh: (a)
Sự bình đẳng giữa những bên tham gia đối thoại, (b) Tính cởi mở đối với mọi
k