Từ quan điểm của Louis Wirth nhìn về lối sống của người dân thành phố Hồ Chí Minh

Với bài tiểu luận Urbanism as a Way of Life, Louis Wirth, một thành viên trong trường phái Chicago nổi tiếng vào nửa đầu thế kỷ XX, đã nêu lên các đặc trưng về lối sống đô thị như một sự tương phản với lối sống nông thôn trên nhiều khía cạnh cơ bản từ chính các nghiên cứu thực tế tại thành phố Chicago. Bài viết này đối chiếu và chỉ ra những mức độ phù hợp giữa các quan điểm của Louis Wirth với các đặc trưng về lối sống của người dân đô thị Sài Gòn - TPHCM. Các bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội đa dạng của các thành phố đã định hình lối sống xã hội đô thị đa dạng, bao gồm cả việc lưu giữ quá khứ ở những mức độ khác nhau trong lòng thành phố.

pdf8 trang | Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 677 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Từ quan điểm của Louis Wirth nhìn về lối sống của người dân thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (199) 2015 29 TỪ QUAN ĐIỂM CỦA LOUIS WIRTH NHÌN VỀ LỐI SỐNG CỦA NGƯỜI DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TÔN NỮ QUỲNH TRÂN Với bài tiểu luận Urbanism as a Way of Life, Louis Wirth, một thành viên trong trường phái Chicago nổi tiếng vào nửa đầu thế kỷ XX, đã nêu lên các đặc trưng về lối sống đô thị như một sự tương phản với lối sống nông thôn trên nhiều khía cạnh cơ bản từ chính các nghiên cứu thực tế tại thành phố Chicago. Bài viết này đối chiếu và chỉ ra những mức độ phù hợp giữa các quan điểm của Louis Wirth với các đặc trưng về lối sống của người dân đô thị Sài Gòn - TPHCM. Các bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội đa dạng của các thành phố đã định hình lối sống xã hội đô thị đa dạng, bao gồm cả việc lưu giữ quá khứ ở những mức độ khác nhau trong lòng thành phố. 1. TỪ CÁC QUAN ĐIỂM CỦA LOUIS WIRTH VỀ LỐI SỐNG ĐÔ THị Trên nền tảng các nghiên cứu về đô thị, Louis Wirth (1938, tr. 1-24) cho rằng sự chuyển đổi từ xã hội nông thôn sang xã hội đô thị diễn ra trong vòng một thế hệ ở những khu vực công nghiệp hóa, đã kéo theo những sự thay đổi lớn lao trên hầu hết các khía cạnh của cuộc sống xã hội. Từ đó, đô thị và nông thôn có thể được coi như hai cực nếu xét ở khía cạnh bố trí sự định cư của con người. Ông đưa ra quan điểm rằng tại các thành phố càng lớn, càng đông đúc và càng không đồng nhất thì lối sống đô thị càng thể hiện rõ ràng những đặc điểm của nó. Mật độ dân số cao là sự thể hiện đầy đủ nhất sự đông đúc dân cư trong giới hạn của một vùng và là tiêu chí cần thiết để tạo nên một đô thị, còn tính không đồng nhất cũng là một tiêu chí thể hiện tính chất riêng biệt của cuộc sống đô thị. 1.1. Tính chất của đô thị Tính không đồng nhất: Do khả năng tự tái sản xuất dân số thấp, đô thị phải thu nhận thêm người nhập cư từ các nơi khác, đặc biệt là từ thôn quê. Do đó, về mặt lịch sử, thành phố là nơi trộn lẫn các chủng tộc, dân tộc và văn hóa khác nhau, đồng thời nó là nơi ươm mầm tốt nhất cho sự lai giống văn hóa. Thành phố đã kết hợp những con người từ mọi nơi trên đất nước và cả thế giới tạo ra sự khác biệt và hỗ trợ lẫn nhau, thay vì là đồng nhất và có cùng khuynh hướng tư duy như nhau. Số lượng cá nhân tham gia trong quá trình giao lưu hội nhập càng lớn thì sự khác biệt tiềm tàng giữa họ cũng càng cao. Do đó, đặc điểm cá nhân, nghề nghiệp, cuộc sống văn hóa và tư duy của các cư dân đô thị khác nhau rất nhiều so với dân cư ở vùng nông thôn. Mối quan hệ họ hàng và tình cảm láng Tôn Nữ Quỳnh Trân. Phó giáo sư tiến sĩ. Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển. Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED), mã số đề tài IV1.3-2011. TÔN NỮ QUỲNH TRÂN – TỪ QUAN ĐIỂM CỦA LOUIS WIRTH30 giềng xuất phát từ việc sống chung nhau qua nhiều thế hệ theo một truyền thống dân gian chung sẽ không có, và hoặc giả nếu có thì sẽ rất yếu trong một tập hợp dân cư đông đảo với các nguồn gốc và nền tảng khác nhau. Trong những điều kiện như vậy, sự cạnh tranh và luật pháp sẽ tạo ra các quan hệ mới, thay thế cho những quan hệ đoàn kết vốn được giữ gìn tồn tại qua nhiều thế hệ, sự quen biết cá nhân vốn có giữa các cư dân đồng hương cũng sẽ mất đi. Sự cạnh tranh trong đô thị rất cao, và đô thị là nơi sống và làm việc của các cá nhân vốn không có quan hệ tình cảm với nhau. Những mối quan hệ dựa trên công việc cộng với khoảng cách xã hội lớn làm nổi bật sự không gắn bó giữa cá nhân này với cá nhân khác, con người sẽ trở nên cô độc. Họ làm việc để nâng cao vị thế của mình và lợi dụng lẫn nhau. Và để đối phó với sự mất trật tự có thể xảy ra trong thế giới cạnh tranh ấy, các hình thức kiểm soát xã hội đô thị được hình thành. Đồng hồ và đèn giao thông là những hình ảnh tượng trưng cho nền tảng của trật tự đô thị. Các yếu tố về mật độ dân số, giá trị đất đai, khả năng tiếp cận, lợi ích cho sức khỏe, giá trị thẩm mỹ, chất lượng môi trường quyết định giá trị của một vùng đất trong thành phố, và cũng vì thế, có những phân khúc cư dân khác nhau. Ngoài các yếu tố thuộc về vùng đất, còn có yếu tố thuộc về con người như là nơi làm việc, bản chất công việc, thu nhập, đặc điểm sắc tộc và dân tộc, địa vị xã hội, phong tục, tập quán, ý thích, thị hiếu và định kiến là những yếu tố quan trọng để các dạng dân cư trong đô thị chọn lựa nơi ở và như thế đô thị được phân bổ thành những vùng định cư ít nhiều có sự phân biệt. Do đó, đô thị gồm những thành phần dân cư khác nhau cư ngụ trong một bức tranh nhiều mảng của xã hội, trong đó sự khác nhau từ vùng này sang vùng khác rất đột ngột. Tính di động xã hội cao: Sự tương tác giữa các cá nhân có nguồn gốc khác nhau trong xã hội đô thị đưa đến nhiều khả năng phá vỡ biên giới của các giai tầng xã hội. Con người trong đô thị có cơ hội di động xã hội cao hơn, có cơ may nhiều hơn trong việc thay đổi việc làm, thay đổi vị trí xã hội. Con một người tài xế taxi có nhiều cơ hội trở thành một người bác sĩ hơn con một người nông dân sống ở nông thôn. Tính di động xã hội cao đã làm cho việc giữ gìn sự gắn bó của một tổ chức nào đó, quan hệ gần gũi lâu dài giữa các thành viên trở nên vô cùng khó khăn. Hiện tượng các cá nhân rời khỏi các cơ quan đã từng gắn bó tạo thành một dòng chảy thay đổi, làm cho các hành vi trong đô thị khó đoán trước và khó giải quyết. Sự phân đoạn trong quan hệ giữa các cá nhân: Trong xã hội đô thị với mật độ dân cư cao, mối quan hệ toàn vẹn giữa các cá nhân không thể thực hiện được, người đô thị gặp nhau trong những vai trò mang tính phân đoạn cao. Điều này không có nghĩa là cư dân đô thị có ít quan hệ quen biết hơn cư dân nông thôn, mà có nghĩa là trong quan hệ với số người mà họ gặp gỡ, họ biết ít hơn về người đó. Các cá nhân ở đô thị biết một cá nhân nào đó dưới tư cách là con người công chức, con người kinh doanh, con người hoạt động xã hội, mấy ai biết TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (199) 2015 31 đến chính con người đó dưới góc cạnh là người cha, người mẹ trong gia đình, người láng giềng trong cộng đồng. 1.2. Con người đô thị Kết luận về lối sống đô thị, Louis Wirth cho rằng trong xã hội đô thị, mối quan hệ của nhóm sơ cấp (là những nhóm nhỏ với số lượng ít người, gặp nhau thường xuyên và có nhân tố cảm xúc cụ thể, là nhóm gia đình, bạn bè, đồng nghiệp cùng cơ quan) bị thay thế bằng mối quan hệ của nhóm thứ cấp (nhóm có số lượng người đông đảo như đảng phái, các tổ chức xã hội, trong đó tình cảm thân thuộc gắn bó ít được thể hiện), các quan hệ họ hàng bị suy yếu, giá trị gia đình bị suy thoái, tình cảm láng giềng bị xóa sổ và các nền tảng truyền thống của sự đoàn kết xã hội bị xói mòn. Trong khi thu nhập của người dân thành phố trung bình cao hơn người dân ở thôn quê, nhưng giá sinh hoạt ở thành phố cũng cao hơn. Nhà cửa đắt đỏ hơn và cũng hiếm hoi hơn. Tiền thuê nhà cao hơn và chiếm tỷ lệ lớn trong các khoản chi tiêu. Mặc dù cư dân đô thị được hưởng lợi từ những dịch vụ công cộng, người dân đô thị lại phải dành ra một khoản khá lớn cho những thứ như giải trí, còn khoản chi tiêu cho lương thực ít hơn. Những thứ nào dịch vụ công ích không mang đến được, người đô thị phải mua, và trên thực tế, không có nhu cầu nào của con người đô thị mà không được khai thác ở góc độ thương mại. Việc phục vụ cho các nhu cầu cảm giác mạnh và cung cấp các phương tiện thoát ly khỏi thực tế công việc vất vả, đơn điệu đã trở thành một trong những chức năng chính của ngành công nghiệp giải trí ở đô thị. Có một tính chất nữa đáng chú ý trong lối sống đô thị mà Louis Wirth đề cập đến là sự khoan dung rộng rãi nhất (broadest tolerance) của con người đô thị đối với bối cảnh sống. Tình trạng kế cận nhau của những lối sống khác biệt nhau tại các đô thị tạo ra một tính chất thông cảm, tạo nên khả năng chấp nhận cái mới, cái khác biệt một cách dễ dàng hơn. Tóm lại, dưới mắt Louis Wirth, những thay đổi to lớn về cơ cấu và thiết chế trong quá trình đô thị hóa đã mang lại những hậu quả nghiêm trọng cho người dân. Thần kinh của họ bị kích thích, tâm lý bị căng thẳng trong một đô thị quá chuyên biệt, quá nhiều thông tin. Những người ở thành phố gặp nhau trong các vai trò bị cắt rời, không phải trong quan hệ toàn bộ con người đó. Họ xem trọng cơ chế chính thức. Sự tiếp xúc với nhiều người khác nhau tạo cơ hội cho sự phát triển của nhiều mối quan hệ đưa đến tình trạng là không ai trung thành với một tổ chức nào cả. Con người thị dân lúc ấy dường như là một con người bị tha hóa và có phần bất hạnh (Trịnh Duy Luân, 2004, tr. 40). Luận điểm của Louis With đã từng là chủ đề của nhiều nghiên cứu phản hồi, tranh luận, phản biện, bổ sung. Harry Gold (1982, tr. 25-26) cho rằng Louis Wirth đã quá bi quan về đời sống đô thị, bị ám ành bởi các vấn đề tiêu cực của đô thị như tình trạng vô tổ chức của các cá nhân, sự suy sụp tinh thần, tệ nạn, tội ác, tham nhũng Stanley Milgram trong bài viết The Urban Experience a Psychological Analysis (1996, tr. 35-46) từ góc nhìn của một nhà tâm lý học cho rằng dân số đông, mật độ dân số cao và tính chuyên TÔN NỮ QUỲNH TRÂN – TỪ QUAN ĐIỂM CỦA LOUIS WIRTH32 biệt là những yếu tố thuộc về nhân khẩu học, là những yếu tố nằm bên ngoài của cá nhân, cần phải xem xét sự liên quan của các yếu tố ấy đến tính cách của cá nhân. Tác giả cho rằng chính sự quá tải của cá nhân, chính sự tiếp xúc quá nhiều, “đầu vào” quá lớn đã làm rối loạn “đầu ra”. Đời sống đô thị là một chuỗi những chạm trán liên tục với sự quá tải và từ đó xuất hiện tình huống mà các cá nhân phải thích nghi. 2. NHÌN VỀ LỐI SỐNG CỦA NGƯỜI ĐÔ THỊ SÀI GÒN - TPHCM 2.1. Đối chiếu Sự không đồng nhất: Dù không rập khuôn như hình ảnh đô thị mà Louis Wirth đưa ra, TPHCM hiện nay và Sài Gòn trước đây cũng là một đô thị mang tính không đồng nhất về lối sống khá cao. Đây là một đô thị đa hợp, cư dân được hình thành từ nhiều đợt nhập cư khác nhau, mang theo nhiều lối sống khác nhau, đồng thời ảnh hưởng qua lại lẫn nhau nên đã tạo ra một lối sống đô thị phức hợp. Nhờ vào môi trường thoáng mở vốn có của đô thị, người Sài Gòn luôn có nhiều mối quan hệ rộng rãi, phạm vi giao tiếp rộng, cường độ giao tiếp cao và đa chiều. Người dân Sài Gòn - TPHCM có những giao lưu dựa trên các nhóm sở thích, nhóm đồng nghiệp, nhóm làm ăn chứ không phải theo địa bàn dân cư nơi cư trú. Đây là một lối sống có những điểm đối chọi nhau. Điểm tích cực toát ra trong môi trường giao lưu đó là con người sẽ phát huy được nhiều ưu điểm của bản thân để học hỏi và phát triển, dễ dàng gặp được nhiều cơ hội trong cuộc sống, thoải mái vô tư trong các mối quan hệ rộng rãi Nhưng đồng thời lối sống đó làm cho quan hệ xã hội trên địa bàn cư trú sẽ trở nên lỏng lẻo, láng giềng sống theo kiểu đèn nhà ai nấy rạng, không như lối sống truyền thống “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Từ đó, ta có thể nhận thấy rằng lối sống ấy quả thật khác xa với truyền thống tối lửa tắt đèn có nhau của người Việt Nam. Quan điểm của Louis Wirth có vẻ khá đúng khi xem xét mối quan hệ láng giềng của cư dân đô thị Sài Gòn - TPHCM. Mối quan hệ có phần lỏng lẻo, không mặn nồng như ở nông thôn. Tuy nhiên, Sài Gòn - TPHCM vẫn có những đặc trưng riêng. Mới thoạt nhìn, cảnh quan tại các con hẻm nhỏ ở thành phố, nơi mà các ngôi nhà san sát nhau, chung tường, chung lối đi, cửa đóng im ỉm, không người qua lại, không tiếng em bé vui đùa, hiếm tiếng chó sủa Dân cư thì người lớn đi làm việc, trẻ con được gửi đến nhà trẻ, học sinh sinh viên đi đến trường, người nội trợ đi chợ hoặc làm lụng trong nhà, khiến chúng ta nghĩ những con hẻm thật yên ắng, bị chia cắt, mỗi gia đình một cuộc sống. Nhưng không phải thế, đấy chỉ là cái nhìn từ bên ngoài. Thật sự, giữa các ngôi nhà im ắng ấy vẫn có một mối quan hệ láng giềng, không đậm đà, dễ thấy, nhưng nhẹ nhàng và khá bền vững. Họ được ràng buộc với nhau bởi nhiều cái chung, như vấn đề an ninh, vệ sinh, môi trường sinh sống của con hẻm. Sống trong đô thị, những con người này biết tự điều tiết để đừng xảy ra xô xát giữa láng giềng vì rốt cuộc không ai được hưởng lợi gì mà đi về vẫn phải chạm mặt nhau hàng ngày. Lưu Phương Thảo (2006, tr. 55) cho rằng: “Môi trường sống nơi hẻm phố TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (199) 2015 33 thân thiện và đoàn kết. Khái niệm ‘hàng xóm láng giềng’ tưởng như không còn có thể tìm thấy ở nơi đô thị, vốn là nơi đặc thù với lối sống đứt đoạn và vô danh” vẫn còn tồn tại nơi đây. Chứng minh cho sự hiện diện của mối thân thiện láng giềng trong các hẻm phố, Lưu Phương Thảo đưa ra kết quả một cuộc điều tra định lượng được tiến hành vào năm 2005 đối với 500 hộ về mối quan hệ giữa các gia đình ở trong hẻm thông qua việc có mời hay không các láng giềng đến nhà dự đám tiệc, như Bảng 1. Kết quả trên cho thấy có 12,8% hộ không mời láng giềng đến dự đám tiệc do gia đình tổ chức, tương ứng với kiểu sống phân đoạn, hời hợt mà Wirth phân tích, nhưng đồng thời có đến 21,2% hộ mời hầu hết các hộ trong hẻm cùng tham dự và 56,8% mời một ít hộ thân nhất trong hẻm. Như vậy, tỷ lệ số có mời láng giềng lên đến 78%. Đây là một con số khá lớn, bên cạnh đó, theo phong tục Việt Nam, các mối quan hệ thường “có qua có lại”, người được mời bao giờ cũng sẽ mời lại người đã mời mình, tạo ra các quan hệ xã hội đan cài nhau. Qua đó, ta có thể hình dung mối quan hệ giữa các láng giềng của người đô thị ở đây không lợt lạt, phân đoạn như mô tả của Wirth, mà trái lại sự giao lưu giữa cư dân sống cùng trên địa bàn khá dày. Giá trị của mối quan hệ sơ cấp (gia đình, bạn bè) trong cư dân đô thị không bị mối quan hệ thứ cấp thay thế như Wirth mô tả. Dù quy mô gia đình có nhỏ đi, gia đình ba thế hệ có ít đi, con người đô thị của TPHCM có bị cuộc mưu sinh chi phối quá nhiều đi, nhưng truyền thống gia đình vẫn còn được duy trì và giá trị của tình bạn vẫn được ca tụng. Cuộc sống bôn ba ở đô thị, người đi làm việc, người đi học, người đi công tác, người làm ca trực, bữa ăn gia đình không còn là “một ngày ba bữa quây quần” như trước, nhưng bữa cơm gia đình vào buổi chiều hay vào ngày cuối tuần vẫn là dịp để các thành viên trong gia đình gặp gỡ, trò chuyện. Hàng năm, dân cư TPHCM vẫn tôn vinh Ngày gia đình 28/6 một cách rộn rã. Các nơi đưa ra nhiều hình thức chào mừng khác nhau, như Hội thi Nấu ăn, Hội thi Gia đình và pháp luật, Hội thi Kiến thức gia đình nuôi con khỏe, Hội thi Gia đình thời hội nhập, Vận động bữa cơm gia đình Bên cạnh gia đình, bạn bè luôn là nơi mà Bảng 1. Thống kê dựa trên câu hỏi: Có mời các gia đình trong hẻm dự đám tiệc Một ít hộ thân nhất Hầu hết các hộ trong hẻm Chỉ mời bà con dòng họ Không mời Tổng n % n % n % n % n % Phân loại hẻm Nghề 88 52,4 58 34,5 12 7,1 10 6,0 168 100 Dân tộc 82 66,1 32 25,8 2 1,6 8 6,5 124 100 Tôn giáo 8 44,4 8 44,4 2 11,1 18 100 Dân cư 106 55,8 8 4,2 32 16,8 44 23,2 190 100 Tổng 284 56,8 106 21,2 46 9,2 64 12,8 500 100 Nguồn: Hẻm phố Sài Gòn - TPHCM, Tôn Nữ Quỳnh Trân (chủ biên), 2006, tr. 55. TÔN NỮ QUỲNH TRÂN – TỪ QUAN ĐIỂM CỦA LOUIS WIRTH34 mỗi cư dân đô thị tìm đến khi cần. Bạn bè là chỗ dựa cả tinh thần lẫn vật chất trong cuộc sống đô thị đầy vất vả, bất trắc. Kết quả nghiên cứu đề tài Thanh niên vùng đô thị hóa và vấn đề việc làm – trường hợp TPHCM, đưa ra kết quả là trong các kênh thông tin giúp cho thanh niên tìm được việc làm, thì thông tin từ bạn bè đứng hàng thứ hai, chỉ sau bảng thông báo tuyển dụng của các nhà máy, xí nghiệp trong vùng, như Biểu đồ. Tính di động xã hội: Xã hội đô thị năng động của Sài Gòn - TPHCM với nhiều ngành nghề rất đa dạng của một đô thị công nghiệp, xuất khẩu, khoa học, dịch vụ, thương mại tạo cho người đô thị muôn vàn cơ hội đổi nghề, đổi chỗ làm. Nhân dân ta vẫn thường có câu “Thóc ở đâu thì bồ câu ở đấy”. Con người thay đổi chỗ làm nhiều lần thì hẳn nhiên độ gắn bó với nơi làm việc không sâu sắc, phá vỡ đi giá trị của câu nói “Ăn cây nào, rào cây ấy”. Thị trường nhân lực của TPHCM hiện nay cũng có hiện tượng ấy. Sự chảy máu chất xám vào các khu vực thu nhập cao, quyền lợi nhiều, nhất là vào các công ty, cơ quan, tổ chức nước ngoài đang ngày càng lộ rõ, nhưng chưa phải là tính chất chung. Sự cạnh tranh cao, nhiều cơ hội việc làm được con người thành phố vận dụng làm cho mình có cuộc sống năng động hơn. Vì chỉ có tính năng động cao, con người đô thị mới có thể thích ứng được với những hoàn cảnh hay thay đổi của môi trường đô thị, nếu không, họ có thể bị loại bỏ, hoặc nếu vẫn bám trụ thì chất lượng cuộc sống khó thoát khỏi nghèo nàn. Sự phân đoạn trong quan hệ giữa các cá nhân: Mối quan hệ giữa các cá nhân với cá nhân ở TPHCM cũng có tình trạng phân đoạn, nhưng không đến nỗi con người giao thiệp với nhau mà không hiểu biết về nhau. Khi có mối quan hệ mới, người Việt Nam nói chung và người thành phố nói riêng đều hỏi thăm đến cuộc sống cá nhân, như tuổi tác, tình trạng gia đình, cha mẹ, vợ con, nơi làm việc nhằm hiểu rõ và định vị đối tượng. Những câu hỏi này là rất thông thường đối với người Việt Nam, nhưng người Tây phương lại không đưa ra khi mới quen. Thói quen, phong tục, tập quán trên giúp cho con người đô thị gần nhau hơn. TPHCM tuy rộng, người tuy đông, nhưng trong các mối quan hệ, con người vẫn biết nhau, vẫn hiểu về nguồn gốc, giai tầng của nhau. 2.2. Lối sống dung nạp cao của con người đô thị Sài Gòn - TPHCM Biểu đồ: Kênh thông tin tìm việc làm của thanh niên (%) 46.6 37.1 22.8 15.4 13.6 2.7 0.3 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50 Thông báo tuyển dụng tại cổng Cty Bạn bè mách Radio TV Internet Báo Khác Nguồn: Báo cáo đề tài Thanh niên vùng đô thị hóa và vấn đề việc làm – trường hợp TPHCM, Tôn Nữ Quỳnh Trân và cộng sự, tr. 47-86. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (199) 2015 35 Một tính chất quan trọng của người đô thị mà Louis Wirth nhắc đến là tính khoan dung rộng rãi của người đô thị đối với các yếu tố mới, đối với các khác biệt. Bao dung là tính chất chung của hầu hết các đô thị hiện đại trên thế giới, không riêng gì TPHCM. Ở TPHCM, tính chất này rất đậm nét và chính nó đã tạo nên những giá trị đặc trưng trong văn hóa cũng như trong lối sống của con người Sài Gòn trước đây và TPHCM hiện nay. Với tốc độ phát triển kinh tế cao, với khả năng tạo ra nhiều việc làm và cơ hội kinh doanh, TPHCM có một sức hút mạnh mẽ đối với người dân ở các vùng khác đến lập nghiệp. Hiện nay phần lớn dân cư thành phố là những người có nguồn gốc từ nơi khác đến qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Sống trong “thành phố của những người nhập cư” như thế nên người đến trước cũng dễ dàng chấp nhận những người đến sau, dù khác biệt nhau về nơi xuất thân, tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, phong tục tập quán, lối sống. Trong lịch sử phát triển, thành phố từng tiếp nhận nhiều ngành nghề thủ công của cư dân từ mọi miền đất nước. Đợt di cư năm 1954 đánh dấu sự hình thành một loạt làng nghề mới do những người nhập cư, vốn là những người thợ thủ công mang vào. Họ là những cộng đồng cùng quê, cùng ra đi và cùng định cư tập trung vào một nơi. Những kỹ xảo truyền thống từ quê hương miền Bắc được du nhập làm nên những làng nghề thủ công như làng dệt vải Bùi Môn - Trung Chánh (Tân Xuân - Hóc Môn), các làng dệt chiếu Bình An (phường 6, quận 8), Bến Hải (phường 5, Gò Vấp), Kênh Xáng (Bình Chánh), làng lồng đèn Phú Bình (phường 5, quận 11), làng giò chả Hà Nội (phường 12, Gò Vấp), làng tinh bột Kiết Tâm (phường Tam Bình, Thủ Đức), làng đậu hũ Bùi Môn (Hóc Môn), v.v Hoặc, giữa lòng thành phố là một khu “phố Tây” ồn ào náo nhiệt quanh trục đường Bùi Viện, Phạm Ngũ Lão (quận 1), một khu “phố Hàn Quốc” ở đường Hoàng Việt, quận Tân Bình (Tôn Nữ Quỳnh Trân, 2002). Sự xuất hiện các làng nghề mới, sự tồn tại của những khu phố “quốc tế” cho thấy rằng người thành phố dễ dàng tiếp nhận những cộng đồng cư dân khác tuy không cùng màu da, ngôn ngữ, dân tộc, biểu hiện sinh động về tính bao dung, dễ chấp nhận của đô thị này. Những tính chất như sự phân đoạn, tính di động cao, tính dung nạp của đời sống đô thị mà Louis Wirth đề cập, thể
Tài liệu liên quan