Khó có thể biết được rượu ra đời từlúc nào, ở đâu, song nói vềrượu, vềtác
dụng chữa bệnh, vềvăn hóa uống rượu thì tất cảcác dân tộc trên thếgiới đều
có. ỞViệt Nam, rượu gắn với sinh hoạt cộng đồng, với các nghi lễ, hội hè,
đình đám, với những lời thề ước, nhưng nếu uống rượu quá đà cũng gây
nhiều phiền lụy.
Lĩnh Nam chích quáicho rằng: Buổi mới dựng nước, đồ ăn của dân chưa đủ.
Lấy vỏcây làm áo, dệt cói làm chiếu, lấy hèm gạo làm rượu, lấy bột quan
lang (cây dao) làm bánh, lấy thịt chim muông làm mắm, lấy gừng làm muối,
cấy bằng dao, đốt cỏlàm lửa, lấy ống tre đểnấu cơm, gác gỗlàm nhà để
tránh khỏi hổlang làm hại.
14 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1614 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Từ rượu trong văn hoá Tây Nam Bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Từ Rượu Trong Văn Hoá Tây Nam Bộ ...
Ban Biên Tập Binhtrung.net xin hân hạnh giới thiệu đến tất cả quý bạn loạt
bài biên khảo của Thạc Sĩ Trần Mạnh Thương. Bài 1: Từ Rượu Trong Văn
Hoá Tây Nam Bộ Nhìn Về Sự Ảnh Hưởng Và Tiếp Biến Của Nó Trong Văn
Hoá Thăng Long - Hà Nội. Bài 2: Ca Dao Dưới Góc Nhìn Giọng Điệu. Bài
3: Vài Cảm Nhận Về Môtip "Đôi Ta..." Trong Ca Dao Tây Nam Bộ. Hôm
nay Binhtrung.net gởi đến quý bạn bài 1 trong loạt bài đó. Binhtrung.net xin
chân thành cám ơn Thạc sĩ Trần Minh Thương đã có một tấm tình rất tốt đẹp
dành cho Binhtrung.net. Quý bạn muốn trao đổi tham khảo ý kiến với Thạc
Sĩ Trần Minh Thương xin liên lạc : Th.S Trần Minh Thương
Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam
Địa chỉ: Trường THPT Mai Thanh Thế, Ngã Năm, huyện Ngã Năm, Sóc
Trăng;
ĐT: 0988092618. email: tranminhthuong.c3mtt@soctrang.edu.vn
TỪ RƯỢU TRONG VĂN HÓA TÂY NAM BỘ NHÌN VỀ SỰ ẢNH
HƯỞNG VÀ TIẾP BIẾN CỦA NÓ TRONG VĂN HÓA THĂNG
LONG – HÀ NỘI
1.Rượu trong văn hóa dân gian Tây Nam Bộ
1.1. Thời điểm rượu xuất hiện …
Khó có thể biết được rượu ra đời từ lúc nào, ở đâu, song nói về rượu, về tác
dụng chữa bệnh, về văn hóa uống rượu thì tất cả các dân tộc trên thế giới đều
có. Ở Việt Nam, rượu gắn với sinh hoạt cộng đồng, với các nghi lễ, hội hè,
đình đám, với những lời thề ước, nhưng nếu uống rượu quá đà cũng gây
nhiều phiền lụy...
Lĩnh Nam chích quái cho rằng: Buổi mới dựng nước, đồ ăn của dân chưa đủ.
Lấy vỏ cây làm áo, dệt cói làm chiếu, lấy hèm gạo làm rượu, lấy bột quan
lang (cây dao) làm bánh, lấy thịt chim muông làm mắm, lấy gừng làm muối,
cấy bằng dao, đốt cỏ làm lửa, lấy ống tre để nấu cơm, gác gỗ làm nhà để
tránh khỏi hổ lang làm hại.
Và có lẽ cũng từ đó, rượu đã đi đời sống văn hóa của người bình dân và
bằng cách này hay cách khác nó đã tồn tại trong cộng đồng người Việt nói
chung, trong đó có người dân đồng bằng sông nước Cửu Long.
Theo Cơ sở văn hoá Việt Nam của Trần Quốc Vượng (chủ biên), phần được
coi là Tây Nam Bộ có diện tích khoảng 4.000 km2, chủ yếu là vùng đồng
bằng sông Cửu Long, một số đảo (lớn nhất là đảo Phú Quốc) cùng một vài
dãy núi thấp ở phía Tây An Giang, Kiên Giang. Lịch sử hình thành vùng đất
này gắn liền với bước chân những người đi mở cõi thế kỷ XVII – XVIII
Tới đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ con cá vùng cũng kinh
Cư dân vùng đất này chủ yếu là người Việt, bên cạnh đó có đồng bào các
dân tộc Khmer, Hoa, Chăm, … sinh sống trong tình thần đoàn kết, thân ái.
Và giữa các cộng đồng dân cư ấy, sự ảnh hưởng và giao thoa văn hóa diễn ra
một cách tất yếu.
Người Việt (kinh) có mặt ở vùng đồng bằng do phù sa sông Cửu Long bồi
đắp này, tính đến nay đã hơn ba thế kỷ. Theo nhiều tài liệu đánh tin cậy,
những người đầu tiên đến đây mở cõi cùng lúc với các sắc chỉ của chúa
Nguyễn cho di dân vào phương Nam để khẩn hoang lập làng lập ấp. Cùng
với những nét văn hoá vật chất còn truyền lại thì những nét văn hoá tâm linh
cũng được con cháu hậu sinh bảo tồn lưu giữ.
Khi mới đặt chân đến vùng đất này, Tây Nam bộ từ miền đất hoang vu rừng
rậm, nhiều sông rạch, đầm lầy "muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội tợ bánh canh ,
trên rừng nhiều thú dữ, rắn độc và động vật quý. Dưới nước tôm cá bạt ngàn,
còn có cá sấu, cá mập, …
Người nông dân Tây Nam bộ lao động cần cù, dũng cảm. Thế hệ sau tiếp nối
thế hệ trước cải tạo những mảng đất bát ngát nhưng phèn chua và ngập
nước, phòng chống thú dữ trên rừng, chống lam chướng dưới nước để trồng
lúa, đánh bắt cá tôm, … Ở vùng đất giồng cao hơn thì trồng cây hái trái, …
trồng tỉa hoa màu, …Ðể tồn tại và phát triển tất yếu các gia đình nông dân
trong xóm ấp liên kết lại, lao động dần công (đổi cồng) cưu mang đùm bọc
trong cái nghĩa “bán anh em xa mua láng giềng gần”, giúp đỡ nhau chén
cơm manh áo, hột gạo của khoai, “tối lửa tắt đèn” có nhau.
Tuy cuộc sống vô cùng cơ cực ngày ngày lao động trên đồng ruộng, đêm
đêm nam nữ quây quần xay lúa, giã gạo, chài đôi, chài ba, rồi ca hát hoặc hò
đối đáp dưới ánh trăng, tình quê tuy mộc mạc nhưng thấm đậm nghĩa tình.
Những người nông dân có mặt ở vùng đất Tây Nam bộ này hơn 300 năm
trước đây là những nông dân đến từ nhiều vùng ở miền Trung, miền Bắc.
Một số ít người Hoa (nhó Minh Hương), chạy bỏ nhà Thanh, đến định cư
nơi này (theo Trần Thượng Xuyện, Dương Ngạn Địch, …), nhóm của dòng
họ Mạc ở Hà Tiên là hùng mạnh nhất.
Buổi đầu lập nghiệp trên vùng đất hoang sơ gặp muôn vàn khó khăn, thiếu
thốn, vất vả, … mồ hồi và cả máu của họ đã đổ xuống, thành quả đạt được là
những cánh đồng lúa vàng cò bay thẳng cánh, những vườn cây mát mắt trĩu
quả quanh năm, …Theo đó, mối quan hệ giữa người với người từ bốn
phương tụ hội trên mảnh đất này càng thêm ấm áp nghĩa tình. Tấm lòng
người nông dân Tây Nam bộ xưa nay luôn đức độ bao dung, sẵn sàng tha
thứ cho những ai biết hối cải lỗi lầm, nhưng cũng không tha thử kẻ gian ác,
điêu ngoa. Họ coi trọng nhân – nghĩa – trí – dũng – liêm, lòng thương người
bao la vô tận, nhưng rất ghét bọn gian tà, xu nịnh, những kẻ "tham phú phụ
bần". Tính cách khí khái “trọng nghĩa khinh tài”, “giữa đường dẫu thấy bất
bằng mà tha”, sự cương trực “ăn ngay, nói thẳng”, … đã góp phần tạo nên
bản sắc riêng trong đời sống của người dân miệt sông nước Cửu Long.
Gắn liền với đời sống sinh hoạt hàng ngày thức uống của họ ngoài nước
mưa, nước giếng, họ còn dùng trà hay các thứ rễ cây, lá cây pha nước để giải
khát. Rượu cũng là loại đồ uống không thể thiếu đối với người lao động bình
dân. Rượu là đồ uống, nhưng không phải là nước, chức năng của nó không
đơn thuần chỉ là giải khát, và đương nhiên rượu cũng được chế biến kỳ công
hơn là nước có sẵn từ tự nhiên. Xét về góc độ văn hóa, rượu đã tạo nên một
đặc trưng thú vị!
1.2. Cách nấu rượu
Để có được rượu ngon tuyệt hảo người ta phải chăm chút từng hạt nếp, cục
men, từng động tác chưng cất, pha chế để được loại rượu ngon nhất. Chọn
nếp là bước quan trọng đầu tiên. Muốn được rượu trong thì nếp phải ''rặt'',
tuyệt đối không được lộn hạt gạo nào. Thường là nếp mỡ và nếp mù u và
nếp than đen tuyền, ... Sau khi chọn nếp ngon, đem nấu thành cơm nếp, để
nguội (còn âm ấm) thì rắc men vào (giã nhuyễn) vào ủ kín. Men rượu
nguyên thủy được mài rễ thảo mộc hoặc men bí truyền chế từ các vị thuốc
bắc: quế khâu, đinh hương, trần bì, quế chi, đại hồi cộng thêm nhãn lồng,
trầu hương... Sau ba đêm, men đã lên, người ta chan nước vào ủ kín lại như
lúc đầu, để thêm ba đêm sau nữa thì nấu.
Lò nấu rượu đắp bằng đất sét. Cơm rượu được cho vào trã (loại nồi bằng đất
nung lớn), dùng rơm, rạ, cũi khô đun lên, hỗn hợp cơm rượu có nước bay
hơi, người ta cho hơi nước ấy gặp lạnh (nước lạnh này chứa trên cái diệm
sành) thì ngưng lại thành giọt rượu, cứ thế hứng vào chai, ve, can nhựa, …
Lúc trước nấu bằng rơm, trấu nên phải mất cả ngày trời mới xong một mẻ
rượu, nay nấu bằng than đá nên nhanh hơn, chỉ cần khoảng 4 tiếng đồng hồ
là xong (một tiếng đun sôi, 3 tiếng để lấy rượu).
Rượu lấy được lúc đầu gọi là rượu gốc, nước trong veo, cao độ, cứ thế dần
về sau nước rượu nhạt dần. Khi nấu xong, tùy theo yêu cầu và mục đích
dùng người ta pha “nước gốc” và “nước ngọn” chung vào nhau, cũng có khi
để nguyên rượu gốc mà dùng, hay pha thêm nước cho nồng độ lạt bớt đi!
Xin được nói thêm ngày nay, nhiều người đã thay nếp bằng gạo để nấu rượu,
chất lượng của loại rượu này đương nhiên thấp hơn so với nguyên thủy!
1.3. Tên gọi các loại rượu
Rượu nấu bằng nếp như chúng tôi đã miêu tả nên tên gọi đầu tiên của nó là
rượu nép. Dân gian còn gọi bằng nhiều tên khác như rượu trắng, rượu đế, …
Rượu trắng là dựa vào màu sắc của nước rượu. Cũng loại rượu ấy, nhưng
nhiều người nấu nếp than (loại nếp hạt đen) làm cơm rượu (xin nói thêm
cơm rượu này cũng là cơm nếp ngon, được vò viên tròn nhỏ cỡ đầu ngón
chân cái, ủ men, chan nước đường, dùng ăn chơi lũ nhàn nhã, thức ăn này có
loại men riêng, còn “cơm rượu” dùng để nấu rượu ít người “ăn nổi” bởi
nồng độ men của nó “nặng” hơn nhiều!), nghiền nát cho thêm nước có
đường vào pha chung tạo thành loại rượu có màu hồng sẫm, được gọi là
rượu nếp than.
Rượu nếp than đậm đặc rồi chôn xuống đất, … mấy tháng đào lên uống rất
ngon hơn nhiều lần, dân nhậu gọi là “lão tửu”!
Rượu trắng, rượu nếp than còn có những tên gọi khác: rượu đế, nước mắt
quê hương!
Tên gọi rượu đế được nhiều bậc lão nông tri điền miệt này giải thích rằng:
Đầu thập niên 1860, Pháp đến xâm chiếm vùng Sài Gòn – Gia Định, sau đó
lấn dần toàn cõi Nam kỳ lục tỉnh. Chúng ngang nhiên “cấm người bản xứ
nấu rượu” nhưng lại buộc dân ta uống “rượu Tây!”. Bà con ta tất nhiên là
không chịu để bọn thực dân đô hộ lộng quyền nên quyết định … nấu rượu
lậu. Rượu lậu vừa rẻ lại vừa ngon hơn rượu của Nhà nước thực dân, cơm
rượu được cho vào các hủ sành rồi đem giấu trong những lùm tranh, lùm đế
ở xa nhà, hoặc khi thấy Tây đoan đến bắt, nghe động thì bê tất cả nồi rượu,
bình rượu chạy vội dấu dưới đồng cỏ hoang dại mọc toàn cây đế, một loài
cây giống cỏ năn, cỏ lác, cỏ tranh, hay lau sậy mọc cao vút đầu. Từ đó, dân
gian gọi rượu này là rượu đế!
Nhưng xem ra không mấy bợm nhậu hiểu tường tần nguyên lai của hai tiếng
rượu đế này. Họ chỉ gọi rượu đế là rượu vua. Dân nhậu tự xưng là con
Ngọc Hoàng, mà con Ngọc Hoàng thì không phải sợ ai cả!
Hiu hiu gió thổi đầu non
Mấy thằng cha uống rượu là con Ngọc Hoàng
Đặc sản rượu đế có rượu đế Gò Đen. Gò Đen là một địa danh Bến Lức, tỉnh
Long An. Rượu đế Gò Đen có từ thời Pháp thuộc. Vì sao Gò Đen lại được
coi là ''đệ nhất tửu''? Truyền rằng, trước đây, dân Gò Đen nấu rượu bằng tất
cả cái tâm.
Người Gò Đen cẩn thận trong các bước nấu rượu. Nếp được ngâm đến ngày
thứ bảy thì mới bắt đầu cất rượu. Rượu đế Gò Đen dễ nhận biết. Dân sành
rượu thường dùng cách lắc chai để nhận biết rượu ngon hay dở. Rượu ngon
khi lắc chai sẽ nổi bọt và phân thành 3 tầng rõ rệt, bọt lại chậm tan.
''Mỹ tửu'' Gò Đen ''chinh phục'' người uống bởi rượu trong như nước mưa.
Mỗi khi rót rượu vào ly, tiếng rượu chảy, vị cay nồng đã đủ làm say, làm
khao khát lòng người uống.
Để đánh giá chất lượng rượu, người bình dân miệt này còn truyền tai câu
hát:
Rượu ngon bởi vì men nồng
Người khôn bởi vị giống dòng mới khôn.
Rượu đế được đem ngâm với bìm bịp (một loài chim mà theo kinh nghiệm
dân gian là một phương thuốc có tác dụng bổ thận tráng dương), gọi là rượu
bìm bịp, ngâm với con tắc kè (loài bò sát, đã được thẩm định là có chức
năng chữa bệnh gân cốt) gọi là rượu tắc kè, … Tương tự thế, rượu đế ngâm
với chuối hột (trái chuối hột chín, loại chuối rừng cho trái nhỏ, vỏ dày, nhiều
hột đen, được đem về ép phơi khô, nướng sơ qua lửa than rồi cho vào keo đổ
rượu đế vào ngâm) một tháng sau, rượu có màu đỏ au, gọi là rượu chuối hột;
rượu ngâm với rễ nhàu, hoặc trái nhàu chín tạo nên màu vàng nhạt, gọi là
rượu nhàu! (Nhàu ở đây còn được bợm nhậu chơi chữ, uống vô … nhào
luôn!)
Riêng rượu rắn thì có nhiều loại tam xà, ngũ xà, nhiều khi người sành điệu
chỉ ngâm trong hủ duy nhất một con … hổ mang chúa! Rượu ngâm thuốc
bắc cũng rất đa dạng, những năm gần đây dân miệt này cũng rất hảo loại …
Minh Mạng thang!
Ngoài những thứ rượu đế ngâm hoặc để nguyên chất uống, nhiều người còn
ngâm rượu để bóp chân tay, gân cốt, … thứ này không phổ biến, thường chỉ
có các thầy thuốc nam, hoặc các thầy dạy võ mới sử dụng!
1.4. Rượu trong lễ nghi, phong tục
Đối với người miệt sông nước, bất cứ nghi lễ nào cũng không thể thiếu …
rượu!
Trong cuộc đời con người, từ lễ đầy tháng, thôi nôi cho trẻ con mới sinh
cũng dùng rượu để cúng mười hai mụ bà, mười ba đức thầy, cầu mong cho
trẻ mau lớn, khỏe mạnh!
Lễ cưới, hỏi của nam nữ thanh niên, rượu luôn luôn có mặt. Cách đây gần
thế kỷ, khi đi mời khách đến dự đám cưới, đám hỏi, nhiều gia đình khá giả,
hiểu lễ nghĩa thường cho người mặc áo dài, chít khăn đóng, mang theo mâm
trầu rượu đến nơi thì kính cẩn rót rượu mời gia chủ và sau đó mới trình thưa
chuyện. Ngày nay, trong thiệp hồng báo tin vui, người ta vẫn dùng câu …
Vui lòng đến dự tiệc RƯỢU, chung vui cùng gia đình chúng tôi, …. Trong
mọi hoạt động lẽ nghi của đám cưới, đám nói, luôn luôn có một chiếc bình
nhỏ và hai chiếc chung nhỏ (gọi là mâm trầu rượu). Muốn nói gì, thưa
chuyện gì chủ lễ đều phải rót rượu để trình rồi mới thưa chuyện, …
Cũng từ đó mà đôi tân lang tân giai nhân vui mừng ra mặt khi dâng chung
rượu cho đấng sanh thành:
Rượu lưu li chân quỳ tay rót,
Cha mẹ uống rồi nối gót theo anh.
Lễ tang, kết thúc một đời người, rượu cũng được dùng cúng tế, lễ cúng đám
giỗ thì sau ba tuần rượu, hai tuần trà mới được … lui mâm! Khi đốt áo quần
vàng mả, đồ đốt cháy hết người ta rưới vào đó ít rượu với tâm niệm để người
dưới suối vàng … nhận lễ!
Ở các lễ hội cúng đình, cúng miễu, rượu cũng luôn luôn có mặt, và giữ vai
trò quan trọng về mặt nghi lễ! (Trừ lễ Phật ở chùa, bởi rượu là thứ giới cấm
của Phật giáo)
Rượu ngon chắt để bàn thờ
Ba bốn năm không lạt (nhạt), sao giờ lạt đi?
1.5. Rượu để uống
Như chúng tôi vừa nói, rượu chủ yếu là để uống. Các hình thức uống rượu,
mục đích của việc uống rượu vốn rất đa dạng, phong phú.
1.5.1. Uống rượu … một mình: chỉ một người, một bình rượu đế nhâm nhi
để giản gân cốt sau một ngày đào mương, vét cỏ, làm vườn, cấy ruộng, …
Hay người trong cuộc có chuyện buồn đau trong đời không thể bày tỏ cùng
cộng đồng, người ta cũng mượn rượu để giải khuây.
Hồ Xuân Hương ngày trước đã có câu thơ nổi tiếng miêu tả tình cảnh đó:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh (Tự tình)
Rượu càng uống cảng tỉnh, mới là nỗi đau lên đã lên đến tận cùng!
1.5.2. Rượu uống với bạn bè để vui vẻ: dân gian thường nói trà tam rượu tứ.
Uống rượu, ít khi một mình. Thường mâm rượu có hai, ba, bốn, … thậm chí
cả … chục người cùng nhau “nâng ly, cạn chén”. Người dân miệt sông nước
Cửu Long có đặc tính hào phóng mỗi khi rượu đã vào. Có khi lúc đầu mâm
rượu bày trước cửa sân nhà chỉ vài người, sau một hồi, … gặp bất cứ ai đi
ngang (không phân biệt quen hay lạ) đều được gia chủ mời vô … uống!
Chuyện cười ra nước mắt cũng xảy ra: những vị khách “trên trời rơi xuống”
này, uống đã, say lăn ra ngủ. Khi tỉnh lại cả chủ lẫn khách không ai nhận ra
ai, bởi họ chẳng … quen nhau!
Mỗi khi có khách ở xa đến chơi thì gần như chắc chắn sẽ có … nhậu, bởi
khách đến nhà không gà thì vịt, vậy mà!
Đồ ăn, thức nhấm sang thì:
Bắt con cá lóc nướng trui
Làm mâm rượu trắng đãi người phương xa.
Nhiều lúc cao hứng chỉ vài cần vài con khô cá sặt, khô cá trê, thậm chí chỉ là
trái chuối chát, trái khế, trái me dốt với chén mắm ruốc, vài cục muối, mấy
trái ớt, … họ cũng nhậu được!
Về chỗ nhậu thì trong nhà, ngoài vườn, trên bờ mương, đầu ruộng, … miễn
là có chỗ ngồi được là xong.
Ở miệt này, thường uống bằng ly (loại dùng uống trà), kích cỡ lớn nhỏ khác
nhau. Uống rượu cũng có nhiều cách. Chơi nguyên táo, tức là uống cạn cả
ly; cưa hai cho đậm đà tình nghĩa, tức là người trước uống nửa ly, người sau
uống nửa ly còn lại. Theo cách uống này, thì ai lớn tuổi hơn được kính trọng
mời uống, người nhỏ hơn uống sau. Có khi, để tỏ rõ sự sòng phẳng trong
bàn nhậu họ tự giao ai bưng ly nấy uống, như vậy đỡ tốn tiền đò! (tức
chuyền tới chuyền lui)
Nếu như ở nhiều nơi ngoài miền Bắc trong mâm rượu, mỗi người được
“phân” một chung, rượu rót đầy ai muốn uống sao thì tùy lượng, còn ở vùng
này ít khi uống rượu cách đó, cả mâm chỉ dùng chung một ly. Bàn rượu cử
“chủ xị” làm người cầm chai rót và chuyền. Chủ xị thường phải công bằng,
chuyền cho đủ và không được quên ai, kỵ nhất là “quên mình” (nếu xảy ra,
sẽ bị coi là ăn gian, bị phạt nặng). Muốn “từ chức”, chủ xị phải tự uống 3 ly,
ai cãi chủ xị, nếu sai cũng bị phạt 3 ly, nếu chủ xị (tức bỏ qua ai đó trong
mâm), sẽ bị phạt, … Uống rượu thì phải cạn đáy, ai uống còn sót lại chút ít,
bị cho là “kê tán” … sẽ bị cười, bị mất danh của … người nhậu!
Ai đến sau, hoặc về trước cũng bị phạt theo “luật” vào ba, ra bảy (đi trễ
uống liên tiếp 3 ly, về trước thì phải “nốc” … 7 ly!), ...
Đánh giá tửu lượng, dân ăn nhậu truyền nhau bài vè:
Một ly nhâm nhi tình bạn
Hai ly giải cạn tình sầu
Ba ly mũi chảy tới râu
Bốn ly nằm đâu gục đó
Năm ly cho chó ăn chè
Sáu ly ai nói nấy nghe
Bảy ly le le lội nước,
Tám ly chân bước chân quỳ
Chín ly còn gì mà kể
Mười ly khiêng để xuống xuồng
…
Xem ra, đây chỉ là bài vè dùng để chế nhạo người có tửu lượng yếu, mới có
bảy, tám, … ly đã bước, đã quỳ! Sự thật, có người tửu lượng đến 1 – 2 lít là
chuyện … thường! (đương nhiên còn tùy theo chất lượng nồng độ của rượu
nữa!)
2. Rượu trong văn hóa kinh kỳ
Từ những nét văn hóa dân gian về rượu đế ở Tây Nam Bộ, nhìn rộng ra,
chúng tôi cho rằng nét văn hóa ẩm thực ấy có sự ảnh hưởng và tiếp biến từ
văn hóa ẩm thực của các vùng miền khác trên đất nước hình S, cụ thể hơn là
trong sự ảnh hưởng của rượu trong văn hóa Thăng Long – Hà Nội.
2.1. Từ những câu ca dân gian
Nếu ở Tây Nam Bộ nổi tiếng với rượu Gò Đen, thì ở đất Hà thành xưa, rượu
Vạn Vân, rượu Kẻ Mơ hay rượu làng Ngâu, … đã in đậm trong tâm thức bao
đời:
Vạn Vân có bến Thổ Hà
Vạn Vân nấu rượu, Thổ Hà nung vôi
Vạn Vân là làng thuộc huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.
Nước Văn Hồ tha hồ tắm mát
Rượu Hồ Đình thơm ngát đón làng văn
Hồ Đình vốn là một đảo nhỏ trên Văn Hồ ở trước Văn Miếu, xưa có cái đình
trên đó.
+ Làng Mơ cất rượu khê nồng
Làng Vọng dệt gối, chăn tằm làng Mui
+ Rượu ngon xưa vốn nghề nhà
Hoàng Mai, Vọng Thủy không qua rượu Vồi.
+ Em là con gái Kẻ Mơ
Em đi bán rượu tình cờ gặp anh
Hoàng Mai là một làng thuộc vùng Kẻ Mơ, có tên nôm là Mơ Rượu, thuộc
đất Hà Nội ngày nay.
Yên Ngưu đất thực là ương
Kẻ nấu rượu lậu, người tương đó mà
Làng Ngâu có tên chữ là Yên Ngưu, có nghề nấu rượu nổi tiếng, nay thuộc
xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội.
Lễ hội làng, đình đám, … rượu là nhân tố không thể thiếu, dân gian đã đúc
kết thành câu ca:
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè
Cưới hỏi lẽ tất nhiên là không thể thiếu được rượu. Có chàng trai đã hài
hước Anh ngồi anh tính cũng vừa/ Cưới em đồng bạc còn thừa một xu, trong
đó, anh ta cũng dành “một ít” để mua rượu:
Hào tư anh để mua gà
Sáu xu mua rượu, hào ba đi tàu
Và, cuộc sống thường nhật rượu cũng … rất quan trọng:
Thế gian ba sự không chừa
Rượu nồng dê béo gái vừa đương tơ
Hay như:
Còn trời còn nước còn non
Còn cô bán rượu anh còn say sưa
Hình tượng của những “thiên tử” trong thời loạn hiện lên cũng thật thảm hại
dưới đáy chén rượu nồng:
Chúa Chổm uống rượu tì tì
Chết xuống âm phủ khác gì vua Ngô.
Giao tiếp, ứng xử, hình tượng rượu xuất hiện với tần số khá phổ biến, nó đã
trở thành triết lý:
+ Rượu lạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm hết hay hóa nhàm.
+ Ở đời chẳng biết sợ ai
Sợ người say rượu nói dai nói khùng
2.2. Rượu trong sách sử
Khởi đầu là nhà Đinh, trong một cơn say, vua Đinh Tiên Hoàng và trưởng
nam là Đinh Liễn bị tên nội thị Đỗ Thích giết chết. Một triều đại chấm dứt
sau chưa đầy 12 năm (968-979). Rồi các triều đại tiếp theo từ Tiền Lê (có Lê
Ngọa Triều), Lý (Lý Huệ Tông), Trần (Trần Anh Tông, Trần Duệ Tông),
nhà Lê (chúa Chổm – Lê Trang Tông), chúa Trịnh Sâm, Nguyễn Tây Sơn
(Nguyễn Nhạc), nhà Nguyễn (Tự Đức), … Những đấng “con trời” ấy ít
nhiều đều được sử sách ghi chép về những vấn đề liên quan đến … rượu!
Trong văn học Việt Nam trung đại hình ảnh những “đệ tử Lưu Linh”, những
vần thơ “chếnh choáng hơi men” không hiếm. Từ Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Phạm Thái, đến Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công
Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, … sau này là Tản Đà, Nguyễn Tuân, Vũ
Hoàng Chương, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, …, ai cũng có những vần thơ thể
hiện hình tượng “rượu”. Song do khuôn khổ đề tài, chúng tôi không đề cập
sâu vấn đề này. Chỉ nhắc lại để khẳng định rằng rượu đã ăn sâu vào đời sống
của con người trong dòng chảy “nghìn năm văn hiến” của dân tộc.
3. Sự ảnh hưởng và tiếp biến
Từ những dữ liệu vừa phâ