Câu 2: Đồng chí hãy trình bày Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của đạo đức cách mạng. Ý nghĩa của vấn đề đó đối với bản thân đồng chí.
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, nhà lãnh tụ cách mạng đã bàn nhiều nhất về vấn đề đạo đức. Người không để lại những tác phẩm đạo đức lớn nhưng những tư tưởng lớn của Người về đạo đức đã nằm trong những bài viết, bài nói ngắn gọn được diễn đạt rất cô đọng, hàm xúc theo phong cách phương Đông, rất quen thuộc với con người Việt Nam.
14 trang |
Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 2492 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của đạo đức cách mạng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề 1
Câu 1: Đồng chí hãy trình bày Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của đạo đức cách mạng. Ý nghĩa của vấn đề đó đối với bản thân đồng chí.
Đề 4
Câu 2: Đồng chí hãy trình bày Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của đạo đức cách mạng. Ý nghĩa của vấn đề đó đối với bản thân đồng c
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, nhà lãnh tụ cách mạng đã bàn nhiều nhất về vấn đề đạo đức. Người không để lại những tác phẩm đạo đức lớn nhưng những tư tưởng lớn của Người về đạo đức đã nằm trong những bài viết, bài nói ngắn gọn được diễn đạt rất cô đọng, hàm xúc theo phong cách phương Đông, rất quen thuộc với con người Việt Nam.
1. Cơ sở hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, đã được hình thành trong trường kỳ lịch sử, đồng thời kế thừa tư tưởng đạo đức phương Đông, những tinh hoa đạo đức của nhân loại; đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của Mac, Ăngghen, Lênin cũng như những tấm gương đạo đức trong sáng mà các ông để lại. Điều này đã được thể hiện trong những dòng viết đầy xúc động của Người sau khi Lênin mất: “ Lênin là người đã nêu cho chóng ta một tấm gương sáng về sự giản dị vĩ đại và sự khiêm tốn cao độ, không phải chỉ thiên tài của Người mà chính là tính coi khinh sù xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thày, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim họ hướng về Người, không có gì ngăn nổi”. Đây không phải chỉ là tình cảm của Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam, mà còn là tình cảm của tất cả các dân tộc thuộc địa đối với Lênin vĩ đại.
Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều khái niệm, phạm trù của các tư tưởng đạo đức đã có từ trước, nhất là đạo đức Nho giáo. Những khái niệm, phạm trù đánh dấu những bậc thang nhận thức của loài người. Qua các thời kỳ lịch sử, những khái niệm, phạm trù đã trở thành tài sản chung của nhân loại, nhưng nội dung đã có nhiều thay đổi. Những khái niệm nh trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần ,kiệm, liêm , chính... đã có trong Nho giáo từ mấy trăm năm trước công nguyên; dân chủ, tự do, công bằng, bác ái đã xuất hiện từ thời cổ đại Hy lạp.
Hồ Chí Minh sử dụng những khái niệm, những phạm trù đạo đức đã từng quen thuộc với dân tộc Việt Nam từ lâu đời, đưa vào đó những nội dung mới, đồng thời bổ sung những khái niệm, phạm trù đạo đức của thời đại mới. Chính vì vậy mà những giá trị đạo đức mới đã hoà nhập với những giá trị đoạ đức truyền thống của dân tộc, làm cho mỗi người Việt Nam cảm thấy gần gũi. Hơn nữa, những giá trị đạo đức truyền thống lại được nâng lên tầm cao mới, làm cho Người thực hiện được việc kết hợp truyền thống với hiện đại. Việc tiếp thu những tinh hoa đạo đức của nhân loại đã làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên phong phú, đã được đông đảo người nước ngoài chấp nhận, tìm thấy một Viêt Nam trong nhân loại. Sự kết hợp giữa truyền thống và nhân loại cũng là một đặc trưng nổi bật của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ thực tiễn Việt Nam thực hiện một công việc kế thưa có chọn lọc, thâu hoá những giá trị đạo đức của quá khứ, đề xuất những tư tưởng đạo đức mới phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh, nền đạo đức Việt Nam đã mang bản chất mới và đã được chính Người gọi tên cho nó, đó là đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
Đạo đức cách mạng do Hồ Chí Minh đề xướng về lý luận và dày công xây đắp trong thực tiễn là đạo đức mang bản chất và phẩm chất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kết hợp nhuần nhuyễn và sinh động với những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta và những tinh hoa đạo đức của loài người. “Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”.
Khi bàn về đạo đức, Hồ Chí Minh rất hay sử dụng những khái niệm, phạm trù đạo đức đã quen thuộc với dân tộc ta từ lâu đời, trong đó có đạo đức Nho giáo, Phật giáo, nhưng Người đã đưa vào đó những nội dung mới, có khi hoàn toàn mới, đồng thời Người bổ sung những khái niệm, phạm trù đạo đức của thời đại mới. Chính vì thế mà có sự hòa nhập những giá trị đạo đức mới với những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, làm cho quan niệm và tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh luô luôn gần gũi, dễ hiểu đối với nhân dân, với mọi người.
Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức mới là nền tảng của người cách mạng bởi vì, theo Người, sự nghiệp cách mạng tiêu diệt xã hội cũ, xây dựng xã hội mới với những lý tưởng và khát vọng cao đẹp, là một “sự nghiệp khổng lồ”, đầy gian khổ, phức tạp, cần một sự phấn đấu không mệt mỏi, sự kiên định, lòng dũng cảm và hy sinh lớn của nhiều thế hệ cách mạng. Không chăm lo xây dựng đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, Đảng khó có thể thực hiện được đến cùng mục tiêu cao cả của cách mạng. Theo cách diễn đạt bình dị của Người, đạo đức như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh của con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Ngay trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi Đảng đang tiến hành sự nghiệp vĩ đại giải phóng và thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh đã khái quát và cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Chính vì vậy mà Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh “Đảng phải là đạo đức, là văn minh”, và yêu cầu việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức phải là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với phẩm chất nười cách mạng, người đảng viên.
Như vậy, Hồ Chí Minh, nền đạo đức mới của dân tộc ta bắt đầu hình thành và phát triển mạnh mẽ, thấm sâu vào đời sống, trở thành một bộ phận hết sức quan trọng khắc họa diện mạo và đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam, của Văn hiến Việt Nam hiện đại. Nó đã trở thành vũ khí mạnh mẽ của Đảng và của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và vì hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các dân tộc trên thế giới.
3. Vị trí, vai trò của đạo đức
Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa”, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, nếu không có đạo đức làm nền tảng, làm cái căn bản thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vai trò sức mạnh của đạo đức được Hồ Chí Minh nhìn nhận trên các bình diện:
- Có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được sự nghiệp cách mạng vẻ vang. Sự nghiệp cách mạng của chúng ta là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, làm cho người Việt Nam từ nghèo đói trở nên đủ ăn, từ đủ ăn trở nên khá, từ khá trở nên giàu và giàu thì lại càng giàu thêm. Sự nghiệp đó rất cao cả và nhân văn, đòi hỏi phải có những phẩm chất tương ứng.
- Đạo đức là tiêu chí đánh giá sự văn minh, cao thượng của xã hội, con người. Người có đạo đức là người cao thượng; một dân tộc, mặc dầu kinh tế còn lạc hậu, nhưng có được đạo đức cần, kiệm, liêm, chính thì vẫn xứng đáng là một dân tộc văn minh.
- Đạo đức giúp cho con người luôn giữ được nhân cách, bản lĩnh làm người trong mọi hoàn cảnh, không dễ bị thay đổi trước những xoay vần, biến thiên của thời cuộc: Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục.
- Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi lẽ, có tâm, có đức mới giữ vững được chủ nghĩa Mác - Lênin, đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào cuộc sống. Trong mối quan hệ giữa đạo đức và trí tuệ, đức và tài, Hồ Chí Minh đã nêu một quan điểm lớn: Phải có đức để đi đến cái trí. Vì khi đã có cái trí, thì cái đức chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp nhận, đã đi theo.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, cấu trúc nhân cách bao gồm hai mặt: đạo đức và tài năng, phẩm chất và năng lực, hồng và chuyên, trong đó, Người xác định đạo đức, phẩm chất, hồng là gốc, là nền tảng, nhưng điều đó không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài phải kết hợp, phải đi đôi, không thể có mặt này, thiếu mặt kia. Hồ Chí Minh đã nói rất rõ, có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người. Người thực sự có trí thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng, nghiệp vụ để hoàn thành tốt, có hiệu quả, trong thời gian ngắn nhất mọi nhiệm vụ được giao. Khi đã thấy rằng không vươn lên được thì đối với ai có tài hơn mình, mình sẵn sàng học tập, ủng hộ và sẵn sàng nhường bước, để họ bước lên trước.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người đã nêu 23 điểm thuộc “tư cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong ba mối quan hệ: với mình, với người và với việc. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Về vai trò của đạo đức, Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách. Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.
Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường nhắc lại ý của V.I. Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập đến một cách toàn diện. Người nêu yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của con người: đối với mình, đối với người, đối với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.
4. Thực trạng việc rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. (1 điểm)
Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói tới đạo đức là xét trên ba mối quan hệ chủ yếu: với mình, với người, với việc. Biểu hiện cụ thể của ba mối quan hệ đó là sự hy sinh phấn đấu để thực hiện lý tưởng, mục tiêu, chấp hành kỷ luật và đường lối chính sách của Đảng. Thực hành đạo đức cách mạng là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin tưởng quần chúng, hiểu quần chúng, thực hành đại đoàn kết toàn dân. Đó chính là lòng nhân của người cách mạng. Đạo đức cách mạng là phải đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân, thực hành cần kiệm liêm chính...
Xét trên những lĩnh vực then chốt nhất của đạo đức, xã hội ta đã có những chuyển biến quan trọng. Trong sự nghiệp đổi mới, cán bộ, đảng viên nhân dân ta đã sáng suốt, kế thừa và phát huy trí tuệ của dân tộc và thời đại, tiêu biểu là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng một cách phù hợp vào điều kiện của đất nước. Đây là nhân tố hàng đầu bảo đảm cho đời sống tinh thần - đạo đức của xã hội phát triển đúng hướng.
Ý thức phấn dấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên được nâng lên một bước. Nhiều nét mới trong giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức từng bước được hình thành và ăn sâu vào tâm lý quốc dân. Tính năng động và tính tích cực công dân được phát huy, sở trường và năng lực cá nhân được khuyến khích. Không khí dân chủ trong xã hội tăng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh những kiến thức mới, trung thành, dũng cảm, khiêm tốn, có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đạo lý của dân tộc sống có tình có nghĩa, bầu ơi thương lấy bí cùng, lá lành đùm lá rách... được tiếp tục nhân rộng. Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, quý trọng các danh nhân văn hoá, đền ơn đáp nghĩa những người có công, giúp đỡ đồng bào hoạn nạn... trở thành phong trào quần chúng.
Bên cạnh những thành tựu, nổi lên những mặt yếu kém về nhận thức, tư tưởng, chính trị dẫn tới phai nhạt lý tưởng và sa sút về lối sống, phẩm chất đạo đức. Hai vấn đề này gắn bó với nhau.
Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII trong thời gian gần đây đã thẳng thắn chỉ ra sự suy thoái nghiêm trọng về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức có quyền, cán bộ trung, cao cấp. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước, tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đoạ chưa dược ngăn chặn có hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ địa phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ biến. Riêng tham nhũng thì “chứng minh bao nhiêu cũng không đủ, càng nói càng thấy đau xót”. Phải khẳng định rằng, bệnh đã nặng, cho nên phải chữa tận gốc, chữa một cách cơ bản.
Về nguyên nhân, bên cạnh những nguyên nhân khách quan như sự phá hoại của kẻ địch, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, những tiêu cực của cơ chế thị trường, nước ta còn nghèo thì phải nhấn mạnh tới những nguyên nhân chủ quan. Đảng ta chưa lường hết những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, thiếu những biện pháp hữu hiệu cả “xây” và “chống” trên lĩnh vực đạo đức. Việc xử lý những phần tử thoái hoá biến chất trong Đảng và bộ máy Nhà nước chưa nghiêm. Tinh thần tự phê bình và phê bình sa sút ở nhiều cấp bộ Đảng. Trong lãnh đạo và quản lý có những biểu hiện buông lỏng, né tránh, hữu khuynh. ..
5. Ý nghĩa đối với bản thân
5. Thừa Thiên Huế: Học tập và làm theo tư tưởng tấm gương của bác
Đảng bộ, nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã tích cực triển khai thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW, ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Hàng năm, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị cán bộ chủ chốt cấp tỉnh để triển khai, nghiên cứu nội dung các chuyên đề về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Chỉ đạo các huyện ủy, thị ủy, Thành ủy Huế, các đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai học tập, quán triệt tại địa phương, đơn vị. Tỷ lệ cán bộ, đảng viên học tập đạt trên 95%, các đơn vị trong lực lượng vũ trang đạt 100%. Trong quá trình tổ chức học tập, nghiên cứu, các địa phương, đơn vị gắn với tổ chức quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng các cấp, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay".
Trên cơ sở xác định 5 chuẩn mực đạo đức do Ban Thường vụ Tỉnh ủy (khóa XIII) ban hành là cẩm nang quan trọng để thực hiện tốt Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị, Ban Thường vụ Tỉnh ủy (khóa XIV) đã chỉ đạo triển khai sâu rộng trong các cấp, ngành, địa phương, đơn vị bảo đảm tính kế thừa và sáng tạo phù hợp với tình hình nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới. Nhiều cơ quan, đơn vị đã căn cứ lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với ngành, lĩnh vực và hướng dẫn của ngành dọc cấp trên cụ thể hóa thành những chuẩn mực, tiêu chí sát thực, phù hợp để cán bộ, đảng viên căn cứ thực hiện. Trong đó, đã chú trọng việc nêu cao đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, bảo đảm việc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị đi vào chiều sâu và có hiệu quả thiết thực.
Việc ban hành và thực hiện các chuẩn mực, tiêu chí đạo đức theo tư tưởng, tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị đã nhận được sự đồng tình ủng hộ, tích cực thực hiện của đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, tạo thành phong trào thi đua học tập rộng lớn trong toàn Đảng bộ, góp phần quan trọng trong việc thực hiện tốt Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị, Kế hoạch 13 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
Nhận thức trách nhiệm nêu gương, tự giác đi đầu trong việc học tập và làm theo Bác là một giải pháp cơ bản để thúc đẩy mạnh mẽ phong trào học tập và làm theo Bác sâu rộng trong cán bộ, đảng viên toàn tỉnh, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị đã nghiêm túc thực hiện Quy định 101-QĐ/TW, ngày 07-6-2012 của Ban Bí thư về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”. Nhiều đồng chí đã đi đầu trong việc chỉ đạo tổ chức, thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác tại địa phương, cơ quan, đơn vị do mình phụ trách. Bên cạnh việc thể hiện tính tích cực, chủ động trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện, mỗi đồng chí lãnh đạo chủ chốt ở các cấp xây dựng cho mình kế hoạch tu dưỡng, rèn luyện theo tấm gương đạo đức của Bác qua những việc làm cụ thể, thiết thực gắn với nhiệm vụ, lĩnh vực công tác.
Trong quá trình triển khai thực hiện, cấp ủy đảng các cấp đã gắn với việc triển khai, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Quy định 47-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm. Đặc biệt, qua đợt triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), các cấp ủy đã nghiêm túc chỉ đạo tổ chức kiểm điểm đối với các đồng chí bí thư, phó bí thư, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Qua kiểm điểm, mỗi đồng chí đã tự nhận thức được những khuyết điểm, hạn chế và chủ động xây dựng kế hoạch khắc phục, sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm đã được nêu ra trên tinh thần tự giác, trung thực; qua đó, tạo chuyển biến tích cực về chính trị, tư tưởng và tổ chức; góp phần quan trọng xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Nhằm thiết thực đưa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên trong các tổ chức Đảng và mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị, thành hành động tự giác trong mỗi cán bộ, đảng viên và mọi hoạt động của các cấp, các ngành, địa phương, ngay sau khi có hướng dẫn chỉ đạo của Trung ương, đã kịp thời chỉ đạo các cấp ủy bổ sung nội dung học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình hành động toàn khóa của từng tổ chức đảng.
Các huyện ủy, thị ủy, Thành ủy Huế và các đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy nghiêm túc chỉ đạo các tổ chức đảng trực thuộc đưa nội dung các chuyên đề hàng năm về tư tưởng và tấm gương đạo đức của Bác vào sinh hoạt định kỳ hàng tháng, quý trong sinh hoạt chi bộ. Chú trọng thảo luận gắn với liên hệ và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị. Sau thảo luận, đã tổ chức cho từng đảng viên tự liên hệ, xây dựng kế hoạch phấn đấu và đăng ký nội dung làm theo Bác với những việc làm cụ thể gắn với nhiệm vụ, lĩnh vực công tác. Trong đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên và tổ chức đảng hằng năm, các cấp ủy đảng đã lấy kết quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh làm tiêu chí để đánh giá chất lượng đảng viên và tổ chức đảng.
Cấp ủy và chính quyền ở nhiều địa phương, đơn vị đã thống nhất lựa chọn và giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm, nhất là trong lĩnh vực tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống gắn với việc khắc phục, sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), coi đây là giải pháp quan trọng của công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Nhiều đơn vị đã triển khai thực hiện nghiêm túc, giải