Kinh tế số đã có sự phát triển nhanh và rộng khắp trên thế giới cũng
như tại Việt Nam. Quá trình chuyển đổi số xuất hiện ở nhiều lĩnh vực
kinh tế- xã hội. Hàng ngàn tài sản số- tài sản mã hoá đã xuất hiện
và trong đó có phần không nhỏ đang được gọi là “tiền số- tiền mã
hoá”. Theo thông lệ và luật pháp quốc tế hiện nay, những loại “tiền
số” này chưa được công nhận là một loại tiền tệ. Tuy nhiên, trong
tương lai không xa, việc xuất hiện các loại tiền số thực sự (do Chính
phủ hoặc Ngân hàng Trung ương của một quốc gia/ nhóm quốc gia
phát hành hay đảm bảo) là hoàn toàn không thể đảo ngược. Trong
phạm vi bài viết này, tác giả tập trung làm rõ bản chất của “tiền số”,
những điều kiện để phát hành “tiền số của ngân hàng trung ương”
và đề xuất những giải pháp quản lý tiền số phục vụ các mục tiêu phát
triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam.
8 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 490 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tương lai của tiền số và những đề xuất quản lý ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
20
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 199- Tháng 12. 2018
Tương lai của tiền số và những đề xuất
quản lý ở Việt Nam
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
Phạm Quốc Khánh
Ngày nhận: 05/12/2018 Ngày nhận bản sửa: 20/12/2018 Ngày duyệt đăng: 26/12/2018
Kinh tế số đã có sự phát triển nhanh và rộng khắp trên thế giới cũng
như tại Việt Nam. Quá trình chuyển đổi số xuất hiện ở nhiều lĩnh vực
kinh tế- xã hội. Hàng ngàn tài sản số- tài sản mã hoá đã xuất hiện
và trong đó có phần không nhỏ đang được gọi là “tiền số- tiền mã
hoá”. Theo thông lệ và luật pháp quốc tế hiện nay, những loại “tiền
số” này chưa được công nhận là một loại tiền tệ. Tuy nhiên, trong
tương lai không xa, việc xuất hiện các loại tiền số thực sự (do Chính
phủ hoặc Ngân hàng Trung ương của một quốc gia/ nhóm quốc gia
phát hành hay đảm bảo) là hoàn toàn không thể đảo ngược. Trong
phạm vi bài viết này, tác giả tập trung làm rõ bản chất của “tiền số”,
những điều kiện để phát hành “tiền số của ngân hàng trung ương”
và đề xuất những giải pháp quản lý tiền số phục vụ các mục tiêu phát
triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam.
Từ khóa: Tài sản số/ mã hoá; Tiền số của ngân hàng trung ương;
Công nghệ sổ cái phân tán
1. Tiền số và xu thế phát
triển của tiền số trên thế giới
huật ngữ “Tiền
số”1 (còn được
gọi là tiền mã
hoá- digital/
crypto currency/
1 Quan điểm của tác giả thì những gì
đang được gọi là “Tiền số” chưa thực
sự là tiền theo cả ý nghĩa về kinh tế
và pháp lý quốc gia, quốc tế. Tuy
nhiên, để thuận lợi cho các ý kiến chia
money) đã và đang được phát
triển trên thế giới với gần
2.000 loại khác nhau do các
cá nhân, tổ chức (không thuộc
Chỉnh phủ, Nhà nước) tạo lập
và phát hành. Ý kiến về thực
tế và triển vọng ứng dụng rộng
rãi loại tiền này là rất khác
nhau. Theo tiêu chuẩn Thống
kê tài chính và tiền tệ (MFS)
sẻ trong đánh giá, khuyến nghị trong
nghiên cứu này, tác giả vẫn sử dụng
thuật ngữ “Tiền số” trong bài viết
của IMF thì hiện tại các loại
tiền số này chưa được công
nhận vì một số lí do: Chưa
được Ngân hàng trung ương
(NHTW) hay Chính phủ nào
phát hành/ bảo đảm; Chưa
được công nhận như là trung
gian trong quá trình trao đổi
một cách rộng rãi; Giá trị danh
nghĩa còn biến động mạnh
Các quốc gia như Trung Quốc,
Nga, Australia, Nhật Bản, Liên
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
21Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 199- Tháng 12. 2018
minh châu Âu, Hoa Kỳ đều
đã có các nghiên cứu (công
bố hoặc không công bố chính
thức) về tiền số nói chung và
tiền số do NHTW phát hành.
Ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (NHNN)
đã chính thức thông báo, từ
ngày 01/01/2018, bitcoin và
các loại tiền ảo vào nhóm
các phương tiện thanh toán
bất hợp pháp tại Việt Nam;
việc phát hành, cung ứng, sử
dụng bitcoin và các loại tiền
ảo tương tự khác làm phương
tiện thanh toán là hành vi bị
cấm tại Việt Nam. Mặc dù
vậy, để tận dụng cơ hội từ
cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 cho chuyển đổi mô hình
tăng trưởng, phát triển kinh
tế số và hạn chế những rủi
ro, hệ lụy cho xã hội, kịp thời
phát hiện, ngăn chặn, xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật,
ngày 21/8/2017, Thủ tướng
Chính phủ đã ký Quyết định
số 1255/QĐ-TTg phê duyệt
Đề án Hoàn thiện khung pháp
lý để quản lý, xử lý đối với
các loại tài sản ảo, tiền điện
tử, tiền mã hóa. Đây là định
hướng rất quan trọng và phù
hợp của Chính phủ trước yêu
cầu phát triển của đất nước.
Để hiểu rõ bản chất và điều
kiện làm chủ tài sản số và tiền
số, chúng ta cần hiểu rõ công
nghệ chuỗi khối và các loại
tiền số tư nhân (private digital
currency).
1.1. Công nghệ chuỗi khối
(blockchain) và phạm vi ứng
dụng trong các lĩnh vực kinh
tế- xã hội
Chuỗi khối (blockchain) là cơ
sở dữ liệu (có tính cấu trúc,
được quy định rõ về tiêu chí)
được ghi nhận (recording),
cập nhật (registering) và lưu
trữ (storing) trên mạng thông
tin (network, không phải trên
Nguồn: Don & Alex Tapscott, 2016
Hình 1. Cơ chế vận hành của công nghệ chuỗi khối- blockchain
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
22 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 199- Tháng 12. 2018
một máy chủ/ nhóm máy chủ
tập trung). Cơ sở dữ liệu này
còn được gọi là một sổ cái/ sổ
tổng hợp giao dịch kỹ thuật
số (digital ledger), được quản
lý, phân phối (distributing)
và xác thực (validating) ở
nhiều điểm trên mạng (nodes
of network) với đặc điểm
phi tập trung hoá thông tin
(decentralising information).
Chính việc phi tập trung hoá
này giúp hạn chế việc xáo trộn
các thông tin của hệ thống và
mỗi blockchain trở thành duy
nhất (unique). Những yếu tố
căn bản tạo nên sự tin cậy của
mỗi blockchain: một thuật
toán mã hoá phải được giải mã
(cryptographic puzzle); việc
giải mã (proof-of-work) được
lưu trữ trên toàn bộ mạng
thông tin; toàn mạng thông tin
sẽ xác nhận (verify/ validate)
kết quả giải mã. “Một sổ cái
kỹ thuật số không thể bị phá
hỏng (permanent/ everlasting),
có thể được lập trình để ghi
lại không chỉ những giao dịch
tài chính mà có thể ghi lại tất
cả mọi thứ có giá trị” (Don &
Alex Tapscott, 2016).
Ưu điểm nổi bật nhất là
blockchain mang lại sự tin
cậy cao nhất trong môi trường
mạng hay internet. Sự vận
hành của blockchain không
cần có các trung gian. Công
nghệ chuỗi khối (blockchain
technology) về bản chất là
việc ứng dụng những thành
tựu mới nhất của công nghệ
thông tin- truyền thông để
quản lý sự vận hành và lưu
giữ các chuỗi khối với nền
tảng là công nghệ Sổ cái điện
tử phân tán (DLT- Distributed
Ledger Technology). Việc
kiểm soát các dữ liệu và đảm
bảo độ tin cậy dữ liệu chuỗi
khối đòi hỏi năng lực thiết
lập một chuỗi khối ngay từ
đầu tiên với các quy định chặt
chẽ, thống nhất (pre-agreed
rules). Vì vậy, để ứng dụng
blockchain thì trước hết chúng
ta phải làm chủ được công
nghệ DLT.
Nhờ tính bảo mật và sự linh
hoạt trong thiết kế hệ thống
riêng hoặc chung (private
blockchain hoặc public
blockchain) nên phạm vi
ứng dụng của công nghệ
blockchain ở rất nhiều lĩnh
vực: Chính phủ số, chuỗi sản
xuất hoặc dịch vụ, dịch vụ tài
chính... trong đó có lĩnh vực
về tiền tệ, thanh toán.
1.2. Những đặc điểm cơ bản
ban đầu của tiền số
Tiền tệ đã được phát triển
cùng với sự tiến bộ của xã
hội loài người. Ở những thời
điểm có những điều kiện kinh
tế- xã hội đặc biệt, các loại
hình tiền tệ được điều chỉnh
hoặc những loại hình tiền tệ
mới ra đời. Hiện nay, tiền số
được không ít giới công nhận
như một loại tiền tương lai.
Công nghệ blockchain sẽ giúp
mở rộng các chức năng của
mỗi loại hình tiền tệ trong
lưu thông, đặc biệt, tiền số
(tiền mã hoá, tên tiếng Anh là
digital/ crypto currency hoặc
digital/ crypto money) được
Hình 2. Mô hình Công nghệ sổ cái phân tán DLT
Nguồn: Don & Alex Tapscott, 2016
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
23Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 199- Tháng 12. 2018
hình thành, phát triển và ứng
dụng dựa trên nền tảng này.
Tiền số tồn tại hoàn toàn ở
dạng điện tử (electronical
exists). Hiện tại thì tiền số
chưa được các quốc gia, thể
chế khu vực/ toàn cầu nào
phát hành hoặc đảm bảo. Vì
thế, tiền số hiện không có bất
cứ tổ chức/ quốc gia nào quyết
định khi nào cần tạo thêm, số
lượng tiền số cần có, tiền số
đang lưu thông ở đâu và điều
tra về cách hành vi rửa tiền.
Những đặc điểm căn bản của
tiền số hiện nay:
Thứ nhất, tiền số là một
ứng dụng của công nghệ
blockchain, do đó việc tạo
giao dịch số, lưu giữ phân tán
các khối (block), kiểm tra- đối
sánh (dựa trên nguyên lý đồng
bộ hoá) thực hiện theo đúng
nguyên lý đã đề cập ở trên về
blockchain.
Thứ hai, tiền số sử dụng Mật
mã toán học (Mathematical
cryptography), hiện được
xem là liên kết mạnh nhất
trong các chuỗi bảo mật/
đảm bảo an toàn- yếu tố tạo
sự tin tưởng khi mà tiền số
chưa được một NHTW nào
phát hành. Thuật toán được
sử dụng có tên Thuật toán
bảo mật SHA256 bit (secure
HASH algorithm 256-bit)
với nguyên tắc căn bản là đặt
kết quả đầu ra (output) để sử
dụng các phương pháp tính
toán để có thể liệt kê hết các
khả năng. Với một máy tính
chuyên dụng để giải mã thì
cũng phải mất ít nhất 10 phút
để tìm ra một phương án đạt
kết quả đầu ra đã đặt trước.
Với đồng tiền số như bitcoin
được giới hạn bởi 21.000
đồng thì với năng lực hiện tại
phải đến năm 2140 thế giới
mới giải mã hết (còn gọi là
“đào” tiền ảo).
Thứ ba, mỗi block lưu giữ
đơn vị tiền số sẽ bao gồm hai
“chìa khoá” (two keys- thực
chất là hai khối dữ liệu) chính:
Chìa khoá chung (public key)
thuộc blockchain tham gia để
có thể được giao dịch trong
mạng và Chìa khoá riêng
(private key) dùng để lưu giữ
thông tin riêng của chủ sở hữu
và tính chất giao dịch.
Thứ tư, theo thống kê thì mỗi
tháng xuất hiện cả chục loại
tài sản mã hoá thông qua Cơ
chế chào giá tiền tệ lần đầu
(Initial coin offerings- ICOs).
Lựa chọn thứ nhất của các
ICOs đó là huy động vốn qua
cổ phiếu chào hàng lần đầu
với tính chất đầu tư cho một
công ty khởi nghiệp. Lựa chọn
thứ hai là một tài sản mã hoá
mới được thiết lập dựa trên
nền tảng một tổ chức quản lý
ICOs thông qua việc mua một
dịch vụ trên nền tảng đó.
Những yếu tố công nghệ trên
cho phép có nhiều đồng tiền
số khác nhau như hiện nay.
Chính điều này là một trong
những cơ sở để nhiều NHTW
trên thế giới đang chủ động
tiếp cận nghiên cứu khả năng
lưu hành đồng tiền số của
riêng họ. Tuy nhiên, những
vấn đề căn bản cần được giải
quyết đối với những tài sản số
được chính thức công nhận là
tiền số để lưu hành rộng rãi
bao gồm:
- Tạo lập và duy trì uy tín-
sự tin tưởng, mỗi đồng tiền
đều gắn liền với lòng tin của
công chúng. Tiền giấy thông
thường được lưu thông và
chấp nhận rộng rãi: Tiền giấy
được kiểm soát dễ dàng về
quy mô, người chuyển, người
nhận; Tiền giấy được giao
dịch với sự bảo mật cá nhân
rất cao; Tiền giấy rất khó bị
làm giả với các công nghệ
hiện đại về bảo an; Mọi người
công nhận tiền giấy vì tin
tưởng rằng những người khác
cũng sẽ công nhận như mình;
Tiền giấy có sức mua ổn định
(trong đa số trường hợp) nhờ
sự điều hành của NHTW.
- Một số ý kiến ủng hộ tiền số
cho rằng công chúng tại sao
lại đi tin tưởng vào một cá
nhân và một tổ chức (ám chỉ
NHTW) cho các giao dịch tài
sản của họ. Tuy nhiên, công
chúng cũng sẽ đặt câu hỏi về
sự tin cậy của công nghệ sử
dụng trong việc tạo và lưu
hành tiền số (về blockchain
cũng như các bảo mật riêng
của mỗi block/ đơn vị tiền số
và thuật toán sử dụng).
- Hiện nay, tiền số hình thành
các đơn vị (unit) trong trao
đổi nhưng chưa gắn- “neo”-
với một đồng tiền pháp định
được công nhận rộng rãi nào.
- Với việc áp dụng thuật toán
mã hoá hiện tại dẫn tới việc
cần thời gian để tạo đơn vị
tiền tệ mới cũng như giới hạn
năng lực của mỗi đồng tiền
(SHA256) tạo nghi ngờ về khả
năng đáp ứng yêu cầu đảm
bảo cung- cầu tiền cho nền
kinh tế một cách phù hợp.
- Những thử nghiệm riêng của
một số NHTW về ứng dụng
giao dịch tựa như tiền số trong
phạm vi họ với các ngân hàng
thương mại (NHTM) hiện nay
chưa cho thấy sự tiến bộ đủ
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
24 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 199- Tháng 12. 2018
mạnh để mở rộng thêm hay
thay mới hệ thống thanh toán
liên ngân hàng hay bù trừ hiện
tại- vấn đề của bài toán Chi
phí- Lợi ích. Bên cạnh đó,
những chi phí lớn hiện tại của
tài sản số có tính đầu cơ cao
như bitcoin sẽ rất lớn: Ước
tính năm 2017, một giao dịch
bitcoin phải chi trả số tiền
phí khoảng 55 USD, nếu so
với giao dịch gần như bằng 0
của tiền mặt giữa người mua
và người bán thì đây là một
khoản chi phí giao dịch rất
cao (Timothy Lane, 2018).
Những mô hình tiền số có thể
có trong tương lai phụ thuộc
vào nhiều yếu tố nhưng quan
trọng nhất đó vẫn là tạo nền
tảng vững chắc để có được sự
tin tưởng của xã hội, công cụ
cho sự chủ động của các cơ
quan chịu trách nhiệm về nền
kinh tế- xã hội. Trong thời
gian 3- 5 năm tới, việc xuất
hiện những đồng tiền số thực
sự, do một hoặc một nhóm
NHTW phát hành sẽ là một
thực tế: Cam kết mạnh mẽ từ
NHTW Trung Quốc, Ấn Độ,
Nga... hay dự án Stella của
NHTW châu Âu và NHTW
Nhật Bản. Đồng tiền số của
NHTW phát hành (Central
Bank Digital Currency-
CBDC) tuy chưa thể thay thế
các loại tiền tệ truyền thống
khác nhưng nếu xuất hiện sẽ
có tác động không chỉ ở các
quốc gia này mà đến nền kinh
tế toàn cầu, trong đó chắc
chắn có Việt Nam.
2. Sự cần thiết trong chủ
động tiếp cận, ứng dụng và
quản lý tiền số ở Việt Nam
2.1. Tiền số có ý nghĩa rất
quan trọng đối với việc định
hướng, đảm bảo năng lực
cạnh tranh bền vững của nền
kinh tế số hoá đã và đang
hình thành ở Việt Nam
Kinh tế số hoá (digital/
digitalised economy) hay
kinh tế số được công nhận
như là một phần của nền kinh
tế quốc gia, vận hành theo
các nguyên tắc căn bản của
kinh tế thị trường và dựa trên
nền tảng ứng dụng mạnh mẽ
công nghệ thông tin và truyền
thông, thể hiện đặc biệt trong
việc ứng dụng những nền tảng
công nghệ mới của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư
(CMCN 4.0). Hiện nay, trên
thế giới và ở Việt Nam có
nhiều quan điểm khác nhau
về các chỉ tiêu phản ánh nền
kinh tế số hoá. Liên minh
Châu Âu có sử dụng bộ chỉ số
DESI (Digital Economy and
Sociaty Index, tạm dịch là Bộ
chỉ số Kinh tế và xã hội số)
bao gồm:
(1) Connectivity- Kết nối:
Năng lực đường truyền và
giá dịch vụ internet (Fixed
broadband) và di động
(mobile broadband) tốc độ
cao;
(2) Human Capital- Nhân lực:
Khả năng sử dụng internet
(Internet use), kỹ năng sử
dụng kỹ thuật số cơ bản và
nâng cao basic and advanced
digital skills);
(3) Use of Internet Services-
Sử dụng dịch vụ internet: Nội
dung sử dụng, giao tiếp và các
Nguồn: Uỷ ban châu Âu, 2017
Biểu đồ 1. Chỉ số Kinh tế và xã hội số của một số quốc gia trên thế giới
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
25Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 199- Tháng 12. 2018
giao dịch trực tuyến (Citizens’
use of content, communication
and online transactions);
(4) Integration of Digital
Technology- Sự tích hợp
công nghệ số: Mức độ số
hoá trong hoạt động kinh
doanh (Business digitisation)
và thương mại điện tử
(e-commerce);
(5) Digital Public Services-
Dịch vụ công được số
hoá: Chính phủ điện tử
(eGovernment) và dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ điện tử
(eHealth).
Năm 2017, kết quả đánh giá
của Liên minh Châu Âu về
kinh tế số hoá của các quốc
gia trên thế giới và bản thân
các nhóm thành viên của liên
minh thể hiện ở Biểu đồ số 1.
Quá trình xếp hạng này được
thực hiện hàng năm. Như vậy,
với chiến lược phát triển kinh
tế số, Việt Nam tham khảo các
chỉ tiêu trên để định hướng cho
sự phát triển, trong đó cần đặc
biệt quan tâm đến động lực
chính/ điều kiện tiên quyết cho
sự phát triển nhanh của kinh tế
số. Hệ thống tiền tệ, hệ thống
thanh toán phù hợp sẽ là một
trong những nền tảng cạnh
tranh đặc biệt quan trọng đối
với kinh tế số của Việt Nam.
2.2. Tiền số được ứng dụng
hiệu quả góp phần tạo và bảo
vệ lợi thế trong hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hoá và
dịch vụ của Việt Nam
Với quy mô, cơ cấu hàng hoá
và dịch vụ trong hoạt động
thương mại quốc tế hiện nay
và những năm tới của Việt
Nam đặt ra những câu hỏi lớn:
Việt Nam sẽ thích ứng thế
nào với tiền số từ bên ngoài,
bao gồm cả khu vực tư nhân
và đặc biệt là các quốc gia có
quan hệ thương mại chủ yếu?
Năng lực cạnh tranh của hàng
hoá xuất khẩu Việt Nam ra thế
giới liệu có bị ảnh hưởng?
Nếu nhìn vào quan hệ xuất
khẩu, nhập khẩu hàng hoá và
dịch vụ trong 6 tháng đầu năm
2018 có thể thấy rõ những
quốc gia/ nhóm quốc gia có
quan hệ thương mại lớn nhất
với Việt Nam đều có những
cam kết về mạnh mẽ về kinh
tế số, sử dụng các điều kiện
của kinh tế số để phát triển.
Biểu đồ 2. Thị trường xuất, nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2018
Đơn vị: Tỷ USD
Nguồn: Tổng cục Hải quan, 2018
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
26 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 199- Tháng 12. 2018
Bên cạnh đó, việc ứng dụng
tiền số cũng sẽ góp phần tạo
lợi thế cạnh tranh cho các mặt
hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam nhờ tiết kiệm chi
phí, nhanh chóng, chính xác,
an toàn trong thanh toán.
2.3. Việc điều chỉnh chiến
lược và chính sách thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài
sẽ có điều kiện thuận lợi hơn
với việc ứng dụng tiền số
trong tương lai
Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê, lũy kế đến tháng
8/2018 có gần 90 quốc gia và
vùng lãnh thổ có dự án đầu tư
tại Việt Nam, trong đó Hàn
Quốc đứng vị trí thứ nhất với
tổng vốn đầu tư 61,08 tỷ USD,
Nhật Bản đứng thứ hai với
tổng vốn đầu tư đăng ký 55,84
tỷ USD; Singapore đứng vị
trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư
Biểu đồ 3. Kinh ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực
năm 2017 thay đổi so với năm 2016
Đơn vị: Tỷ USD
Nguồn: Tổng cục Hải quan, 2018
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2018
Biểu đồ 4. Nhóm 10 quốc gia có vốn FDI lớn nhất tại Việt Nam
đăng ký 45,89 tỷ USD.
Những điều chỉnh chính sách
thu hút đầu tư trực tiếp trong
thời gian tới ở Việt Nam
không thể không tính tới nội
dung tiền số khi mà các quốc
gia đầu tư trực tiếp đều có
cam kết về áp dụng tiền số
trong tương lai.
Bên cạnh những lợi ích kể
trên, việc áp dụng tiền số với
lộ trình thích hợp ở Việt Nam
còn có tác dụng tích cực đến
khuyến khích các nguồn lực
trong nước về đầu tư, đổi
mới sáng tạo nhờ những cơ
hội rộng mở trong quá trình
chuyển đổi số ở cả lĩnh vực
kinh tế và phi kinh tế.
2.4. Những tác động của tiền
số (khu vực tư nhân hoặc do
NHTW các nước phát hành)
đến quản lý vĩ mô hoạt động
tiền tệ- ngân hàng ở Việt Nam
Khối lượng giao dịch tiền số/
tài sản số- mã hoá đã tăng gần
100 lần chỉ trong vòng hai
năm qua trên thế giới. Trong
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
27Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 199- Tháng 12. 2018
năm 2018 đã chứng kiến sự
suy giảm tới 40% (các nhà
kinh tế có thể gọi là sự sụp
đổ) của giá trị của các đồng
tiền số, nhưng dường như sự
nhiệt tình quan tâm của các
quốc gia, công chúng không
hề suy giảm. Bên cạnh đó,
nhiều cam kết mạnh mẽ từ
NHTW một số quốc gia về
việc nghiên cứu ứng dụng
CBDC riêng trong tương lai
đã được đưa ra. Thực tế và xu
thế này đã và đang có những
tác động đến hoạt động tiền
tệ- ngân hàng ở Việt Nam, tác
động đến các chức năng chính
của NHTW: chính sách tiền
tệ, ổn định tài chính, thanh
toán và tiền tệ.
3. Một số khuyến nghị về
giải pháp ứng dụng và quản
lý tiền số ở Việt Nam
Yêu cầu lớn nhất đặt ra đối
với Việt Nam trong việc quản
lý tiền tệ- ngân hàng đó là
năng lực làm chủ công nghệ
trong việc phát hành, tổ chức
lưu thông cũng như quản lý
các dòng vốn trong và ngoài
nước trước sự tồn tại thực sự
của tiền số. Đề xuất của tác
giả về giải pháp cần được
triển khai ngay bao gồm:
Thứ nhất, ở giác độ Chính
phủ, Việt Nam cần làm chủ
công nghệ DLT (Distributed
ledger technology- Công nghệ
sổ cái phân tán) và kiểm soát
các thuật toán mã hoá 256 bit
(SHA256) để áp dụng cho các
khoá riêng trong mỗi block
(private key). Việt Nam có thể
áp dụng các kinh nghiệm của
nhiều nước trong việc thành
lập trung tâm nghiên cứu, tổ
chức đấu thầu cung cấp giải
pháp... Nhưng theo quan điểm
của tác giả, việc tiếp cận quan
sát của tác giả đó là việc mua
lại một công ty.
Thứ hai, NHNN cần
nghiên cứu thiết kế hạ tầng
blockchain (platform) riêng
của ngành Ngân hàng để đảm
bảo an toàn cao nhất cho các
giao dịch của các tổ chức tín
dụng, các tổ chức thanh toán
khi triển khai ứng dụng trên
nền tảng mới. ICOs platform
là một t