Nghiên cứu nhằm đánh giá tương quan giữa axit dạ cỏ, chân móng và năng suất sữa của bò sữa tại Trung
tâm Nghiên cứu và Chuyển giao Khoa học Công nghệ, Đại học Nông lâm TPHCM từ tháng 10 đến tháng
12/2017. Kết quả cho thấy năng suất sữa thấp là 14,01 kg/con/ngày, đặc biệt ở lần vắt buổi chiều là 4,99
kg/con. Tỷ lệ bò bị chân móng cao nhất ở nhóm vắt sữa so với nhóm cạn sữa, hậu bị và bê lần lượt là
61,67; 27,78; 9,26 và 2,78% (P = 0,001). Bệnh chân móng và năng suất sữa có tương quan nghịch chặt chẽ
với r = - 0,91. Nhóm bò vắt sữa bị chân móng có pH dạ cỏ thấp là 5,11; thấp hơn nhóm không đau chân là
6,09 (P = 0,001). Nhóm bò bị chân móng có pH trong khoảng 5 đến 5,5 chiếm 72,07% và dưới 5 chiếm
14,41%. Trong khi ở nhóm không đâu chân có pH cao hơn trong khoảng 5,5 đến 6 chiếm 60,87%; tương
quan thuận chặt chẽ với năng suất sữa là r = 0,92. Bò sữa bị sốc nhiệt nguy hiểm từ 7 giờ đến 14 giờ, đặc
biệt lúc 12 và 14 giờ có chỉ số nhiệt ẩm THI lần lượt là r = 82,28 và 81,38; tương quan nghịch chặt chẽ với
năng suất sữa là r = - 0,92. Sử dụng thức ăn tinh cho bò vắt sữa ở mức cao đến 66,94% trong khẩu phần,
tương quan nghịch và thuận chặt chẽ với pH dạ cỏ và bệnh chân móng lần lượt là r = - 0,99 và 0,95.
9 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 18/06/2022 | Lượt xem: 209 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tương quan giữa axit dạ cỏ, bệnh chân móng và năng suất sữa ở bò lai HF, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1146
TƢƠNG QUAN GIỮA AXIT DẠ CỎ, BỆNH CH N MÓNG VÀ NĂNG
SUẤT SỮA Ở BÒ LAI HF
Nguyễn Thanh Hải*, Nguyễn Văn Chánh, Chế Minh, Dƣơng Nguyên Khang
Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh
*
Email: hai.nguyenthanh@hcmuaf.edu.vn
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm đánh giá tương quan giữa axit dạ cỏ, chân móng và năng suất sữa của bò sữa tại Trung
tâm Nghiên cứu và Chuyển giao Khoa học Công nghệ, Đại học Nông lâm TPHCM từ tháng 10 đến tháng
12/2017. Kết quả cho thấy năng suất sữa thấp là 14,01 kg/con/ngày, đặc biệt ở lần vắt buổi chiều là 4,99
kg/con. Tỷ lệ bò bị chân móng cao nhất ở nhóm vắt sữa so với nhóm cạn sữa, hậu bị và bê lần lượt là
61,67; 27,78; 9,26 và 2,78% (P = 0,001). Bệnh chân móng và năng suất sữa có tương quan nghịch chặt chẽ
với r = - 0,91. Nhóm bò vắt sữa bị chân móng có pH dạ cỏ thấp là 5,11; thấp hơn nhóm không đau chân là
6,09 (P = 0,001). Nhóm bò bị chân móng có pH trong khoảng 5 đến 5,5 chiếm 72,07% và dưới 5 chiếm
14,41%. Trong khi ở nhóm không đâu chân có pH cao hơn trong khoảng 5,5 đến 6 chiếm 60,87%; tương
quan thuận chặt chẽ với năng suất sữa là r = 0,92. Bò sữa bị sốc nhiệt nguy hiểm từ 7 giờ đến 14 giờ, đặc
biệt lúc 12 và 14 giờ có chỉ số nhiệt ẩm THI lần lượt là r = 82,28 và 81,38; tương quan nghịch chặt chẽ với
năng suất sữa là r = - 0,92. Sử dụng thức ăn tinh cho bò vắt sữa ở mức cao đến 66,94% trong khẩu phần,
tương quan nghịch và thuận chặt chẽ với pH dạ cỏ và bệnh chân móng lần lượt là r = - 0,99 và 0,95.
Từ khóa: Năng suất sữa, chân móng, axit dạ cỏ, THI.
ABSTRACT
The aim of the study was to evaluate current status of rumimal pH, lameness and milk yield of cows and
to determine the primary factors affecting them. The survey was conducted in Dairy farms, Research and
Technology Transfer Center, Nong Lam University from October to December 2017. The result showed
that average milk yield was low at 14.01 kg/cow/day, particularly with afternoon milking time at 4.99
kg/cow/day. Lameness prevalence was highest in milking cows compared with dry, heifer and calves with
61.67, 27.78, 9.26 and 2.78%, respectively (P = 0.001). Lameness and milk yield had strongly inverse
correlation with r = - 0.91. Lactating cows with lame legs had low pH at 5.11 and lower than those without
lame legs at pH 6.09 (P = 0.001). Lame legs cows with pH ranging from 5 to 5.5 accounted for 72.07%
and less than 5 accounted for 14.41%. While in the none lame legs cows with higher pH ranging from 5.5
to 6 occupied 60.87%, strongly positive correlation with milk yield with r = 0.92. Dairy cows under
severely alert heat stress were from 7:00 am to 14:00 pm, especially at 12:00 pm and 14:00 pm with THI
of 82.28 and 81.38, respectively; strongly negative correlation with milk yield with r = - 0.92. Using
concentrate for milking cows was very high at the average of 66.94% in diets, strongly negative and
positive correlation with ruminal pH and lameness prevalence with r = - 0.99 and 0.95, respectively.
Key words: Milk yield, lameness, ruminal pH, THI.
1147
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghành chăn nuôi bò sữa ở nước ta đang phát triển khá mạnh, dự kiến đến năm 2020, sản lượng sữa sẽ
đáp ứng được 35% nhu cầu tiêu dùng sữa tươi trong nước, đạt trung bình 27 lít/người/năm (Tổng cục
thống kê, 2014). Tổng đàn tăng nhưng diện tích canh tác càng thu hẹp làm cho người chăn nuôi gặp nhiều
khó khăn trong việc chủ động thức ăn thô xanh càng trầm trọng hơn, nhất là vào mùa khô. Người chăn
nuôi đã sử dụng thức ăn tinh để bù lượng thức ăn thô bị thiếu hụt làm mất cân đối tỷ lệ tinh:thô trong khẩu
phần. Tình trạng này diễn ra lâu dẫn đến mất cân bằng VSV dạ cỏ, giữa nhóm vi khuẩn lên men thức ăn
tinh và thô. Nguyễn Võ Thu Trúc và cs. (2016), khảo sát khẩu phần bò sữa được cho ăn riêng từng loại với
tỷ lệ thức ăn thô/tinh ở thành phố HCM là 43/57; đã ảnh hưởng đến quá trình lên men và nguy cơ axit dạ
cỏ. Khi bò bị axit dạ cỏ thì có xu hướng sinh nhiều axit béo bay hơi, đặc biệt axit lactic, đã làm pH giảm
và mất khả năng đệm, giảm tiêu hóa xơ, tăng bệnh chân móng, giảm năng suất, tử vong. Theo RAGFAR
(2007), đàn bò sữa của Úc có ít nhất 3% axit dạ cỏ cấp tính và 10% axit dạ cỏ bán cấp tính (trích dẫn bởi
Lean và cs., 2013).
Bệnh chân móng là một trong ba bệnh khá phổ biến, chiếm tỷ lệ cao trong chăn nuôi bò sữa. Tuy không
biểu hiện nghiêm trọng như các bệnh truyền nhiễm, nhưng ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, sức sản xuất, sức
đề kháng và tuổi thọ. Từ đó tạo điều kiện cho các bệnh truyền nhiễm khác phát triển làm thiệt hại kinh tế
nặng nề hơn. Axit dạ cỏ đã được chứng minh là một yếu tố quan trọng hàng đầu gây bệnh chân móng
(Sarel và Jan, 2006). Khi pH dạ cỏ giảm dưới 5, sản xuất axit lactic được nâng lên làm tăng độ chua dạ cỏ
và gây giải phóng histamin. Histamin tăng cao sẽ làm tăng lưu lượng máu đến chân móng, làm giản mạch
máu cũng như tăng tạo mao mạch, từ đó làm tăng áp lực máu tại khu vực này. Tăng áp lực sẽ gây xuất
huyết bằng cách gia tăng tính thấm qua thành mạch máu. Khi chân móng bị xung huyết sẽ gây thiếu máu
cục bộ làm oxy và dưỡng chất không đưa đến mô bào dẫn đến phát triển chân móng bị chậm lại. Quá trình
này kéo dài, lập đi lập lại, gây bệnh lý hoặc suy dinh dưỡng của chân móng càng nặng. Các tế bào mô
không đủ dinh dưỡng sẽ làm lớp sừng móng mỏng và chân móng bò dễ bị tổn thương sinh học bởi vi
khuẩn hoặc cơ học (Green và cs., 2002). Ngoài ra mạch máu dễ bị tổn thương; thiếu vitamin, biotin hoặc
khoáng sẽ dẫn đến bệnh chân móng (Lê Đăng Đảnh, 2015). Hơn nữa, Green và cs. (2002) cho thấy khi bò
bị chân móng đã làm giảm đến 360 kg sữa trong chu kỳ. Khảo sát của Phan Việt Thành (2010) đã cho thấy
tỷ lệ bò bệnh chân móng là 10,6% tại TP. Hồ Chí Minh và Bình Dương; tại Đan Mạch là 24,25%
(Thomsen, 2009); tại Canada là 28,5% (Ito và cs., 2010) và 30% (Kelton và cs., 1998).
Mục tiêu nghiên cứu: nhằm xác định mối tương quan và một số yếu tố ảnh hưởng đến axit dạ cỏ, bệnh
chân móng và năng suất sữa trên bò sữa.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Được thực hiện từ tháng 10 đến 12/2017 tại Trại bò, thuộc Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao Khoa
học Công nghệ, Đại học Nông Lâm TPHCM.
2.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trong 6 đợt theo chu kỳ cách nhau 15 ngày. Tổng số gia súc được khảo sát là
133 bò lai HF ở mức F2; trong đó 30 bò đang vắt sữa, 12 bò cạn sữa, 63 bò hậu bị và 28 bê. Nghiên cứu sử
dụng theo phương pháp cắt ngang, tiến hành lấy mẫu dịch dạ cỏ và đo lường các chỉ tiêu khảo sát trực
tiếp.
1148
Tất cả các loại thức ăn được cân trước khi cho ăn và lượng thức ăn thừa được cân lại cuối ngày. Mỗi loại
thức ăn được thu 6 mẫu, với khối lượng 200 gram/mẫu để phân tích vật chất khô (tiêu chuẩn TCVN 4801-
89) tại phòng thí nghiệm Bộ môn Chăn nuôi, Trường Đại học Nông Lâm TPHCM.
Chỉ tiêu theo dõi
Năng suất sữa: Sữa được vắt bằng máy lúc 7 và 14 giờ hằng ngày, được cân ở từng cá thể tại thời điểm vắt
bằng cân loại 30kg và được cộng lại.
Tỷ lệ bò bị bệnh chân móng: Điểm đi lại của bò được xác định theo phương pháp chấm của Sprecher và
cs. (1997) từ 1 đến 5, tương ứng từ mức nhẹ đến nặng. Bò có điểm ≥ 3 được xếp vào nhóm bệnh chân
móng. Tất cả các nhóm bò được chấm theo chu kỳ 15 ngày. Tỷ lệ bò chân móng (%) = Số bò có điểm ≥
3/tổng số lượng bò.
Chỉ số pH: Tất cả bò vắt sữa được lấy dịch dạ cỏ theo chu kỳ 15 ngày trước khi cho ăn. Bò được lấy trực
tiếp dịch dạ cỏ qua đường miệng bằng dụng cụ ống thông dạ cỏ qua thực quản (Geishauser, 1993). Mẫu
được lấy 100 ml/lần lấy/con, sau đó đo bằng pH điện tử cầm tay.
Chỉ số nhiệt ẩm (THI): Sử dụng máy đo tiểu khí hậu chuồng nuôi chuyên dụng để đo nhiệt và ẩm độ ở
chiều cao 1,5m cách nền (ở thời điểm 7, 12 và 14 giờ). Chỉ số nhiệt ẩm được tính: THI = T (0F) - 0,55 *
(100 - RH%)/100 * (T - 58) (Ingraham và cs., 1974).
2.3. Phƣơng pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mền Microsoft Excel (2013) và Minitab 16.2 (2013). Các giá trị trung bình
được so sánh bằng trắc nghiệm Tukey, các tỷ lệ được so sánh bằng trắc nghiệm χ2, khác biệt có ý nghĩa
khi P ≤ 0,05. Hệ số tương quan (r) được dùng để nói lên sự tương quan giữa hai biến số.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Năng suất sữa bò
Năng suất sữa trung bình chỉ đạt 14,01 kg/con/ngày, trong đó, thời điểm vắt sữa buổi sáng 9,02 kg/con cao
hơn thời điểm vắt sữa buổi chiều 4,99 kg/con (P = 0,001; Bảng 1). Theo tác giả Chung Anh Dũng (2014),
năng suất sữa trung bình của bò sữa tại thành phố Hồ Chí Minh là 16,44 kg/con/ngày, trong khi ở báo cáo
khác tại Củ Chi là 15,79 kg/con/ngày (Nguyễn Thanh Hải, 2014), ở huyện Bình Chánh là 22,15
kg/con/ngày (Diệp Tấn Toàn, 2014). Tương tự, Nguyễn Võ Thu Trúc và cs. (2016) cho thấy năng suất sữa
bò trung bình ở nông hộ trên địa bàn thành phố HCM là 11,98 kg/con/ngày.
3.2 Tỷ lệ bò bệnh chân móng
Tỷ lệ bò mắc bệnh chân móng ở nhóm bò đang vắt sữa đạt cao nhất (61,67%); tiếp theo bò cạn sữa, hậu bị
và bê, lần lượt là 27,78; 9,26 và 2,78% (P = 0,001; Biểu đồ 1). Theo khảo sát của Nguyễn Công Thật
(2017) tại trại bò sữa Hoàng Anh Gia Lai cho kết quả ở bò đang vắt sữa là 21,95%, bò cạn sữa, hậu bị và
bê tương ứng là 14,09; 8,4 và 3,07%. Kết quả khảo sát của chúng tôi cũng cao hơn khi so sánh các kết quả
khảo sát của Thomsen (2009) ở Đan Mạch là 24,5%; Phan Việt Thành (2010) tại Thành phố Hồ Chí Minh
và Bình Dương là 10,6%; Joao và cs. (2018) ở Brazil là 21,2% trên cùng đối tượng bò đang vắt sữa. Tỷ lệ
bệnh chân móng của bò sữa bị ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố về điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng và
chuồng trại.
1149
Bảng 1. Năng suất sữa trung bình
Thời điểm n (lần vắt) X (kg/con) CV (%) SEM P
Sáng 180 9,02
a
15,19
0,08 0,001
Chiều 180 4,99b 16,45
Cả ngày 180 14,01 12,59
Qua phân tích tương quan giữa bệnh chân móng và năng suất sữa bò trong nghiên cứu này cho kết quả là
tương quan nghịch và rất chặt chẽ với r = - 0,91 (Đồ thị 1). Điều này đồng nghĩa với việc bò mắc bệnh
chân móng đã ảnh hưởng rõ rệt đến năng suất sữa (P = 0,001). Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên
cứu của Green và cs. (2002) đã cho thấy rằng năng suất sữa bò giảm 360 kg sữa/chu kỳ 305 ngày khi bò bị
bệnh chân móng. Randall và cs. (2016) cũng đã cho thấy rằng năng suất sữa bò giảm 2,68 kg/ngày khi bò
bị bệnh chân móng.
3.3 Chỉ số pH dạ cỏ và tƣơng quan với năng suất sữa
Giá trị pH ở nhóm bò bị bệnh chân móng (5,11) thấp hơn so với nhóm bò không bị chân móng (6,09) (P =
0,001; Bảng 2). Nhóm bò không bị chân móng có giá trị pH từ 5,5 – 6,0 chiếm 60,87%, ở nhóm > 6 là
39,13%, và không có mẫu nào pH dưới 5,5. Trong khi đó, nhóm bò bị chân móng có pH từ 5- 5,5 chiếm tỷ
lệ cao là 72,07%, pH dưới 5 là 14,41%, pH từ 5,5 đến 6 là 13,51% và không có mẫu nào có pH trên 6.
Theo kết quả nghiên cứu của Beauchemin và Penner (2009) và Garrett (2017) đã cho thấy khi pH dạ cỏ từ
5 đến 5,5 thì bò sẽ bị axit dạ cỏ ở mức bán cấp tính, làm bò đau chân nhẹ và vừa. Tương tự, Joshua và cs.
(2018) đã cho thấy rằng bò sữa sẽ bị axit dạ cỏ hay axit lactic cấp tính khi pH dưới 5 và làm bò đau chân
nặng. Theo RAGFAR (2007), bò sữa ở Úc có ít nhất 3% bò bị axit dạ cỏ cấp tính và 10% bò bị axit dạ cỏ
mức bán cấp tính (trích dẫn bởi Lean và cs., 2013).
Biểu đồ 1. Tỷ lệ bò bệnh chân móng ở các nhóm Đồ thị 1. Tương quan giữa bệnh chân móng
và năng suất sữa
Chỉ số pH dạ cỏ trung bình nên biến động từ 6,0 - 6,2. Nếu khẩu phần có tỷ lệ thức ăn tinh cao sẽ làm
giảm pH dạ cỏ xuống dưới 6; sẽ làm giảm phát triển vi khuẩn tiêu hóa chất xơ từ đó giảm tiêu hóa xơ, dẫn
đến toan huyết, tăng lượng nước vào ruột và gây tiêu chảy. Nếu pH dạ cỏ hạ thấp hơn 5,5 thì nhiều loài vi
khuẩn dạ cỏ bắt đầu chết, nội độc tố vi khuẩn sản sinh trong môi trường axit dạ cỏ, từ đó hệ thống mạch
máu nhỏ ở móng chân tăng tính thắm và gây viêm móng (Lê Đăng Đảnh, 2012). Điều này phù hợp với kết
luận của McNamara và Gay (2002), cho rằng lượng axit lactic tăng đã trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng
đến lưu lượng máu, làm tăng sinh quá mức áp lực các mô dẫn đến tổn thương, đặc biệt với các vùng chịu
r = - 0,91
P = 0,001
1150
áp lực cao như móng chân. Hiện trạng axit dạ cỏ cũng gây rối loạn tiểu tuần hoàn trong lớp màng đệm làm
phá vỡ liên kết da biểu bì giữa móng và ngón thứ 3 gây sưng phù, xuất huyết, chết mô màng đệm của
móng và hậu quả là bệnh chân móng. Do đó, pH dạ cỏ là yếu tố quan trọng trong việc xác định nguyên
nhân gây bệnh chân móng trên bò sữa.
Kết quả Đồ thị 2 cho thấy pH dạ cỏ và năng suất sữa có mối tương quan rất chặt chẽ (r = 0,92, P = 0,001)
khi pH từ 4,5 - 6,5. Khi pH dạ cỏ trong khoảng từ 5,5 - 6,5 thì cho năng suất sữa tăng đáng kể. Theo
Wales và cs. (2004), để cải thiện bệnh chân móng và năng suất sữa thì cần phải đảm bảo giá trị pH dạ cỏ
luôn ổn định ở mức từ 6 - 6,5.
Bảng 2. Giá trị pH dạ cỏ ở bò vắt sữa
Nhóm bò
vắt sữa
n (bò)
X Tỷ lệ trị số pH theo khoảng (%)
P
Dưới 5 5 - 5,5 5,5 - 6 Trên 6
Không đau chân 69 6,01a 0,00c 0,00c 60,87a 39,13b 0,001
Đau chân 111 5,11b 14,41b 72,07a 13,51b 0,00d 0,001
P 0,001
Đồ thị 2. Tương quan giữa pH dạ cỏ và năng suất sữa
Đồ thị 3. Tương quan giữa chỉ số THI với năng
suất sữa
2.4 Chỉ số nhiệt ẩm (THI) và tƣơng quan với năng suất sữa
Chỉ số THI đều cao và bò luôn trong tình trạng bị sốc nhiệt trạng thái nguy hiểm. Trong đó, cao nhất ở
thời điểm 12 giờ là 82,28; kế đến ở 14 giờ là 81,38; và thấp nhất lúc 7 giờ là 77,98 (P = 0,001; Bảng 3).
Kết quả nghiên cứu cho kết quả cao hơn kết quả của Nguyễn Công Thật (2017) tại trại bò sữa Hoàng Anh
Gia Lai thuộc tỉnh Gia Lai, đàn bò sữa trong tình trạng sốc nhiệt ở thời điểm từ 10 đến 19 giờ với THI từ
73,9 - 80,3. Theo Ingraham và cs. (1974) cho rằng chỉ số THI nhỏ hơn 74 thì bò không bị sốc nhiệt, bò bắt
đầu bị sốc nhiệt khi THI khoảng 75 - 78, bò bị sốc nhiệt nguy hiểm khi THI khoảng 79 - 83, và lớn hơn 84
thì bò bị sốc nhiệt nguy kịch có thể dẫn đến chết. Khi THI tăng từ 71 - 85 thì chất khô bò thu nhận giảm
0,4 kg/ngày hoặc tương ứng 0,02% so với lượng thức ăn thu nhận (Holter và cs., 1997).
r = 0,92
P = 0,001
r = - 0,92
P = 0,001
1151
Bảng 3. Chỉ số nhiệt ẩm THI ở bò khảo sát
Thời gian (giờ) n (lần đo) X Min - Max SEM P
7 6 77,98
a
76,94 - 79,00
0,34 0,001 12 6 82,28
b
81,02 - 83,51
14 6 81,38
b
80,13 - 83,37
Tương quan giữa giá trị THI và năng suất sữa bò rất chặt chẽ với r = - 0,92 (Đồ thị 3), khi THI tăng đã ảnh
hưởng rõ rệt đến năng suất sữa của bò (P = 0,001). Kết quả này phù hợp với nhận định của Ravagnolo và
Misztal (2000) cho thấy mỗi đơn vị THI tăng lên khi chỉ số THI lớn hơn 72 thì năng suất sữa giảm 0,2 kg.
2.5 Tỷ lệ thức ăn tinh/thô trong khẩu phần và tƣơng quan với năng suất sữa
Tỷ lệ thức ăn tinh/thô trong khẩu phần bò (VCK) trên đàn bò đang vắt sữa là cao nhất 66,94%; tiếp theo
bò cạn sữa, hậu bị và bê lần lượt là 50,96; 40,84 và 39,24% (Bảng 4). Theo khuyến cáo của Lê Đăng Đảnh
(2015), tỷ lệ TĂ tinh/thô trong khẩu phần bò vắt sữa nên duy trì ở mức 40 - 50%. Tuy nhiên, thực tế khảo
sát cho thấy tỷ lệ này đã và đang thay đổi theo xu hướng giảm thức ăn thô và tăng thức ăn tinh trong khẩu
phần. Nhận định này phù hợp với kết quả công bố của Nguyễn Võ Thu Trúc và cs. (2016), cho thấy tỷ lệ
thức ăn tinh/thô khẩu phần bò sữa ở nông hộ ở thành phố Hồ Chí Minh biến thiên từ 55,75 đến 57,56%.
Đây có thể là một trong những nguyên nhân gây axit dạ cỏ, bệnh chân móng và làm giảm tỷ lệ mỡ sữa.
McNamara và Gay (2002) cũng đã khuyến cáo để làm giảm nguy cơ axit dạ cỏ cần lưu ý điều chỉnh các
yếu tố cho bò ăn làm nhiều bữa trong ngày, tỷ lệ thức ăn tinh không quá 60%, cung đủ thức ăn thô để kích
thích tiết nước bọt nhằm duy trì pH dạ cỏ, kích thước thức ăn thô đảm bảo dài từ 2,5 - 5 cm, cung cấp cỏ
khô để duy trì độ xốp dạ cỏ và tạo thuận lợi cho chức năng sinh lý nhai lại, ổn định pH dạ cỏ.
Bảng 4. Tỷ lệ thức ăn tinh/thô trong khẩu phần ở các nhóm bò
Nhóm bò n (lần) X Min - Max (%) SEM P
Vắt sữa 6 66,94a 66,15 - 67,30
0,49 0,001
Cạn sữa 6 50,96b 48,49 - 53,27
Hậu bị 6 40,84c 38,75 - 42,33
Bê 6 39,24
c
35,80 - 40,97
Có mối tương quan nghịch giữa tỷ lệ thức ăn tinh khẩu phần với pH dạ cỏ (r = - 0,99; Đồ thị 4). Do đó, khi
tăng tỷ lệ thức ăn tinh làm giá trị pH dạ cỏ giảm, gây axit dạ cỏ. Kết quả này phù hợp với công bố của
Đoàn Đức Vũ và cs. (2001), khi tỷ lệ tinh trong khẩu phần tăng từ 25, 40, 60 đến 77% thì pH dạ cỏ giảm
tương ứng là 6,58; 6,42; 6,25 và 5,98. Tương tự, hệ số tương quan của tỷ lệ thức ăn tinh và bệnh chân
móng là thuận và rất chặt chẽ với r = 0,95. Theo Chenost và Kayouli (1997), cho thấy tỷ lệ thức ăn tinh
quá cao trong khẩu phần sẽ làm sản sinh nhanh axit béo bay hơi, giảm pH dạ cỏ, làm giảm tiêu hóa xơ,
axit vào máu gây bệnh chân móng. Khi tỷ lệ thức ăn tinh cao kết hợp với các yếu tố khác như nhiệt độ, ẩm
độ cao đã làm tình trạng chân móng bò sữa nặng hơn (Đoàn Đức Vũ và cs., 2001).
1152
Đồ thị 4. Tương quan giữa tỷ lệ tinh/thô trong khẩu phần với pH dạ cỏ và bệnh chân móng
3. KẾT LUẬN
Năng suất sữa trung bình trên đàn bò khảo sát còn thấp và chịu ảnh hưởng bởi bệnh chân móng, axit dạ cỏ,
chỉ số nhiệt ẩm cao, tăng thân nhiệt và điểm thở của bò. Năng suất sữa có tương quan nghịch chặt chẽ với
bệnh chân móng và rất chặt chẽ với THI.
Tỷ lệ bò bệnh chân móng rất cao ở nhóm bò đang vắt sữa và bò cạn sữa, chịu ảnh hưởng bởi pH dạ cỏ và
tỷ lệ TĂ tinh trong khẩu phần, tương quan nghịch với tỷ lệ TĂ tinh/thô.
Giá trị pH ở nhóm bò bị bệnh chân móng thấp và chịu ảnh hưởng bởi tỷ lệ thức ăn tinh trong khẩu phần,
tương quan nghịch với tỷ lệ thức ăn tinh/thô.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
[1] Chung Anh Dũng, 2014. Phát triển chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam - Một số khó khăn về kỹ thuật và
giải pháp. Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam.
[2] Lê Đăng Đảnh, 2012. Bệnh viêm móng trên bò sữa. Tạp chí khoa học kỹ thuật công ty UV Việt
Nam, số UVTY-007, tr. 1-10.
[3] Lê Đăng Đảnh, 2015. Giáo trình về những sự tiến bộ trong chăn nuôi thú nhai lại. Trường Đại Học
Nông Lâm, TP. Hồ Chí Minh.
[4] Nguyễn Thanh Hải, 2014. Khảo sát khả năng sản xuất sữa của các nhóm bò sữa tại xí nghiệp chăn
nuôi An Phú - công ty TNHH MTV bò sữa TP. Hồ Chí Minh. Luận văn tốt nghiệp đại học, trường
Đại học Nông Lâm TP. HCM.
[5] Nguyễn Công Thật, 2017. Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến chứng đau chân móng và thử nghiệm
cấc biện pháp phòng trị đau chân móng trên bò sữa Hoàng Anh Gia Lai. Luận văn thạc sĩ Trường
Đại học Nông lâm TP. Hồ Chí Minh.
[6] Diệp Tấn Toàn, 2014. Báo cáo tổng kết hoạt động trại trình diễn và thực nghiệm chăn nuôi bò sữa
công nghệ cao năm 2014. Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Tp. Hồ Chí Minh (BC-
TTQLKĐG).
[7] Nguyễn Võ Thu Trúc, Nguyễn Thanh Hải và Nguyễn Quang Thiệu, 2016. Khảo sát hiện trạng chăn
nuôi bò sữa và tình hình nhiễm aflatoxin B1 trong thức ăn và aflatoxin M1 trong sữa bò tại nông hộ
ở Thành phố Hồ Chí Minh. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Toàn Quốc Chăn nuôi Thú y 2017 Việt
Nam, ISBN: 978-604-60-2492-7, [573], tr. 276-282.
r = 0,95
P = 0,001
r = - 0,99
P = 0,001
1153
[8] Phan Việt Thành, 2010. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng và thử nghiệm một số biện pháp phòng
trị bệnh chân móng cho bò sữa khu vực Đông Nam Bộ. Luận văn thạc sĩ Trường đại học Nông lâm
TP. Hồ Chí Minh.
[9] Tổng cục thống kê, 2014. Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm 2014, ngày
27 tháng 06 năm 2014.
[10] Đoàn Đức Vũ, Đinh Văn Cải, Nguyễn Ngọc Tấn, Phùng Thị Lâm Dung và Trần Thị Kim Anh,
2001. Ảnh hưởng của thức ăn khẩu phần đến môi trường dạ cỏ và tỷ lệ tiêu hóa thức ăn của bò sữa.
Khoa học nông nghiệp số 2 – 2001, tr. 226 – 234.
Tiếng nƣớc ngoài
[11] Beauchemin K. and Penner G., 2009. New developments in understanding ruminal acidosis in dairy
cows. In: Proceedings of Tri-State Dairy Nutrition Conference, Ohio State University, Ohio, pp. 1–