Mục tiêu: khảo sát mối tương quan giữa nồng độ AMH và đáp ứng buồng trứng trong thụ tinh ống nghiệm, đồng thời tìm các giá trị ngưỡng của AMH trong tiên đoán đáp ứng buồng trứng kém và nhiều. Phương pháp: nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu trên 820 bệnh nhân kích thích buồng trứng thụ tinh ống nghiệm sử dụng phác đồ GnRH đối vận. Bệnh nhân được định lượng AMH trong máu (AMH Gen 2 assay) vào thời điểm bất kỳ từ 1 – 30 ngày trước tiêm FSH. Chọc hút noãn thực hiện 36 giờ sau tiêm hCG. Nồng độ AMH được phân tích tìm tương quan với số lượng noãn thu được, tình trạng đáp ứng kém và nhiều với kích thích buồng trứng và tìm các giá trị ngưỡng của AMH có độ nhạy và đặc hiệu tốt nhất. Kết quả: AMH có tương quan chặt chẽ với số lượng noãn thu được (r=0,74, p=0,000). Đường cong ROC của AMH trong tiên đoán đáp ứng buồng trứng kém và nhiều có AUC lần lượt là 0,96 và 0,88 (p=0,000). Giá trị AMH 1,51ng/ml tiên đoán đáp ứng buồng trứng kém với độ nhạy 91%, độ đặc hiệu 92%. Giá trị AMH 3,97ng/ml tiên đoán đáp ứng buồng trứng nhiều với độ nhạy 82%, độ đặc hiệu 81%. Kết luận: AMH có tương quan chặt chẽ và có giá trị trong tiên đoán đáp ứng buồng trứng thụ tinh ống nghiệm.
9 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 368 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tương quan giữa nồng độ anti-mullerian hormone (AMH) và đáp ứng buồng trứng trong thụ tinh ống nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Sức khỏe Sinh sản và Bà Mẹ - Trẻ em 198
TƯƠNG QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ ANTI-MULLERIAN HORMONE (AMH)
VÀ ĐÁP ỨNG BUỒNG TRỨNG TRONG THỤ TINH ỐNG NGHIỆM
Vương Thị Ngọc Lan*, Giang Huỳnh Như**, Hồ Mạnh Tường***
TÓM TẮT
Mục tiêu: khảo sát mối tương quan giữa nồng độ AMH và đáp ứng buồng trứng trong thụ tinh ống
nghiệm, đồng thời tìm các giá trị ngưỡng của AMH trong tiên đoán đáp ứng buồng trứng kém và nhiều.
Phương pháp: nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu trên 820 bệnh nhân kích thích buồng trứng thụ tinh ống
nghiệm sử dụng phác đồ GnRH đối vận. Bệnh nhân được định lượng AMH trong máu (AMH Gen 2 assay) vào
thời điểm bất kỳ từ 1 – 30 ngày trước tiêm FSH. Chọc hút noãn thực hiện 36 giờ sau tiêm hCG. Nồng độ AMH
được phân tích tìm tương quan với số lượng noãn thu được, tình trạng đáp ứng kém và nhiều với kích thích
buồng trứng và tìm các giá trị ngưỡng của AMH có độ nhạy và đặc hiệu tốt nhất.
Kết quả: AMH có tương quan chặt chẽ với số lượng noãn thu được (r=0,74, p=0,000). Đường cong ROC
của AMH trong tiên đoán đáp ứng buồng trứng kém và nhiều có AUC lần lượt là 0,96 và 0,88 (p=0,000). Giá trị
AMH 1,51ng/ml tiên đoán đáp ứng buồng trứng kém với độ nhạy 91%, độ đặc hiệu 92%. Giá trị AMH
3,97ng/ml tiên đoán đáp ứng buồng trứng nhiều với độ nhạy 82%, độ đặc hiệu 81%.
Kết luận: AMH có tương quan chặt chẽ và có giá trị trong tiên đoán đáp ứng buồng trứng thụ tinh ống
nghiệm.
Từ khóa: anti-Mullerian hormone, đáp ứng buồng trứng, thụ tinh trong ống nghiệm
ABSTRACT
THE CORRELATION BETWEEN SERUM AMH LEVEL
AND OVARIAN RESPONSE IN IN-VITRO FERTILIZATION
Vuong Thi Ngoc Lan, Giang Huynh Nhu, Ho Manh Tuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 198 - 206
Objectives: to investigate the correlation between AMH level and ovarian response as well as to identify the
cut-off values of AMH in predicting poor response and high response
Methods: this was a prospective cohort study conducted on 820 women undergoing ovarian stimulation
using GnRH antagonist protocol for IVF. Patients had AMH measurements taken (AMH Gen 2 Elisa assay) any
day between 1 – 30 days before starting FSH. Oocyte pick-up was performed 36 hours after hCG administration.
AMH level was analyzed to investigate its correlation with the number of oocytes retrieved, and the relation to the
poor response and the high response. Then, the cut-off value of AMH in predicting poor response and high
response was identified with the optimal sensitivity and specificity.
Results: AMH had a good correlation with the number of oocytes retrieved (r=0.74, p=0.000). ROC curve of
AMH in predicting poor response and high response had an AUC of 0.96 and 0.88 (p=0.000), respectively. The
cut-off value of 1.51ng/ml predicted poor response with a sensitivity of 91% and specificity of 92%. The cut-off
value of 3.97ng/ml predicted high response with a sensitivity of 82% and specificity of 81%.
Conclusion: Serum AMH level correlates well with ovarian response and is also a predictor of poor response
*Bộ Môn Sản – Đại học Y Dược TP. HCM **Đơn vị Hỗ trợ sinh sản, IVFAS, Bệnh viện An Sinh
***Trung tâm Nghiên cứu Di truyền Sức khỏe sinh sản – Đại học Quốc gia TPHCM
Tác giả liên lạc: ThS. Vương Thị Ngọc Lan ĐT: 0903008889 Email: drlan@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 199
and high response to ovarian stimulation for IVF.
Keywords: anti-Mullerian hormone, ovarian response, in-vitro fertilization
ĐẶT VẤN ĐỀ
Kích thích buồng trứng là công đoạn quan
trọng trong qui trình thụ tinh trong ống
nghiệm, cho phép tăng số lượng noãn thu
được, là tiền đề cho các bước tiếp theo như
tạo phôi, chọn lựa phôi và gia tăng cơ hội có
thai cho một chu kỳ điều trị. Mục tiêu của
kích thích buồng trứng là thu được một số
lượng noãn vừa phải với chất lượng tốt để đạt
tỉ lệ có thai cao mà tránh được các biến chứng
như quá kích buồng trứng hay hủy chu kỳ
điều trị do buồng trứng đáp ứng kém. Để đạt
được mục tiêu của kích thích buồng trứng, từ
trước đến nay, các bác sĩ thường sử dụng một
số chỉ điểm về lâm sàng, nội tiết hay siêu âm
để đánh giá dự trữ buồng trứng, từ đó, tiên
đoán đáp ứng của buồng trứng. Các chỉ điểm
thường được sử dụng như tuổi vợ, nồng độ
FSH, inhibin vào ngày 3 của chu kỳ kinh và
siêu âm đếm số nang noãn thứ cấp ở đầu chu
kỳ kinh. Tuổi vợ càng lớn thì khả năng có thai
tự nhiên càng giảm do số lượng và chất lượng
noãn dự trữ trong buồng trứng giảm(8,6).
Trong hỗ trợ sinh sản, tuổi vợ lớn là yếu tố
tiên lượng rất kém về kết quả của điều trị(20).
Tuy nhiên, nghiên cứu ghi nhận có sự dao
động lớn giữa các cá thể trong cùng một độ
tuổi về dự trữ buồng trứng và đáp ứng buồng
trứng, điển hình là giảm dự trữ buồng trứng
vẫn có thể xảy ra ở người trẻ tuổi(40,42). Tuổi vợ
đơn thuần không thể giúp tiên đoán đáp ứng
buồng trứng trong các trường hợp phụ nữ có
hội chứng buồng trứng đa nang hay có các
yếu tố làm giảm dự trữ buồng trứng như u lạc
nội mạc tử cung buồng trứng, tiền căn phẫu
thuật trên buồng trứng(25,26). Nồng độ FSH và
inhibin vào ngày 3 của chu kỳ kinh được ghi
nhận tăng cao trong các trường hợp giảm dự
trữ buồng trứng, suy buồng trứng, đáp ứng
kém với kích thích buồng trứng nhưng không
có giá trị tiên đoán trong trường hợp đáp ứng
buồng trứng nhiều và nguy cơ quá kích
buồng trứng. Hơn nữa, kết quả của các nghiên
cứu về vai trò của nồng độ FSH và inhibin
ngày 3 chu kỳ kinh trong tiên đoán đáp ứng
buồng trứng vẫn còn tranh cãi do độ chính
xác của test không cao và việc định lượng
hormone phải được thực hiện ở đầu chu kỳ
kinh(2,18). Đếm số nang noãn thứ cấp của
buồng trứng ở đầu chu kỳ kinh qua siêu âm
(antral follicle count – AFC) được xem là một
phương tiện khảo sát đơn giản, không xâm
nhập và được nghiên cứu cho thấy có mối
tương quan với tuổi phụ nữ và số lượng noãn
thu được(10). Tuy nhiên, kỹ thuật thực hiện
AFC có thể bị ảnh hưởng bởi người thực hiện
siêu âm và khuynh hướng sai số nhiều hơn
khi AFC cao(11), do đó, cần được chuẩn hóa
rộng rãi(3). Hiện tại, chưa có một chỉ điểm độc
lập nào có độ chính xác cao trong đánh giá dự
trữ buồng trứng và tiên đoán đáp ứng buồng
trứng trong thụ tinh ống nghiệm. Do đó, các
chuyên gia thụ tinh trong ống nghiệm đã đưa
ra một số mô hình kết hợp các yếu tố tiên
đoán đáp ứng buồng trứng như thang điểm
của Popodovic và cs. (2003) (28) gồm 5 yếu tố
AFC, thể tích buồng trứng, Doppler mạch
máu buồng trứng, tuổi và hút thuốc hay
CONSORT của Olivennes và cs.(2009) gồm 4
yếu tố tuổi, BMI, FSH và AFC (27). Các mô
hình này không có tính ứng dụng cao do khá
phức tạp và đặc điểm của dân số nghiên cứu
(bệnh nhân thụ tinh ống nghiệm ở một số
nước Châu Âu) và dân số mục tiêu (bệnh
nhân thụ tinh ống nghiệm ở các khu vực khác
như Châu Á,) rất khác nhau, mà đáp ứng
buồng trứng đã được chứng minh có thay đổi
lớn theo đặc điểm của bệnh nhân, giữa các
chủng tộc và các vùng miền trên thế giới.
Gần đây, anti-Mullerian hormone (AMH)
được chuyên gia thụ tinh trong ống nghiệm tập
trung nghiên cứu như là một chỉ điểm của chức
năng buồng trứng. AMH là một glycoprotein
của buồng trứng được sản xuất từ các tế bào hạt
của nang noãn sơ cấp, tiền hốc và có hốc ở giai
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Sức khỏe Sinh sản và Bà Mẹ - Trẻ em 200
đoạn sớm(44) nhưng không có ở các nang noãn
thoái hóa hay đang phát triển(44,1) AMH có vai
trò ức chế sự phát triển của các nang noãn nhỏ ở
giai đoạn sớm(41,43). Nồng độ AMH trong máu
được ghi nhận tùy thuộc vào số lượng và hoạt
động của các nang noãn nhỏ(42,13,35,30,17), giảm
trong suốt cuộc đời người phụ nữ và không còn
ở tuổi mãn kinh(16,34). Gần đây, trên thế giới,
nhiều nghiên cứu tiền cứu với cỡ mẫu lớn đã
đánh giá AMH như là một chỉ điểm đầy tiềm
năng về dự trữ buồng trứng(34,23) và đáp ứng
buồng trứng về số lượng và chất lượng trong hỗ
trợ sinh sản(32,42,16,4,12). Ngoài ra, định lượng AMH
có khả năng ứng dụng lâm sàng cao do nồng độ
AMH được ghi nhận không thay đổi trong chu
kỳ kinh nguyệt(15,37), khi người phụ nữ đang
mang thai(14), đang điều trị với GnRH đồng
vận(21) hay dùng thuốc ngừa thai ngắn hạn(36), vì
vậy, bệnh nhân có thể thực hiện xét nghiệm ở
bất kỳ thời điểm nào. Tuy nhiên, kết quả từ các
nghiên cứu tìm mối tương quan giữa AMH và
đáp ứng buồng trứng cho thấy giá trị ngưỡng
của AMH để tiên đoán đáp ứng buồng trứng
kém hay nguy cơ quá kích buồng trứng vẫn còn
rất khác biệt. Hơn nữa, nồng độ AMH cũng
được ghi nhận thay đổi tùy theo chủng tộc(33),
tình trạng hút thuốc(7), uống rượu(22), béo phì của
bệnh nhân(38). Bệnh nhân thực hiện thụ tinh
trong ống nghiệm ở mỗi nước có các đặc điểm
về thể hình, hành vi và thói quen khác nhau, do
đó, việc thực hiện các nghiên cứu liên quan đến
AMH là cần thiết nhằm thiết lập cơ sở dữ liệu
cho việc ứng dụng lâm sàng.
Nghiên cứu này được thực hiện đầu tiên
tại Việt Nam nhằm tìm hiểu mối tương quan
giữa nồng độ AMH và đáp ứng buồng trứng
trong thụ tinh trong ống nghiệm, từ đó, đánh
giá khả năng tiên đoán đáp ứng buồng trứng
của AMH và tìm các giá trị ngưỡng của AMH
trong tiên đoán đáp ứng buồng trứng kém và
nhiều. Dựa trên các dữ liệu có được, các bác sĩ
lâm sàng có cơ sở để tư vấn bệnh nhân về các
quyết định trong điều trị thụ tinh ống
nghiệm, điều chỉnh liều thuốc kích thích
buồng trứng để đạt được số lượng noãn phù
hợp và giảm thiểu các biến chứng.
Mục tiêu nghiên cứu
1.Khảo sát mối tương quan giữa nồng độ
AMH và số lượng noãn thu được trong các
trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm
2.Tìm giá trị ngưỡng của AMH trong tiên
đoán các trường hợp đáp ứng buồng trứng kém
và nhiều.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu
Dân số nghiên cứu
Các bệnh nhân người Việt Nam thực hiện
kích thích buồng trứng thụ tinh ống nghiệm
Tiêu chuẩn chọn
Tuổi 18 – 45
BMI ≤ 23kg/m2
Số chu kỳ điều trị thụ tinh trong ống nghiệm
≤ 2
Được kích thích buồng trứng bằng phác đồ
GnRH đối vận
Có chọc hút noãn làm thụ tinh trong ống
nghiệm
Đồng ý tham gia vào nghiên cứu
Tiêu chuẩn loại
Xin trứng
Bệnh nhân có hội chứng buồng trứng
đa nang.
Bệnh nhân có các rối loạn nội tiết tuyến
giáp, tăng prolactin máu.
Bệnh nhân thực hiện kỹ thuật trưởng thành
noãn trong ống nghiệm (IVM).
Cỡ mẫu
Để khảo sát mối tương quan của nồng độ
AMH và số lượng noãn thu được, cỡ mẫu được
tính theo công thức ước tính hệ số tương quan
của 2 biến liên tục, với hệ số tương quan từ các
nghiên cứu trước dao động từ 0,38 – 0,88(18), hệ
số tương quan thật được giả định là 0,4; a=0,01;
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 201
power=0.80, hằng số C=13,33, cỡ mẫu cần thiết là
66 bệnh nhân.
Để tìm giá trị ngưỡng AMH cho đáp ứng
kém với kích thích buồng trứng, cỡ mẫu được
tính theo công thức ước tính cỡ mẫu cho nghiên
cứu chẩn đoán, với hy vọng test AMH có độ
nhạy 80% và độ đặc hiệu là 95%, a=0,05; tần suất
đáp ứng kém của kích thích buồng trứng là
30%(9), cỡ mẫu cần thiết theo độ đặc hiệu là 105
bệnh nhân.
Để tìm giá trị ngưỡng AMH cho đáp ứng
nhiều với kích thích buồng trứng, cỡ mẫu được
tính theo công thức ước tính cỡ mẫu cho nghiên
cứu chẩn đoán, với hy vọng test AMH có độ
nhạy 80% và độ đặc hiệu là 95%, a=0,05; tần suất
đáp ứng nhiều với kích thích buồng trứng là
30%(29), cỡ mẫu cần thiết theo độ nhạy là 820
bệnh nhân.
Như vậy, tổng hợp các mục tiêu, cỡ mẫu cần
thiết là 820 bệnh nhân
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại đơn vị hỗ trợ
sinh sản IVFAS, bệnh viện An Sinh từ tháng
2/2011 đến tháng 8/2011
Phương pháp tiến hành
Bệnh nhân có chỉ định thụ tinh trong ống
nghiệm thỏa các tiêu chuẩn chọn mẫu được
nhận vào nghiên cứu. Bệnh nhân được giải thích
và xác nhận đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
AFC được thực hiện vào ngày 3–5 của chu
kỳ kinh nguyệt bởi một chuyên gia siêu âm có
kinh nghiệm với máy siêu âm Toshiba (Nhật
bản), đầu dò âm đạo 7,5MHz. AFC là tổng các
nang noãn thứ cấp có kích thước 5 – 10mm trên
2 buồng trứng
Định lượng AMH trong máu được thực hiện
sử dụng AMH Gen 2 Elisa (Beckman Coulter,
Mỹ) vào ngày bất kỳ trước thời điểm kích thích
buồng trứng 1 – 30 ngày.
Kích thích buồng trứng được tiến hành sử
dụng phác đồ GnRH đối vận. FSH tái tổ hợp
được bắt đầu từ ngày 2 của chu kỳ kinh với liều
đầu được xác định dựa trên AFC. AFC <6: liều
đầu 300IU/ngày, AFC 6 – 9: liều đầu
225IU/ngày, AFC 10 – 15: liều đầu 150IU/ngày
và AFC > 15: liều đầu 100IU/ngày. GnRH đối
vận được bắt đầu vào ngày 5 của tiêm FSH.
Theo dõi nang noãn được thực hiện bằng kết
hợp siêu âm đầu dò âm đạo, xét nghiệm nội tiết
LH, estradiol và progesterone. hCG được tiêm
khi có ít nhất 2 nang đạt kích thước 17mm.
Chọc hút noãn được tiến hành vào 36 giờ
sau tiêm hCG. Phương pháp thụ tinh là tiêm
tinh trùng vào bào tương noãn. Chuyển phôi
thực hiện 2 ngày sau chọc hút noãn. Hỗ trợ
hoàng thể được sử dụng bằng cách phối hợp
progesterone đường âm đạo với estradiol hay
hCG 1000IU (nếu không có nguy cơ quá kích
buồng trứng). Thử thai thực hiện vào 14 ngày
sau chuyển phôi. Nếu bệnh nhân có thai, siêu
âm xác nhận thai lâm sàng khi có túi thai có
phôi và hoạt động tim thai trong buồng tử cung
vào 3 tuần sau ngày thử thai.
Xử lý số liệu
Được thực hiện bằng phần mềm thống kê
SPSS 19.0. Phân tích hồi qui được thực hiện
nhằm khảo sát mối tương quan giữa nồng độ
AMH và số lượng noãn thu được. Mức độ
tương quan được đo lường bằng hệ số tương
quan Pearson. Thực hiện đường cong ROC
nhằm tìm ra giá trị ngưỡng của AMH cho đáp
ứng kém (< 5 noãn chọc hút được) và đáp ứng
nhiều (> 15 noãn chọc hút được) với kích thích
buồng trứng ứng. p <0,05 được xem là có ý
nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ
Từ tháng 2/2011 đến tháng 8/2011, 820 bệnh
nhân đã được nhận vào nghiên cứu. Đặc điểm
của bệnh nhân được mô tả trong bảng 1 và đặc
điểm chu kỳ điều trị và kết quả thụ tinh ống
nghiệm được trình bày trong bảng 2.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Sức khỏe Sinh sản và Bà Mẹ - Trẻ em 202
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân (n = 820)
Đặc điểm Giá trị
Tuổi trung bình 32,1 ± 4,8 (19 – 45)
BMI trung bình (kg/m2) 20,1 ± 1,4 (18 – 23)
Nguyên nhân vô sinh
Tai vòi 315 (38,4%)
Do nam 361 (44%)
Lạc nội mạc tử cung 7 (0,9%)
Lớn tuổi 41 (5%)
Rối loạn phóng noãn 41 (5%)
Chưa rõ nguyên nhân 55 (6,7%)
Thời gian vô sinh (năm) 5,3 ± 3,5 (1 – 20)
Bảng 2: Đặc điểm chu kỳ điều trị và kết quả thụ tinh
trong ống nghiệm (n = 820)
Đặc điểm Giá trị
AFC trung bình 8,7 ± 4,4 (1 – 24)
AMH trung bình (ng/ml) 3,5 ± 3,4 (0 – 19,9)
Thời gian kích thích buồng
trứng (ngày)
10,7 ± 1,7 (6 – 19)
Liều FSH sử dụng (IU) 2243 ± 837 (900 – 5325)
Số noãn chọc hút được 13,9 ± 7,2 (1 – 41)
Số phôi 7,7 ± 5,1 (0 – 31)
Số phôi chuyển vào buồng
tử cung
2,4 ± 1,4 (1 – 5)
Độ dày NMTC ngày chuyển
phôi (mm)
11,1 ± 2,5 (5 – 21)
Tỉ lệ thai lâm sàng / có
chuyển phôi
39,1% (257/657)
Tỉ lệ sẩy thai/có chuyển phôi 1,4% (9/657)
Tỉ lệ thai ngoài tử cung / có
chuyển phôi
0,6% (4/657)
Biểu đồ 1. Tương quan giữa nồng độ AMH và số
lượng noãn thu được
Biểu đồ 1 cho thấy có mối tương quan cao
giữa nồng độ AMH và số lượng noãn thu được
r = 0,74, r square =0,55, p =0,000. Như vậy AMH
là yếu tố tiên đoán số lượng noãn thu được
trong thụ tinh trong ống nghiệm. Khi AMH
càng tăng thì số lượng noãn thu được càng tăng.
Trong 820 trường hợp, có 244 trường hợp
đáp ứng kém với kích thích buồng trứng chiếm
tỉ lệ 29,8% và 200 đáp ứng nhiều với kích thích
buồng trứng, tỉ lệ 24,4%. Biểu đồ 2 mô tả đường
cong ROC của AMH trong đáp ứng kém với
kích thích buồng trứng. AUC (AMH) = 0,96, p
=0,000. Như vậy, AMH có độ chính xác cao
trong tiên đoán đáp ứng buồng trứng kém.
Biểu đồ 2. Đường cong ROC của AMH và AFC
trong đáp ứng kém với kích thích buồng trứng
Biểu đồ 3. Đường cong ROC của AMH và AFC
trong đáp ứng nhiều với kích thích buồng trứng
Với đáp ứng kém với kích thích buồng trứng
được xác định là <5 noãn chọc hút được, giá trị
AMH bằng 1,51ng/ml cho độ nhạy là 91%, độ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 203
đặc hiệu 92%, giá trị tiên đoán dương (positive
predictive value – PPV) 82,1%, giá trị tiên đoán
âm (negative predictive value – NPV) 95,7%, tỉ
số khả dĩ dương (likehood ratio positive – LR+)
là 11 và tỉ số khả dĩ âm (likelihood ration
negative – LR-) là 0,09.
Với các trường hợp đáp ứng nhiều với kích
thích buồng trứng được xác định khi có > 15
noãn chọc hút được, đường cong ROC của
AMH có AUC=0,88, p=0,000 (biểu đồ 3). Giá trị
AMH cho tiên đoán đáp ứng nhiều với kích
thích buồng trứng là 3,97 ng/ml có độ nhạy 82%
và độ đặc hiệu 81%, PPV=65%, NPV = 90%, LR+
= 4,3, LR- = 0,22.
BÀN LUẬN
AMH và số lượng noãn thu được trong thụ
tinh ống nghiệm
Thụ tinh trong ống nghiệm gần như gắn liền
với kích thích buồng trứng. Bên cạnh yếu tố tích
cực là giúp tăng số lượng noãn thu được, kích
thích buồng trứng cũng liên quan với các biến
chứng mà đôi khi rất trầm trọng như quá kích
buồng trứng hay hủy chu kỳ do đáp ứng kém.
Hơn nữa, đáp ứng buồng trứng của mỗi cá thể
rất khác nhau và khó tiên lượng. Do đó, việc tìm
ra một yếu tố hay mô hình giúp tiên đoán đáp
ứng buồng trứng là yêu cầu cấp thiết và có ý
nghĩa lâm sàng rất lớn.
Mặc dù mới được nghiên cứu gần đây
nhưng AMH chứng tỏ có vai trò trong tiên đoán
đáp ứng buồng trứng qua các nghiên cứu tiền
cứu với cỡ mẫu lớn. Nghiên cứu đầu tiên báo
cáo có mối liên hệ giữa nồng độ AMH và đáp
ứng buồng trứng với gonadotrophins do Seifer
và cs. thực hiện vào năm 2002 (32). Tác giả ghi
nhận các bệnh nhân có nồng độ AMH ngày 3
cao hơn sẽ thu được nhiều noãn hơn. Ngoài ra,
nồng độ AMH cao hơn 2,5 lần ở các trường hợp
có trên 11 noãn so với dưới 6 noãn. Sau đó, mối
liên quan giữa AMH và đáp ứng buồng trứng
đã được xác nhận bởi rất nhiều nghiên cứu hồi
cứu và tiền cứu khác(32,42,16,4,12). Theo hiểu biết của
chúng tôi, nghiên cứu này được thực hiện đầu
tiên ở Việt Nam với thiết kế tiền cứu trên một cỡ
mẫu lớn nhằm khảo sát tương quan giữa nồng
độ AMH với số lượng noãn thu được trong thụ
tinh ống nghiệm. Nghiên cứu này đã ghi nhận
có mối liên hệ chặt chẽ giữa nồng độ AMH và
số lượng noãn thu được. Có thể nói, AMH có
giá trị tốt trong tiên đoán đáp ứng buồng trứng
thụ tinh trong ống nghiệm.
AMH và đáp ứng buồng trứng kém
Đáp ứng kém với kích thích buồng trứng
được ước tính xảy ra trong 2 – 30% trường hợp(9)
với tiêu chuẩn chẩn đoán còn chưa được thống
nhất. Số lượng nang noãn và số lượng noãn thu
được là 2 yếu tố quan trọng trong xác định đáp
ứng kém với kích thích buồng trứng. Đa số các
nghiên cứu sử dụng tiêu chuẩn số lượng nang
phát triển < 3 – 5 nang vào ngày tiêm hCG hay
có <3 - 5 noãn thu được sau chọc hút trứng(39) để
chẩn đoán đáp ứng kém với kích thích buồng
trứng. Vì vậy, nghiên cứu của chúng tôi chọn số
lượng noãn thu được < 5 là tiêu chuẩn xác định
đáp ứng kém. Tuy nhiên, cho dù tiêu chuẩn
chẩn đoán là gì, các bệnh nhân đáp ứng kém
luôn có tỉ lệ có thai thấp hơn các bệnh nhân đáp
ứng bình thường ở cùng lứa tuổi(31).
Trong lâm sàng, việc tiên lượng được một
cách chính xác bệnh nhân nào sẽ xảy ra đáp ứng
kém hay không đáp ứng với kích thích buồng
trứng là rất hữu ích. Điều này có thể giúp tư vấn
các bệnh nhân trước điều trị, hướng họ đến các
quyết định phù hợp như xin noãn hay ngưng
điều trị nhằm giảm tỉ lệ hủy chu kỳ, giảm chi
phí điều trị và các sang chấn tâm lý