Đúng vào ngày này, cách đây 160năm, ngày 24 tháng 2năm 1848, Tuyên ngôncủa
ĐảngCộngsản –mộtvăn kiện mang tínhcươnglĩnh, có giá trịlịchsử và tràn đầysức
sống thực tiễncủa chủ nghĩa Mác,một tác phẩm lý luậnbấthủ do C.Mác và
Ph.Ăngghen soạn thảo theosự ủy nhiệmcủa Liên đoàn những ngườicộngsản –mộttổ
chức công nhân quốctế - đã,lần đầu tiên, được xuấtbảntại Luân Đôn (thủ đônước
Anh).
Trong suốt chiều dàilịchsửhơnmột thếkỷrưỡi, Tuyên ngônvẫn luôntồntạivớitư
cáchmột tác phẩm lý luận đỉnh cao, cóvị trí đặc biệt quan trọng,vị trí mà khôngmột
tác phẩm nào,kểcảbộ Tưbản, có thể thay thế được, trongsự nghiệp sángtạocủa
C.Mác và Ph.Ăngghen, trong kho tàng lý luậncủa chủ nghĩa Mác – Lênin. Không chỉ
thế, trong suốt chiều dàilịchsử đó, Tuyên ngônvẫn luôntồntại không chỉvớitư cách
“khúc ca tuyệt táccủa chủ nghĩa Mác”, mà cònvớitư cáchcươnglĩnh “có đầy đủ chi
tiết, vừa vềmặt lýluận, vừa vềmặt thực tiễn”(1)của giai cấp vô sản, giai cấp côngnhân
toàn thế giới và chính đảng cáchmạngcủa nó.Bởilẽ,sự ra đờicủa Tuyên ngôn không
chỉ“đánhdấumộtbước tiến trong khoahọclịchsử” vàmở ramột giai đoạnmớivề
chất tronglịchsử hình thành và phát triển tri thứccủa nhân loại, mà còn “giống nhưhọc
thuyếtcủa Đácuyn trong sinhvậthọc, nó đãtạo ramộtbước ngoặt trong tiến trình phát
triểntưtưởngcủa nhân loạivềsựcải biến xãhộibằng cáchmạng.Hơnnữa, Tuyên
ngôn không chỉ là “tác phẩm phổ biếnhơncả, có tính chất quốctếhơncả trongtấtcả
cácvăn phẩm xãhội chủ nghĩa”, mà còn đã thựcsự trở thành “cươnglĩnh được thừa
nhậnbởi hàng triệu công nhântừ Xibia đến Caliphoócnia”(2), thànhcơsở lý luận khoa
học, ngọncờtưtưởng, ngôi saodẫn đường và kim chỉ nam cho hành độngcủa phong
tràocộngsản và công nhân quốctế. Trong suốt chiều dàihơnmột thếkỷrưỡivừa qua,
lịchsử nhân loại đã diễn ravới biết bao biến đổi thăng trầm, song Tuyên ngônvẫn luôn
tồntạivớitư cách văn kiện mang tínhcươnglĩnh, có giá trịlịch sử vàtràn đầysứcsống
thực tiễn đó. Dovậy, chúng ta hoàn toàn cócơsở để tintưởng chắc chắnrằng, Tuyên
ngônsẽ còntồntại mãivới thời gian tronglịchsử phát triểntưtưởng nhân loại nói
chung, tronglịch sửphát triển lýluận Mác – Lêninnói riêng.
9 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1525 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tuyên ngôn của đảng cộng sản – Một văn kiện mang tính cương lĩnh, có giá trị lịch sử và sức sống thực tiễn của chủ nghĩa Mác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN” – MỘT VĂN KIỆN MANG TÍNH
CƯƠNG LĨNH, CÓ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ SỨC SỐNG THỰC TIỄN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC
ĐẶNG HỮU TOÀN (*)
Trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại 160 năm qua, kể từ lần xuất bản đầu tiên đến
nay, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã được thừa nhận không chỉ là tác phẩm lý
luận bất hủ, một đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tạo của C.Mác và Ph.Ăngghen, nó còn
là một văn kiện mang tính cương lĩnh, có giá trị lịch sử và tràn đầy sức sống thực tiễn
của chủ nghĩa Mác. Phân tích và luận giải những tư tưởng cơ bản, những nguyên lý nền
tảng mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra, trong bài viết này, một lần nữa, tác giả
khẳng định ý nghĩa đó của “Tuyên ngôn”. Và, bằng những thực tiễn sinh động trong
phong trào cách mạng thế giới 160 năm qua, nhất là trong những thập niên gần đây,
tác giả đã khẳng định, ánh sáng và tinh thần của những tư tưởng cơ bản, những nguyên
lý nền tảng trong “Tuyên ngôn” vẫn sống mãi với thời gian.
Đúng vào ngày này, cách đây 160 năm, ngày 24 tháng 2 năm 1848, Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản – một văn kiện mang tính cương lĩnh, có giá trị lịch sử và tràn đầy sức
sống thực tiễn của chủ nghĩa Mác, một tác phẩm lý luận bất hủ do C.Mác và
Ph.Ăngghen soạn thảo theo sự ủy nhiệm của Liên đoàn những người cộng sản – một tổ
chức công nhân quốc tế - đã, lần đầu tiên, được xuất bản tại Luân Đôn (thủ đô nước
Anh).
Trong suốt chiều dài lịch sử hơn một thế kỷ rưỡi, Tuyên ngôn vẫn luôn tồn tại với tư
cách một tác phẩm lý luận đỉnh cao, có vị trí đặc biệt quan trọng, vị trí mà không một
tác phẩm nào, kể cả bộ Tư bản, có thể thay thế được, trong sự nghiệp sáng tạo của
C.Mác và Ph.Ăngghen, trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Không chỉ
thế, trong suốt chiều dài lịch sử đó, Tuyên ngôn vẫn luôn tồn tại không chỉ với tư cách
“khúc ca tuyệt tác của chủ nghĩa Mác”, mà còn với tư cách cương lĩnh “có đầy đủ chi
tiết, vừa về mặt lý luận, vừa về mặt thực tiễn”(1) của giai cấp vô sản, giai cấp công nhân
toàn thế giới và chính đảng cách mạng của nó. Bởi lẽ, sự ra đời của Tuyên ngôn không
chỉ “đánh dấu một bước tiến trong khoa học lịch sử” và mở ra một giai đoạn mới về
chất trong lịch sử hình thành và phát triển tri thức của nhân loại, mà còn “giống như học
thuyết của Đácuyn trong sinh vật học, nó đã tạo ra một bước ngoặt trong tiến trình phát
triển tư tưởng của nhân loại về sự cải biến xã hội bằng cách mạng. Hơn nữa, Tuyên
ngôn không chỉ là “tác phẩm phổ biến hơn cả, có tính chất quốc tế hơn cả trong tất cả
các văn phẩm xã hội chủ nghĩa”, mà còn đã thực sự trở thành “cương lĩnh được thừa
nhận bởi hàng triệu công nhân từ Xibia đến Caliphoócnia”(2), thành cơ sở lý luận khoa
học, ngọn cờ tư tưởng, ngôi sao dẫn đường và kim chỉ nam cho hành động của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong suốt chiều dài hơn một thế kỷ rưỡi vừa qua,
lịch sử nhân loại đã diễn ra với biết bao biến đổi thăng trầm, song Tuyên ngôn vẫn luôn
tồn tại với tư cách văn kiện mang tính cương lĩnh, có giá trị lịch sử và tràn đầy sức sống
thực tiễn đó. Do vậy, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng chắc chắn rằng, Tuyên
ngôn sẽ còn tồn tại mãi với thời gian trong lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại nói
chung, trong lịch sử phát triển lý luận Mác – Lênin nói riêng.
Cái làm nên ý nghĩa, giá trị và sức sống đó của Tuyên ngôn, trước hết là ở bản chất cách
mạng và nội dung khoa học sâu sắc của nó. Trong Tuyên ngôn, những “luận điểm chủ
yếu”, “tư tưởng cơ bản và chủ đạo”, nền tảng vững chắc của chủ nghĩa Mác là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử – quan niệm duy vật về lịch sử,
lần đầu tiên đã được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày dưới dạng hoàn chỉnh, cô đọng,
súc tích và có hệ thống. Đúng như Ph.Ăngghen đã chỉ rõ trong Lời tựa viết cho bản
tiếng Đức xuất bản năm 1883 tác phẩm bất hủ này: “Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của
“Tuyên ngôn” là: trong mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội – cơ cấu
này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử
chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất
nguyên thủy tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh
giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và
những giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội của họ; nhưng cuộc
đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là
giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình
(tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể
xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi cuộc đấu tranh giai cấp”(3).
Với “tư tưởng cơ bản và chủ đạo” này – quan niệm duy vật về lịch sử, trong Tuyên
ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải một cách khoa học về quy luật phát triển
khách quan của lịch sử nhân loại, lịch sử xã hội loài người; về vị trí hàng đầu, ý nghĩa
có tầm quan trọng bậc nhất và vai trò quyết định của sản xuất vật chất đối với sự phát
triển của xã hội nói chung, đối với sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng nói riêng; về
quá trình phát sinh, phát triển và sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản cũng như sự
ra đời và phát triển như một tất yếu khách quan của chủ nghĩa xã hội; về vị trí, vai trò,
sứ mệnh lịch sử và phương pháp đấu tranh của giai cấp vô sản trong công cuộc xây
dựng chế độ xã hội mới; v.v.. Nói cách khác, trong Tuyên ngôn, với phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch ra và luận chứng một
cách có cơ sở lý luận, có luận cứ khoa học sâu sắc về những nguyên lý nền tảng của chủ
nghĩa cộng sản khoa học. Không chỉ thế, với phương pháp khoa học này, trong Tuyên
ngôn, các ông còn đề xuất hàng loạt luận điểm mang tính chất xuất phát điểm cho học
thuyết kinh tế của mình. Khi khẳng định toàn bộ nội dung của Tuyên ngôn đã nói lên
mối liên hệ khăng khít, sự thống nhất hữu cơ giữa ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác - triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học, V.I.Lênin đã đặc biệt
nhấn mạnh rằng, Tuyên ngôn là tác phẩm mà ở đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã “trình bày
một cách hết sức sáng sủa và rõ ràng thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật triệt để - chủ
nghĩa duy vật này bao quát cả lĩnh vực sinh hoạt xã hội, - phép biện chứng với tư cách
là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát triển, lý luận đấu tranh giai cấp
và vai trò cách mạng – trong lịch sử toàn thế giới – của giai cấp vô sản, tức là giai cấp
sáng tạo ra một xã hội mới, xã hội cộng sản”(4).
Thật vậy, trong phần mở đầu, khi nói về bối cảnh ra đời của văn kiện lịch sử này,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ nỗi sợ hãi và sự căm thù của các thế lực trong thế giới
tư bản chủ nghĩa đối với phong trào cộng sản đang hình thành và ngày một phát triển
sâu rộng. Các ông đã khẳng định rằng, sự xuất hiện và ngày càng phát triển của chủ
nghĩa cộng sản mà khi đó, “tất cả các thế lực ở châu Âu thừa nhận là một thế lực”, “một
bóng ma đang ám ảnh châu Âu”, đã khiến cho chúng phải “liên hợp lại thành một liên
minh thần thánh để trừ khử”. Chính vì vậy, “hiện nay, - các ông nhấn mạnh, - đã đến lúc
những người cộng sản phải công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm,
mục đích, ý đồ của mình; và phải có một Tuyên ngôn của đảng của mình để đập lại câu
chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản”(5).
Trong bối cảnh đó, để giúp cho giai cấp vô sản toàn thế giới và các chính đảng của nó
nhận thức rõ vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử và mục đích cao cả của mình trong cuộc đấu
tranh nhằm lật đổ giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản, đồng thời thiết lập địa vị thống trị
của mình và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phác họa
nên một bức tranh sinh động về quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản,
bóc trần những mâu thuẫn nội tại, vốn có của nó, chỉ rõ mức độ đối kháng giai cấp ngày
càng sâu sắc giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Cho đến nay, dẫu lịch sử nhân loại
đã trải qua cả một quãng thời gian dài đến 160 năm với biết bao sự thay đổi thăng trầm
và dẫu hiện thời, “chủ nghĩa tư bản hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công
nghệ, thị trường”, song những mâu thuẫn vốn có ấy của nó, như C.Mác và Ph.Ăngghen
đã vạch rõ trong Tuyên ngôn, không những không mất đi mà thậm chí, “vẫn tồn tại và
phát triển, có mặt sâu sắc hơn” đến mức độ “không thể khắc phục nổi”, “đặc biệt là mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất”(6).
Không chỉ vạch rõ những mâu thuẫn nội tại, vốn có của chủ nghĩa tư bản, với cái nhìn
khách quan và tầm hiểu biết sâu sắc, trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen còn
thẳng thắn thừa nhận rằng, sự ra đời của chủ nghĩa tư bản và việc giai cấp tư sản thiết
lập được địa vị thống trị của mình đã dẫn đến một sự phát triển chung chưa từng thấy
của các lực lượng sản xuất, một sự tiến bộ về kinh tế, phát triển về khoa học, kỹ thuật và
văn hóa. Các ông khẳng định: “Giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng
trong lịch sử”; ở bất cứ nơi nào mà giai cấp tư sản thiết lập được quyền thống trị chính
trị của mình, thì nó đều “đạp đổ những quan hệ phong kiến, gia trưởng và điền viên”,
làm tiêu tan “tất cả những quan hệ xã hội cứng đờ và hoen rỉ, với cả tràng những quan
niệm và tư tưởng vốn được tôn sùng từ nghìn xưa đi kèm những quan hệ ấy”. Nó “làm
cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới”, những thành quả
hoạt động tinh thần của một dân tộc thì “trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc”
và “lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh”. Rằng, giai cấp
tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, “đã tạo ra những lực
lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia
gộp lại”(7).
Đánh giá cao những thành tựu và cống hiến ấy của chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản,
song với cái nhìn biện chứng khách quan và tầm nhận thức sâu sắc về tiến trình phát
triển của lịch sử nhân loại, trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã khẳng
định rằng, giờ đây, giống như những gì đã xảy ra với các phương thức sản xuất trước
kia, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã không còn phù hợp với lực lượng sản xuất
hùng mạnh do nó tạo ra nữa, nó bắt đầu kìm hãm sự phát triển hơn nữa của lực lượng
sản xuất này. Rằng, “xã hội tư sản hiện đại, với những quan hệ sản xuất và trao đổi tư
sản của nó, với những quan hệ sở hữu tư sản, đã tạo ra những tư liệu sản xuất và trao
đổi hết sức mạnh mẽ như thế, thì giờ đây, giống như một tay phù thủy không còn đủ sức
trị những âm binh mà y đã triệu lên”(8). Và, giai cấp tư sản, từ một giai cấp tiến bộ,
cách mạng khi còn đang đấu tranh chống lại chế độ phong kiến, đã trở thành một giai
cấp phản động, một trở ngại trên con đường tiến bộ xã hội, trở thành lực cản cản trở tiến
trình phát triển của lịch sử nhân loại.
Với những khẳng định đó, trong một văn kiện mang tính cương lĩnh, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã cho thấy, việc thủ tiêu chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và cùng
với nó là xóa bỏ toàn bộ chế độ tư bản chủ nghĩa đã được chuẩn bị một cách khách quan
bởi sự tác động của chính ngay các quy luật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong
quan niệm của các ông, mặc dù giai cấp tư sản đã mang lại tính chất xã hội cho sản xuất
và tạo ra một loại hình phân công lao động xã hội mới, một mối quan hệ chặt chẽ giữa
các lĩnh vực sản xuất khác nhau, song với việc thiết lập chế độ sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và sự chiếm hữu tư nhân đối với sản phẩm lao động được
làm ra, giai cấp tư sản đã tạo ra mâu thuẫn không thể điều hòa được giữa chế độ sở hữu
đó với tính chất xã hội hóa của sản xuất. Do vậy, “những lực lượng sản xuất mà xã hội
sẵn có, không thúc dẩy quan hệ sở hữu tư sản phát triển nữa; trái lại, chúng đã trở thành
quá mạnh đối với quan hệ sở hữu ấy, cái quan hệ sở hữu lúc đó đang cản trở sự phát
triển của chúng; và mỗi khi những lực lượng sản xuất xã hội khắc phục được sự cản trở
ấy thì chúng lại xô toàn thể xã hội tư sản vào tình trạng rối loạn và đe dọa sự sống còn
của sở hữu tư sản. Những quan hệ tư sản đã trở thành quá hẹp, không đủ để chứa đựng
những của cải đã được tạo ra trong lòng nó nữa… Những vũ khí mà giai cấp tư sản đã
dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư
sản”(9). Việc thủ tiêu chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất đã trở
thành một tất yếu khách quan dưới sự tác dộng của các quy luật của nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa, nên theo các ông, “đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ
chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản” – “biểu hiện cuối cùng và
đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối
kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia”, và theo nghĩa đó,
“những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất
này là: xóa bỏ chế độ tư hữu”(10).
Trong Tuyên ngôn, khi chứng minh sự tất yếu phải diệt vong của chủ nghĩa tư bản và
khẳng định “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu
như nhau”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng, điều đó sẽ không tự động diễn
ra. Vai trò kẻ đào huyệt chôn chế độ tư bản đã trở nên lỗi thời đó sẽ phải do một giai
cấp nhất định thực hiện - giai cấp vô sản, giai cấp do chính xã hội tư bản sản sinh ra:
“Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những
người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô
sản”(11). Theo các ông, không một giai cấp thống trị đã lỗi thời nào lại tự nguyện rút
lui khỏi vũ đài lịch sử và do vậy, việc lật đổ giai cấp tư sản với tư cách một giai cấp
thống trị đã hết vai trò lịch sử chỉ có thể thành công bởi một cuộc đấu tranh giai cấp
quyết liệt – cuộc cách mạng vô sản do chính giai cấp vô sản cách mạng và chính đảng
của nó thực hiện.
Nhấn mạnh vấn đề đấu tranh giai cấp, coi đấu tranh giai cấp là “động lực trực tiếp của
lịch sử” trong xã hội có giai cấp đối kháng và khẳng định cuộc đấu tranh giai cấp giữa
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là “đòn bẩy vĩ đại của cuộc cách mạng xã hội hiện
đại”, trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiến hành luận chứng cho sứ mệnh
lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản. Theo các ông, trong thời đại ngày nay, với tư
cách “sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”, giai cấp vô sản không chỉ trở thành
“giai cấp đang nắm tương lai trong tay”, mà còn là “giai cấp thực sự cách mạng” nhất
và chính nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đưa họ lên địa vị đó, lên vũ đài lịch sử với tư
cách lực lượng cách mạng hùng hậu và không điều hòa với toàn bộ chế độ lao động làm
thuê. Rằng, chính địa vị của người lao động làm thuê, của giai cấp bị áp bức, bóc lột
nặng nề nhất trong xã hội tư bản khi đó đã biến giai cấp vô sản thành nhân tố cách
mạng, thành lực lượng triệt để chống lại chủ nghĩa tư bản. Sự nghiệp giải phóng giai
cấp vô sản phải do chính giai cấp vô sản thực hiện. Song, giai cấp vô sản tiến hành cách
mạng nhằm lật đổ giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản không chỉ vì sự nghiệp giải phóng
mình, mà còn thực hiện một sứ mệnh cao cả nữa, mang đậm tính nhân văn cộng sản chủ
nghĩa là giải phóng toàn thể nhân loại cần lao vĩnh viễn thoát khỏi mọi ách áp bức, bóc
lột. Với tư tưởng này, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “Phong trào vô sản là phong
trào độc lập của khối đại đa số. Giai cấp vô sản, tầng lớp ở bên dưới nhất của xã hội
hiện tại, không thể vùng dậy, vươn mình lên nếu không làm nổ tung toàn bộ cái thượng
tầng kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội quan phương”(12).
Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh cách mạng nhằm lật đổ giai cấp tư sản và chủ
nghĩa tư bản, giai cấp vô sản cần phải có phương pháp cách mạng đúng đắn và thực thi
những giải pháp tình thế một cách hợp lý, đúng đắn. Nhận thức rõ vấn đề này, trong
Tuyên ngôn, khi phân tích tiến trình phát triển hiện thực của cuộc đấu trang giai cấp
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản khi đó và chỉ ra những quy luật chủ yếu của cách
mạng vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, “bước thứ nhất trong cuộc
cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân
chủ”(13). Với quyền thống trị chính trị của mình, giai cấp vô sản, theo các ông, cần phải
từng bước giành lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, tập trung tất cả các công cụ
sản xuất chủ yếu vào tay nhà nước vô sản để nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất
và xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp. Không chỉ thế, các ông còn cho rằng, thông
qua con đường đấu tranh cách mạng, việc giai cấp vô sản “tự tổ chức thành giai cấp”,
“trở thành giai cấp thống trị” và thiết lập chính quyền vô sản – một chính quyền dân chủ
do chính ngay bản chất của nó, thể hiện lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân và dựa vào sự
ủng hộ của nhân dân – phải được coi là vấn đề đầu tiên, then chốt và mang ý nghĩa quyết
định trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành
công chế độ xã hội mới.
Để giúp cho giai cấp vô sản toàn thế giới có được sự định hướng đúng đắn trong công
cuộc xây dựng chế độ xã hội mới, với tầm nhận thức lý luận và sự am hiểu thực tiễn của
mình khi đó, trong văn kiện mang tính cương lĩnh này - Tuyên ngôn, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đưa ra một phác thảo về xã hội mới đó trên những nét chủ yếu và đồng
thời chỉ rõ, xã hội mới này không phải đã được xác lập ngay lập tức, mà sẽ chỉ được xác
lập trong tiến trình cải tạo dần dần xã hội cũ. Không chỉ thế, khi vạch ra những biện
pháp mà nhà nước vô sản cần phải thực hiện để chuẩn bị cơ sở cho công cuộc cải tạo
cách mạng đó, các ông đã không coi những biện pháp ấy là tuyệt đối, đầy đủ, không thể
thay thế, mà cho rằng, bản thân thực tiễn xây dựng xã hội mới và những điều kiện lịch
sử – cụ thể của thực tiễn ấy sẽ mang lại những sửa đổi tương ứng, thích hợp cho những
biện pháp ấy và “trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác
nhau rất nhiều”(14). Với quan điểm lịch sử – cụ thể này, với thái độ khoa học nghiêm
túc, sau 25 năm xuất bản văn kiện lịch sử này, trong Lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất
bản năm 1872, chính Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Mặc dầu hoàn cảnh đã thay đổi
nhiều trong hai mươi lăm năm qua, nhưng cho đến nay, xét về đại thể, những nguyên lý
tổng quát trình bày trong “Tuyên ngôn” này vẫn còn hoàn toàn đúng. Ở đôi chỗ, có một
vài chi tiết cần phải xem lại. Chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ
ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh
lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng
nêu ra ở cuối chương II. Đoạn này, ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt, cũng phải viết
khác đi. Vì đại công nghiệp đã có những bước tiến hết sức lớn trong hai mươi lăm năm
qua và giai cấp công nhân cũng đạt được những tiến bộ song song trong việc tự tổ chức
thành chính đảng, do có những kinh nghiệm thực tiễn… Tuy nhiên, “Tuyên ngôn” là
một tài liệu lịch sử mà chúng tôi không có quyền sửa lại. Có lẽ là trong một lần xuất
bản, sẽ có một lời tựa để bổ sung vào khoảng trống từ năm 1847 đến nay”(15). Không
chỉ một lần đòi hỏi những người cộng sản khi vận dụng những nguyên lý, những biện
pháp cách mạng mà Tuyên ngôn đã đưa ra, cần phải tính đến những điều kiện lịch sử –
cụ thể, phải bổ sung và phát triển sáng tạo, trong Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ
không tưởng đến khoa học (1880), cũng chính Ph.Ăngghen đã một lần nữa khẳng định:
“Muốn làm cho chủ nghĩa xã hội thành một