Mục tiêu: Xác định tỷ lệ trầm cảm của phụ nữ mang thai 3 tháng đầu tại bệnh viện Hùng Vương năm
2011 và các yếu tố liên quan.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 400 phụ nữ mang thai 3 tháng đầu đến khám thai tại bệnh viện
Hùng Vương từ 01/04/2011 đến 30/06/2011. Sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhin thuận tiện.
Kết quả: Tỷ lệ trầm cảm của phụ nữ mang thai 3 tháng đầu là 5,75%. Nhóm sản phụ > 35 tuổi tăng nguy
cơ trầm cảm so với nhóm ≤ 35 tuổi (OR=2,95). Nhóm sản phụ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn tăng nguy cơ trầm
cảm so với nhóm kinh tế đủ sống (OR=5,61). Nhóm sản phụ có điều trị hiếm muộn tăng nguy cơ trầm cảm so
với nhóm có thai tự nhiên (OR=3,09). Nhóm sản phụ có mâu thuẫn với gia đình chồng tăng nguy cơ trầm cảm
so với nhóm không có mâu thuẫn với gia đình chồng (OR=1,58).
Kết luận: Qua nghiên cứu này cho thấy đây là một bệnh lý không hiếm cần được quan tâm. Thai phụ lớn
tuổi, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, có điều trị hiếm muộn, có mâu thuẫn với gia đình chồng gia tăng nguy cơ
trầm cảm trong lúc mang thai 3 tháng đầu.
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 185 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu tại Bệnh viện Hùng Vương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 251
TỶ LỆ TRẦM CẢM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở PHỤ NỮ
MANG THAI 3 THÁNG ĐẦU TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG
Nguyễn Duy Tài*, Trương Thị Bích Hà**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ trầm cảm của phụ nữ mang thai 3 tháng đầu tại bệnh viện Hùng Vương năm
2011 và các yếu tố liên quan.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 400 phụ nữ mang thai 3 tháng đầu đến khám thai tại bệnh viện
Hùng Vương từ 01/04/2011 đến 30/06/2011. Sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhin thuận tiện.
Kết quả: Tỷ lệ trầm cảm của phụ nữ mang thai 3 tháng đầu là 5,75%. Nhóm sản phụ > 35 tuổi tăng nguy
cơ trầm cảm so với nhóm ≤ 35 tuổi (OR=2,95). Nhóm sản phụ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn tăng nguy cơ trầm
cảm so với nhóm kinh tế đủ sống (OR=5,61). Nhóm sản phụ có điều trị hiếm muộn tăng nguy cơ trầm cảm so
với nhóm có thai tự nhiên (OR=3,09). Nhóm sản phụ có mâu thuẫn với gia đình chồng tăng nguy cơ trầm cảm
so với nhóm không có mâu thuẫn với gia đình chồng (OR=1,58).
Kết luận: Qua nghiên cứu này cho thấy đây là một bệnh lý không hiếm cần được quan tâm. Thai phụ lớn
tuổi, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, có điều trị hiếm muộn, có mâu thuẫn với gia đình chồng gia tăng nguy cơ
trầm cảm trong lúc mang thai 3 tháng đầu.
Từ khóa: trầm cẩm, thai tam cá nguyệt đầu, bệnh viện Hùng Vương.
ABSTRACT
PREVALENCE AND RISK FACTORS OF DEPRESSION AMONG PREGNANT WOMEN DURING
FIRST TRIMESTER IN HUNG VUONG HOSPITAL
Nguyen Duy Tai, Truong Thi Bich Ha
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 251 - 257
Objective: To identify the proportion of depression and related factors among women in the first trimester of
pregnancy at Hung Vuong Hospital year 2011
Methods: A cross-sectional study, applying simple randomised sampling method, was conducted on 400
women in their first trimester of pregnancy at Hung Vuong Hospital from 01 April 2011 to 30 June 2011.
Results: The proportion of depression among women in the first trimester of pregnancy was 5.75%. The
group of women over 35 years old had higher risk of depression than those under 35 (OR = 2.95). Women in
lower economic status had higher risk of depression than those of average living condition (OR = 5.61). Infertility
treated women had higher risk of depression than those having spontaneous pregnancy (OR = 3.09). Those having
bad relationship with husband’s family had higher risk of depression (OR = 1.58).
Conclusion: This study indicates that depression is not a rare condition and deserves studying. Age,
financial status, infertility history, and bad relationship with husband’s family are the factors that increase the risk
of depression among first trimester pregnant women.
Keywords: depression, first trimester pregnancy, Hung Vuong Hospital
* Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TPHCM ** Bệnh viện Hùng Vương
Tác giả liên lạc: GS.TS.BS. Nguyễn Duy Tài ĐT: 0903856439 Email: duytamv2002@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Sức khỏe Sinh sản và Bà Mẹ - Trẻ em 252
ĐẶT VẤN ĐỀ
Quá trình mang thai và sinh đẻ là thời kỳ
dễ xảy ra nhiều biến đổi về tâm lý và sinh lý
trong đời sống người phụ nữ, đặc biệt những
biến đổi về tâm lý thường gặp hơn cả(6). Rất
nhiều nghiên cứu cho thấy trầm cảm là một
rối loạn tâm lý thường gặp nhất trong giai
đoạn trước và sau khi sinh(2). Nếu không được
quan tâm đúng mức, những biến đổi này có
thể dẫn đến những hậu quả vô cùng nặng nề
về tinh thần, thể xác lẫn vật chất cho bản thân
người phụ nữ, gia đình và xã hội.
Phần lớn các nghiên cứu hiện nay về trầm
cảm thường tập trung vào giai đoạn sau sanh(2),
tuy nhiên tần suất mắc trầm cảm lại tập trung
nhiều hơn trong quá trình mang thai. Theo một
tổng quan năm 2005 từ các nghiên cứu đoàn hệ
cho thấy tần suất của trầm cảm trước sanh là
14% (KTC 95%: 13,5-14,5), so với tần suất này ở
giai đoạn sau sanh là 10,5% (KTC 95%: 10,1-
10,9)(8). Chẩn đoán trầm cảm trong thai kỳ cũng
thường bị bỏ qua do các triệu chứng gần giống
với những thay đổi sinh lý trong thai kỳ như
thay đổi tính khí, thay đổi khẩu vị
Bên cạnh, nhiều nghiên cứu đoàn hệ khác
cho thấy trầm cảm và rối loạn lo âu trong quá
trình mang thai là yếu tố nguy cơ ảnh hưởng
đến tình trạng trầm cảm sau sanh(7,9). Một loạt
các nghiên cứu tại các nước đang phát triển
cũng đã khẳng định về kết quả nghiên cứu
này(1,5,10,11,13). Điều đó cho thấy những can thiệp
dự phòng hay điều trị trầm cảm cần được thực
hiện sớm hơn trong thai kỳ.
Hiện tại các nghiên cứu có giá trị về trầm
cảm chu sinh còn rất ít ở các nước đang phát
triển, và điều đáng nói là tỷ lệ trầm cảm chu
sinh ở các nước này cao hơn rất nhiều khi so
sánh với các nước đã phát triển(14).
Việt Nam - một nước đang phát triển, mật
độ dân số đông, tỷ lệ sinh vẫn còn cao - trầm
cảm trong thai kỳ chưa được quan tâm đúng
mức. Tại thành phố Hồ Chí Minh, bệnh viện
Hùng Vương là một trong những bệnh viện
tuyến 4 chuyên khoa sản phụ, hàng năm quản
lý khoảng 200.000 lượt thai phụthuộc thành phố
và các tỉnh lân cận. Như vậy, vấn đề đặt ra là tỷ
lệ trầm cảm ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu và
các yếu tố liên quan đến bệnh lý này như thế
nào tại bệnh viện Hùng Vương.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiêu chuẩn chọn vào
Các sản phụ đến khám thai tại Khoa Khám
thai bệnh viện Hùng Vương.
Đang cư ngụ tại thành phố Hồ Chí Minh.
Được chẩn đoán có thai sống trong lòng tử cung
(lòng tử cung có hình ảnh phôi thai và tim thai
trên siêu âm ngả âm đạo hoặc siêu âm bụng).
Tuổi thai từ 6 đến 14 tuần (dựa vào siêu âm).
Không có tiền căn bệnh lý nội khoa, ngoại
khoa.
Không có tiền căn bệnh lý tâm thần.
Có khả năng hiểu tiếng Việt.
Có trạng thái tinh thần và tình trạng sức
khỏe đủ để cho phép tiến hành cuộc phỏng vấn.
Đồng ý tham gia vào nghiên cứu sau khi
được giải thích mục đích của nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại ra
Thai ngừng phát triển hoặc thai lưu.
Chẩn đoán xác định hoặc nghi ngờ thai
ngoài tử cung.
Có bệnh lý sản phụ khoa cần điều trị cấp
cứu ngay khi nhập viện.
Khả năng hiểu tiếng Việt không tốt.
Không đồng ý tiếp tục tham gia nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính
Xác định tỷ lệ trầm cảm của phụ nữ mang
thai 3 tháng đầu tại bệnh viện Hùng Vương từ
01/04/2011 đến 30/06/2011.
Mục tiêu phụ
Xác định các yếu tố liên quan (tuổi, hoàn
cảnh kinh tế, tình trạng hôn nhân-gia đình, tiền
căn sản khoa, tình trạng thai kỳ hiện tại).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 253
Phương tiện:
Bảng câu hỏi soạn sẵn để ghi những biến số
nghiên cứu.
Bảng thang điểm đánh giá trầm cảm trong
khi mang thai EDS (Edinburgh Depression
Scale) cho sản phụ tự đánh giá.Thang điểm EDS
gồm 10 câu hỏi, mỗi câu hỏi gồm 4 lựa chọn với
điểm số từ 0 đến 3, sản phụ chọn 1 câu đúng.
Tổng số điểm sẽ được ghi nhận (từ 0 đến 30
điểm). Những sản phụ nào có số điểm ≥ 15 được
chẩn đoán ban đầu là có trầm cảm trong khi
mang thai.
KẾT QUẢ
Đặc điểm xã hội - kinh tế của đối tượng
nghiên cứu (n=400)
Tần số
(n=400)
Tỷ lệ (%)
Tuổi
18- 35 tuổi
> 35 tuổi
352
48
88,0
12,0
Cấp I
Cấp II
Cấp III
Trung cấp-CĐ-ĐH
38
171
101
90
9,5
42,8
25,2
22,5
Nhà riêng
Nhà ba mẹ chồng
Nhà ba mẹ ruột
Nhà thuê
Khác
87
85
30
187
11
21,8
21,2
7,5
46,8
2,8
Nghề ổn định
Nghề không ổn định
363
37
90,8
9,2
Khó khăn
Đủ sống
82
318
20,5
79,5
Nhận xét: Đa số những sản phụ mang thai 3
tháng đầu thuộc nhóm phụ nữ trẻ, tuổi trung
bình là 28,06. Các sản phụ thuộc nhóm tuổi 18-
35 chiếm tỷ lệ cao nhất (88%).
Hầu hết các sản phụ có trình độ học vấn ở
bậc phổ thông (77,5%). Nhóm các sản phụ có
trình độ học vấn sau đại học chiếm tỷ lệ rất
ít (0%).
Hầu hết các sản phụ đều có mối quan hệ hòa
hợp với chồng (93,2%). Tỷ lệ các sản phụ có mâu
thuẫn với gia đình chồng chiếm tỷ lệ rất ít (4%).
Nhận xét: Đa số thai kỳ lần này của các sản
phụ là có mong đợi (83,2%).
Đa số lần này các sản phụ có thai tự nhiên
(94,2%). Các bệnh thường gặp nhất trong thai kỳ
bao gồm: Dọa sẩy thai (6,5%), thiếu máu (5,8%),
viêm âm đạo (4,8%), nghén nặng (4%).
Tỷ lệ (%) trầm cảm trong thai kỳ của phụ
nữ mang thai 3 tháng đầu tại bệnh viện
Hùng Vương (n=400)
Mối liên quan giữa các yếu tố xã hội-kinh
tế với tình trạng TCTTK của đối tượng
nghiên cứu
Có
TC
Không
TC
p OR
(KTC 95%)
>35 tuổi
18- 35t
7
16
41
336
0,005 3,59
(1,25-9,98)
Cấp I
Cấp II
Cấp III
Trung cấp-CĐ-ĐH
3
8
4
8
35
163
97
82
0,370
Nhà riêng
Nhà ba mẹ chồng
Nhà ba mẹ ruột
Nhà thuê
Khác
8
3
0
12
0
79
82
30
186
11
0,318
Nghề ổn định
Không ổn định
7
16
30
347
<0,001 5,06
(1,73-14,4)
Khó khăn
Đủ sống
15
8
67
310
<0,001
8,68
(3,2-23,42)
Nhận xét: Phụ nữ mang thai 3 tháng đầu
thai kỳ > 35 tuổi có nguy cơ TCTTK cao gấp 3,59
lần so với nhóm 18-35 tuổi.
Phụ nữ mang thai 3 tháng đầu thai kỳ có
nghề nghiệp không ổn định có nguy cơ TCTTK
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Sức khỏe Sinh sản và Bà Mẹ - Trẻ em 254
cao gấp 5,06 lần so với nhóm có nghề nghiệp
không ổn định.
Phụ nữ mang thai 3 tháng đầu thai kỳ có
hoàn cảnh kinh tế khó khăn có nguy cơ TCTTK
cao gấp 8,68 lần so với nhóm có hoàn cảnh kinh
tế đủ sống.
Mối liên quan giữa các yếu tố hôn nhân-
gia đình với tình trạng TCTTK của đối
tượng nghiên cứu
Có
TC
Không
TC
P OR
(KTC 95%)
Sống chung với chồng
Ly thân/ Ly dị/ Không
chồng
23
1
373
3
0,096
Hòa hợp với chồng
Ít hòa hợp
Không
20
3
0
353
21
3
0,222
Mâu thuẫn với gia đình
chồng
Không
6
17
10
367
0,001
12,95
(3,67-45,1)
Nhận xét:
Phụ nữ mang thai 3 tháng đầu thai kỳ mâu
thuẫn với gia đình chồng có nguy cơ TCTTK
cao gấp 12,95 lần so với nhóm không mâu thuẫn
với gia đình chồng.
Mối liên quan giữa tiền căn sản khoa với
tình trạng TCTTK của đối tượng nghiên
cứu
Có
TC
Không
TC
p OR
(KTC 95%)
> 2 con
< 2 con
4
19
19
358
0,035 3,97
(1,03-14,1)
Có mổ sanh
Không
0
23
19
358
0,315
Có bỏ thai
Không
20
3
332
45
0,902
Có hư thai
Không
11
12
86
291
0,006 3,10
(1,22-7,8)
Nhận xét: phụ nữ mang thai 3 tháng đầu thai
kỳ có > 2 đứa con có nguy cơ TCTTK cao gấp
3,97 lần so với nhóm có < 2 con. Phụ nữ mang
thai 3 tháng đầu thai kỳ có tiền căn hư thai có
nguy cơ TCTTK cao gấp 3,1 lần so với nhóm
không có tiền căn hư thai.
Có
TC
Không
TC
p OR
(KTC 95%)
Mong có thai
Không
20
3
313
64
0,442
Có
TC
Không
TC
p OR
(KTC 95%)
Có ĐT hiếm muộn
Không
4
19
19
358
0,035 3,97
(1,03-14,1)
Mắc bệnh lúc có thai
Không
12
11
77
300
<0,001 4,25
(1,68-10,8)
Có dọa sẩy
Không
5
18
21
356
0,011 4,71
(1,38-15,2)
Có nghén nặng
Không
4
19
12
365
0,009 6,4
(1,57-24,3)
Có viêm ÂĐ
Không
2
21
17
360
0,299
Có bệnh tim
Không
1
22
1
376
0,111
Nhận xét: Phụ nữ mang thai 3 tháng đầu
thai kỳ có điều trị hiếm muộn có nguy cơ
TCTTK cao gấp 3,97 lần so với nhóm có thai tự
nhiên.
Phụ nữ mang thai 3 tháng đầu thai kỳ có
mặc bệnh trong thai kỳ lần này có nguy cơ
TCTTK cao gấp 4,25 lần so với nhóm không mắc
bệnh trong thai kỳ lần này.
Phụ nữ mang thai 3 tháng đầu thai kỳ bị
dọa sẩy thai trong thai kỳ lần này có nguy cơ
TCTTK cao gấp 4,71 lần so với nhóm không bị
dọa sẩy thai.
Phụ nữ mang thai 3 tháng đầu thai kỳ bị
nghén nặng trong thai kỳ lần này có nguy cơ
TCTTK cao gấp 6,4 lần so với nhóm không bị
nghén nặng.
Các yếu tố liên quan đến trầm cảm đối với
phụ nữ mang thai 3 tháng đầu
Yếu tố p OR KTC 95%
> 35t 0,020 2,95 1,965-8,690
KT khó khăn <0,001 5,61 2,523-18,931
Có ĐT hiếm muộn 0,024 3,09 1,240-12,531
Mâu thuẫn với gia đình
chồng
0,013 1,58 1,180-10,361
Nhận xét: Có 4 yếu tố làm tăng nguy cơ trầm
cảm cho phụ nữ mang thai 3 tháng đầu (p<0,05).
Yếu tố kinh tế khó khăn có tương quan mạnh
nhất với TCTTK (OR=5,61).Yếu tố mâu thuẫn
với gia đình chồng có tương quan yếu nhất với
TCTTK (OR=1,58).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 255
BÀN LUẬN
Các nghiên cứu hiện tại về trầm cảm trong
thai kỳ trên những đối tượng, quốc gia khác
nhau lại thường sử dụng các bảng câu hỏi khác
nhau, hoặc cùng một bảng câu hỏi nhưng phiên
dịch thành các thứ tiếng khác nhau để phù hợp
với từng quốc gia. Vì vậy, khi so sánh kết quả
của các nghiên cứu này với nhau dễ bị thiếu
chính xác.
Có thể thấy các sản phụ đến khám thai tại
bệnh viện Hùng Vương có những đặc điểm
riêng so với các sản phụ đang sống tại thành
phố Hồ Chí Minh. Điều này một phần là do
bệnh viện Hùng Vương là bệnh viện công,
thành phần đến khám chủ yếu là có bảo hiểm y
tế, thuận lợi cho những người có mức sống
trung bình. Thành phần các sản phụ thuộc tầng
lớp trí thức (đại học, sau đại học) có lẽ thích đến
khám thai tại các cơ sở y tế tư nhân hơn.
Tỷ lệ trầm cảm trong 3 tháng đầu thai kỳ
chúng tôi tìm được trên 400 sản phụ đến khám
thai tại bệnh viện Hùng Vương năm 2011 là
5,75% (23/400 sản phụ). Tỷ lệ này được sàng lọc
bước đầu bằng bảng câu hỏi EDS với ngưỡng
điểm là 15 điểm. Đây là điểm cắt có độ nhạy cao
và độ đặc hiệu cao, được khuyến cáo để chẩn
đoán ban đầu trầm cảm trong thai kỳ(12). Nghiên
cứu tại Úc kết luận EDS với đểm cắt 15, có độ
nhạy 100% và độ đặc hiệu 96% trong sàng lọc
TCTTK(3). 23 sản phụ chúng tôi nghi ngờ có trầm
cảm trong thai kỳ đã được chẩn đoán khẳng
định lại dựa trên thang điểm chẩn đoán trầm
cảm DSM-IV bởi bác sĩ chuyên khoa tâm thần.
Tuy nhiên tỷ lệ trầm cảm trong thai kỳ của
phụ nữ mang thai 3 tháng đầu tại bệnh viện
Hùng Vương có thể cao hơn con số chúng tôi
tìm được do đặc điểm của những đối tượng từ
chối trả lời phỏng vấn như đã đề cập phần trên.
Một số lượng phụ nữ có nguy cơ trầm cảm
trong 3 tháng đầu thai kỳ có thể đã bị bỏ sót.
Tỷ lệ chúng tôi tìm được cũng gần bằng với
tỷ lệ trầm cảm ở nhóm sản phụ từ 14-16 tuần
(6,1%) trong một nghiên cứu thực hiện năm 2009
tại Viện Trường ở Lithuania. Đây là một nghiên
cứu thiết kế cohort, sử dụng công cụ sàng lọc là
bảng câu hỏi của WHO: CIDI-SF và tiêu chuẩn
chẩn đoán là DSM-III-R.
So sánh với một số tỷ lệ trầm cảm trong thai
kỳ trong các nghiên cứu khác, chúng tôi thấy tỷ
lệ 5,75% ở mức độ tương đối thấp, gần bằng với
những số liệu từ các nghiên cứu ở châu Á (Nhật
Bản, Trung Quốc).
Nếu thử dời điểm cắt của thang điểm EDS từ
15 xuống 13 điểm (một ngưỡng điểm cũng được
chứng minh rằng có độ nhạy cao trong sàng lọc
trầm cảm trong thai kỳ) thì tỷ lệ trầm cảm trong
thai kỳ được chẩn đoán ban đầu trong nghiên
cứu của chúng tôi là 9%. So với số liệu từ các
nghiên cứu từ châu Mỹ, con số này vẫn còn ở
mức độ thấp.
Sau khi phân tích đơn biến chúng tôi có 9
yếu tố liên quan đến trầm cảm trong 3 tháng
đầu thai kỳ.
Nhìn chung, hầu hết các yếu tố có liên
quan với trầm cảm trong 3 tháng đầu thai kỳ
chúng tôi tìm thấy trong nghiên cứu này
giống với các yếu tố nguy cơ trong các nghiên
cứu khác trên thế giới.
Khi so sánh với kết quả nghiên cứu tại
Lithuania, một quốc gia có nền kinh tế phát triển
thuộc Bắc Âu, năm 2009, TCTTK cao nhất trong
3 tháng đầu thai kỳ với các yếu tố có liên quan
là: thai kỳ ngoài mong đợi, học vấn thấp, thu
nhập thấp, tiền căn trầm cảm, có chứng loạn
thần(4), phần lớn chúng tôi không tìm thấy mối
liên quan với các yếu tố như nghiên cứu trên.
Đối với yếu tố trình độ học vấn: Chúng tôi
không tìm thấy mối liên quan giữa yếu tố này
với trầm cảm 3 tháng đầu thai kỳ có thể là do
đặc trưng về trình độ học vấn của đối tượng
nghiên cứu như đã bàn luận ở trên: các sản phụ
đến khám thai tại bệnh viện Hùng Vương tập
trung hầu hết ở bậc phổ thông.
Đối với yếu tố tiền căn trầm cảm và có
chứng loạn thần: Trong nghiên cứu của chúng
tôi, tiêu chuẩn loại trừ của đối tượng nghiên cứu
là không có tiền căn bệnh lý tâm thần nhằm tập
trung khảo sát các yếu tố riêng biệt của thai kỳ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Sức khỏe Sinh sản và Bà Mẹ - Trẻ em 256
lần này với bệnh lý TCTTK. Tuy nhiên, chúng
tôi cũng thực sự không an tâm vì trong tất cả các
trường hợp được phỏng vấn, chúng tôi đều
không ghi nhận được trường hợp nào có tiền
căn tương tự. Điều này có thể là do sức khỏe
tâm lý đối với người Việt Nam vẫn chưa được
chú trọng. Sản phụ có thể đã từng có biểu hiện
của các bệnh lý tâm thần trên nhưng có thể
không được phát hiện do ở mức độ nhẹ và
không đi khám. Hơn nữa, nếu đã từng được
chẩn đoán các sản phụ có thể không cho người
phỏng vấn biết vì đây dường như còn là những
bệnh lý tế nhị đối với người Việt Nam. Do đó,
chúng tôi nghĩ tại Việt Nam cần có thêm những
nghiên cứu khảo sát một các chuyên biệt hơn
liên quan giữa yếu tố tiền căn bệnh lý tâm thần
với TCTTK để có thể kết luận rõ hơn.
Phân tích đa biến
Sau khi phân tích đa biến (nhằm loại bỏ các
yếu tố gây nhiễu) chúng tôi tìm thấy 4 yếu tố
nguy cơ đối với trầm cảm 3 tháng đầu thai kỳ,
xếp theo thứ tự giảm dần của OR: Kinh tế khó
khăn (OR=5,61), có điều trị hiếm muộn
(OR=3,09), tuổi > 35 (OR=2,95)
Mâu thuẫn với gia đình chồng (OR=1,58).
Mặc dù đây là một rối loạn tâm thần nhưng yếu
tố kinh tế dường như vẫn giữa vai trò chủ đạo
với OR cao nhất. Ở những nước đang phát triển,
việc phụ nữ có thai, sinh con và nuôi dưỡng con
cái vẫn chưa có được sự hỗ trợ tích cực như ở
các nước phát triển. Do đó, đối với những gia
đình kinh tế khó khăn, việc chuẩn bị cho một
thành viên mới sắp ra đời có thể sẽ là mối quan
tâm, lo lắng rất lớn, đặc biệt cho người mẹ mang
thai.
Các yếu tố nguy cơ của trầm cảm 3 tháng
đầu thai kỳ mà chúng tôi tìm được hầu hết phù
hợp với các yếu tố nguy cơ tìm được trong các
nghiên cứu có liên quan.
Điều trị hiếm muộn cho thai kỳ lần này có
tương quan mạnh với TCTTK (sau yếu tố kinh
tế). Tương quan này có thể được lý giải do
nhiều áp lực khi thực hiện điều trị hiếm muộn:
chi phí tốn kém, thời gian kéo dài, hiệu quả thấp
và khao khát mong muốn có con từ bản thân sản
phụ và gia đình. Vì vậy, những sản phụ này bên
cạnh việc điều trị hiếm muộn cũng cần được gia
đình và thầy thuốc quan tâm hơn đến sức khỏe
tinh thần, tình cảm để thai kỳ lần này có được
những kết quả trọn vẹn nhất.
Mâu thuẫn với gia đình chồng cũng góp
phần cho tình trạng TCTTK. Đây có lẽ là một
trong những yếu tố đặc trưng cho phụ nữ châu
Á, các dân tộc chịu ảnh hưởng nền xã hội phong
kiến, người phụ nữ lập gia đình phụ thuộc gia
đình chồng về kinh tế, chỗ ở...
Tuy nhiên, đối với yếu tố tuổi, nghiên cứu
của chúng tôi tìm được có mối tương quan
ngược lại so với tất cả các nghiên cứu mà chúng
tôi tổng quan được. Trong các nghiên cứu khác,
nguy cơ TCTTK sẽ tăng cao trong nhóm phụ nữ
trẻ, riêng trong nghiên cứu của chúng tôi,
TCTTK lại tăng trong nhóm có độ tuổi trung
niên (>35 tuổi). Có thể đây là điểm khác biệt
riêng đối với những phụ nữ Việt Nam hoặc đối
tượng nghiên cứu tại bệnh viện Hùng Vương.
Tuy nhiên để khẳng định điều này cần có sự
phân tích chi tiết hơn về các đối tượng trong các
nghiên cứu khác nhau và cần có thêm những
nghiên cứu khác về trầm cảm trong 3 tháng đầu
thai kỳ được thực hiện ở người Việt Nam.
KẾT LUẬN
Qua khảo sát trên 400 phụ nữ mang thai 3
tháng đầu khám thai tại bệnh viện Hùng Vương
từ 01/04/2011 đến 30/06/2011, chúng tôi có kết
luận sau:
Tỷ lệ trầm cảm của phụ nữ mang thai 3
tháng đầu là 5,75%.
Bốn yếu tố ghi nhận liên quan đến trầm cảm
3 tháng đầ