The social group with groups is an approach to assisting groups with common problems
in their lives. At present, orphan care facilities have been using assistive methods for orphans.
However, the social work with groups has not been implemented universally and effectively. The
article deals with aspects of this method such as the concepts related to social work with groups
for orphans; factors affecting social work for orphans; application of the method of social work
with groups for orphans at the SOS children’s village in Hanoi.
5 trang |
Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 646 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng phương pháp công tác xã hội nhóm trong giáo dục kĩ năng sống cho trẻ em mồ côi tại làng trẻ em SOS Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 122-126
122
ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM
TRONG GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO TRẺ EM MỒ CÔI
TẠI LÀNG TRẺ EM SOS HÀ NỘI
Nguyễn Thị Liên - Trường Đại học Hùng Vương
Ngày nhận bài: 19/05/2018; ngày sửa chữa: 20/05/2018; ngày duyệt đăng: 28/05/2018.
Abstract: The social group with groups is an approach to assisting groups with common problems
in their lives. At present, orphan care facilities have been using assistive methods for orphans.
However, the social work with groups has not been implemented universally and effectively. The
article deals with aspects of this method such as the concepts related to social work with groups
for orphans; factors affecting social work for orphans; application of the method of social work
with groups for orphans at the SOS children’s village in Hanoi.
Keywords: Orphans, social work with groups, life skills education.
1. Mở đầu
Trẻ em luôn là đối tượng cần được quan tâm đặc biệt.
Chính vì vậy, ngay trong lời mở đầu, Công ước của Liên
Hợp quốc về Quyền trẻ em (Việt Nam phê chuẩn ngày
20/02/1990) khẳng định: “... để phát triển đầy đủ và hài
hòa nhân cách của mình, trẻ em cần được lớn lên trong
môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu
thương và cảm thông” [1].
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có những
chính sách quan tâm, hỗ trợ, đầu tư nhằm đáp ứng nhu
cầu chăm sóc cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (HCĐB).
Với con số là 1,4 triệu trẻ em có HCĐB (trong đó có trẻ
em mồ côi (TEMC)) đang là thách thức lớn đối với Nhà
nước, các cơ quan, ban ngành. Nhằm hướng tới hạn chế
những khó khăn, thách thức trong hoạt động chăm sóc,
giáo dục trẻ em có HCĐB, đã có các chính sách nhằm
đón đầu trước những năm tiếp theo khi số lượng TEMC
không có xu hướng giảm. Ước tính, số lượng trẻ em có
HCĐB ở nước ta đến năm 2020 sẽ là 223.000 TEMC; trẻ
em nhiễm HIV/AIDS khoảng 27.000; trẻ em khuyết tật
nặng; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học khoảng
265.000; trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa
khoảng 140.000; trẻ em bị tự kỉ, bị down, bị thiểu năng
trí tuệ khoảng 545.000.
Xuất phát từ thực tế đó, công tác xã hội (CTXH) đã
ra đời và phát huy vai trò của mình trong trợ giúp cho các
nhóm đối tượng yếu, nhất là TEMC. Tuy nhiên, hiện nay
việc ứng dụng phương pháp CTXH trong trợ giúp cho
các nhóm đối tượng yếu thế chỉ dừng lại ở phương pháp
CTXH cá nhân, trong khi phương pháp CTXH nhóm
chưa được ứng dụng phổ biến và chưa được thực hiện
một cách hiệu quả.
Để can thiệp, trợ giúp cho các nhóm TEMC có chung
vấn đề cần tới rất nhiều yếu tố, trong đó không thể thiếu
phương pháp CTXH nhóm đối với TEMC. Bài viết này
đề cập tới một số khía cạnh về khái niệm liên quan tới
TEMC, CTXH nhóm với TEMC và ứng dụng tiến trình
can thiệp CTXH nhóm đối với TEMC tại Làng trẻ em
SOS Hà Nội.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1. Khái niệm “trẻ em mồ côi”
Tại Namibia, TEMC là một đứa trẻ dưới 18 tuổi đã
mất mẹ, cha, hoặc cả hai - hoặc người chăm sóc chính -
do tử vong, hoặc một đứa trẻ cần được chăm sóc; còn tại
Ethiopia thì TEMC là một đứa trẻ dưới 18 tuổi đã mất cả
hai bố mẹ, bất kể họ đã chết như thế nào [2; tr 3].
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
(sửa đổi năm 2004) thì TEMC không nơi nương tựa, trẻ
em bị bỏ rơi được hiểu là những trẻ em có hoàn cảnh
như sau:
- Mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc bị bỏ rơi, bị mất nguồn
nuôi dưỡng và không còn người thân thích ruột thịt (ông,
bà nội, ngoại; bố, mẹ nuôi hợp pháp; anh, chị, em) để
nương tựa.
- Mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại (mẹ hoặc
cha) mất tích theo quy định của Bộ luật Dân sự hoặc
không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng (như tàn tật
nặng, đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại
cải tạo), không có nguồn nuôi dưỡng và không có người
thân thích để nương tựa.
Như vậy, TEMC được hiểu là những trẻ không còn
bố mẹ hoặc một trong hai người đã mất, người còn lại
không xác định được hay đang trong quá trình thụ án...
2.1.2. Khái niệm công tác xã hội nhóm với trẻ em mồ côi
CTXH nhóm là phương pháp thực hành CTXH liên
quan tới làm việc theo nhóm, đề cập đến một phương
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 122-126
123
pháp thực hành CTXH liên quan đến việc công nhận và
sử dụng các quá trình xảy ra khi có từ 3 người trở lên làm
việc cùng nhau theo một mục đích chung. Thuật ngữ làm
việc nhóm cũng được sử dụng để mô tả một ngữ cảnh
cho thực tiễn, nơi thực hành CTXH được tiến hành theo
nhóm [3; tr 82].
CTXH nhóm là một phương pháp với cách thức thực
hiện theo tiến trình các bước và mang tính khoa học.
Được thực hiện bởi những người điều phối là các nhân
viên CTXH, người có kiến thức, kĩ năng, thái độ phù hợp.
CTXH hướng tới hỗ trợ cho những nhóm người có chung
vấn đề, chung mục đích và các đặc điểm tương đồng khác
như: độ tuổi, giới tính...
CTXH nhóm với TEMC là quá trình nhân viên xã hội
sử dụng phương pháp CTXH nhóm tác động đến nhóm
đối tượng là TEMC. Thông qua tiến trình trợ giúp mà
trong đó các thành viên nhóm là TEMC (có đặc điểm,
vấn đề và nhu cầu giống nhau) được tạo cơ hội và môi
trường có hoạt động tương tác lẫn nhau, chia sẻ những
mối quan tâm hay những vấn đề chung, tham gia vào các
hoạt động nhóm và hướng đến giúp đỡ nhóm và từng cá
nhân tăng cường khả năng tự giải quyết vấn đề nhằm thỏa
mãn nhu cầu”.
CTXH nhóm đối với TEMC là một quá trình mà
nhân viên xã hội vận dụng các kiến thức chuyên môn, kĩ
năng nghề nghiệp cùng với thái độ tích cực và kinh
nghiệm làm việc vào hoạt động can thiệp, hỗ trợ cho một
nhóm TEMC (có chung vấn đề, có những đặc điểm
tương đồng và có nhu cầu cần được trợ giúp) thông qua
các vai trò như điều phối, kết nối, tham vấn,... và tạo một
bầu không khí làm việc nhóm cởi mở, giúp các thành
viên trong nhóm tương tác, chia sẻ những khó khăn và
cùng nhau lên kế hoạch tháo gỡ.
2.1.3. Khái niệm giáo dục kĩ năng sống
Giáo dục kĩ năng sống là một quá trình với những
hoạt động giáo dục cụ thể nhằm tổ chức, điều khiển để
biết cách chuyển dịch kiến thức và thái độ, giá trị thành
hành động thực tế một cách tích cực và mang tính chất
xây dựng [4; tr 22].
Giáo dục kĩ năng sống chính là quá trình tổ chức các
hoạt động, cung cấp các kiến thức, kĩ năng giúp đối
tượng tham gia có thể xây dựng được những hành vi, kĩ
năng, thái độ tích cực và vận dụng vào trong cuộc sống.
2.2. Ứng dụng phương pháp can thiệp công tác xã hội
nhóm đối với nhóm trẻ em mồ tại Làng trẻ em SOS
Hà Nội
2.2.1. Vài nét về nhóm can thiệp tại Làng trẻ em SOS
Hà Nội
Nhóm gồm 7 thành viên (từ 14-16 tuổi, gồm 3 nam
và 4 nữ). Các thành viên trong nhóm đều có chung vấn
đề hạn chế về kĩ năng sống, luôn mặc cảm, tự ti, nhút
nhát và đều là TEMC đang sống tại Làng trẻ em SOS Hà
Nội. Các em gặp khó khăn trong việc xác định được điểm
mạnh, năng lực của bản thân; không xác định được giá
trị bản thân, không có kĩ năng ra quyết định cũng như các
kĩ năng liên quan tới xác định vấn đề, xác định mục tiêu
trong cuộc sống. Bên cạnh đó, một số thành viên trong
nhóm luôn tỏ ra khó bảo và khó tuân theo kỉ luật của
Làng trẻ.
2.2.2. Mục tiêu can thiệp:
- Giúp trẻ xác định giá trị bản thân (khám phá điểm
mạnh, điểm hạn chế của mình) trong thời gian 10 tuần.
- Giúp các em xác định được vấn đề, mục tiêu và có
được những kĩ năng giao tiếp mới, tự tin, hòa đồng với
các bạn; mạnh dạn tham gia các hoạt động trong học tập
và ngoại khóa sau thời gian 10 tuần.
2.2.3. Thời gian, địa điểm và kế hoạch can thiệp:
- Thời gian thực hiện tiến trình CTXH nhóm từ ngày
5/01/2017 tới ngày 27/7/2017. Thời gian thực hiện 1
buổi/1 tuần vào các buổi tối thứ 6 hàng tuần. Tuy nhiên,
ngoài thời gian cố định đó, nhóm có thể có các buổi hoạt
động vào các ngày khác trong tuần, tùy vào lịch học của
các thành viên trong nhóm.
- Địa điểm là tại sân và phòng hoạt động chung của
Làng trẻ em SOS.
- Kế hoạch can thiệp được thực hiện theo 3 mục tiêu
ở trên.
2.2.4. Hoạt động can thiệp
Qua quá trình khảo sát, tìm hiểu và lập kế hoạch can
thiệp. Chúng tôi đã ứng dụng tiến trình can thiệp CTXH
nhóm với TEMC cho nhóm trẻ từ 14-16 tuổi tại Làng trẻ
em SOS Hà Nội.
2.2.4.1. Giai đoạn chuẩn bị và thành lập nhóm:
- Tuyển chọn thành viên nhóm: Nhóm của chúng tôi
gồm 7 thành viên, đa số các em là những trẻ nhút nhát,
tự ti, ngại giao tiếp, hạn chế trong kĩ năng sống, hay khép
mình.
- Thông tin về các thành viên trong nhóm:
STT Họ và tên Thông tin cá nhân
1 N.T.Lu Tuổi: 15; Giới tính: Nữ
2 N.V.Li Tuổi: 14; Giới tính: Nam
3 N.S.Q Tuổi: 14; Giới tính: Nam
4 Đ.T.M Tuổi: 16; Giới tính: Nữ
5 T.G.B Tuổi: 15; Giới tính: Nam
6 T.L.P Tuổi: 16; Giới tính: Nữ
7 C.D.L Tuổi: 16; Giới tính: Nữ
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 122-126
124
- Những điểm mạnh và hạn chế của nhóm:
Điểm mạnh Hạn chế
- Các thành viên trong
nhóm có độ tuổi tương
đồng, nên dễ dàng tổ
chức các hoạt động.
- Bên cạnh việc giúp
trẻ giảm mặc cảm tự ti,
kĩ năng sống,... nhóm
luôn đan xen các hoạt
động giải trí. Chính
điều đó là động lực
giúp cho các thành
viên trong nhóm tích
cực tham gia.
- Các thành viên trong
nhóm cùng độ tuổi
nên trong quá trình
trao đổi, chia sẻ sẽ dễ
dàng thấu hiểu với
nhau hơn.
- Các thành viên trong
nhóm chủ động tham
gia chứ không phải ép
buộc.
- Các thành viên trong nhóm
đang trong giai đoạn dậy thì,
tâm - sinh lí chưa được ổn
định, các em dễ nổi nóng,
cáu gắt và thích thể hiện cái
tôi, khó chấp nhận quan
điểm của người khác.
- Vì cái tôi cao nên trong quá
trình sinh hoạt nhóm có thể
có nhiều mâu thuẫn liên
quan tới những bất đồng về
quan điểm.
- Các em đang trong độ tuổi
khám phá những cái mới
nên việc tập trung vào các
hoạt động sẽ không được
như ý muốn vì tính hiếu
động.
- Hoạt động nhóm sẽ có
những quy tắc riêng và việc
thực hiện những quy tắc đó
gặp khó khăn do độ tuổi này
không thích bị gò bó vào
khuôn khổ.
- Đánh giá hiệu quả quá trình can thiệp CTXH nhóm:
Kết thúc mỗi buổi làm việc nhóm cũng như kết thúc một
mục tiêu, nhân viên xã hội hướng dẫn các thành viên
trong nhóm tự đánh giá sự hài lòng với các hoạt động
thông qua hình thức gắn hình vào bảng. Nếu hài lòng, các
em gắn hình sao, nếu chưa hài lòng thì gắn hình tròn và
cảm thấy bình thường thì gắn cả hai hình lên bảng.
Hứng thú
(hài lòng)
Không
hứng thú
(không
hài lòng)
Bình thường
2.2.4.2. Giai đoạn thực hiện
Thực hiện mục tiêu 1: Giúp trẻ xác định giá trị bản
thân thông qua hoạt động khám phá điểm mạnh bằng
cửa sổ Johari trong thời gian 10 tuần.
- Hoạt động 1: Vận dụng cửa sổ Johari nhằm giúp
các thành viên khám phá ra điểm mạnh của bản thân
(trong 5 buổi).
Với hoạt động này, chúng tôi đã sử dụng 7 tờ giấy A0
cho 7 thành viên trong nhóm. Các thành viên viết tên của
mình lên cửa sổ và phác họa các ô trong của sổ Johari
theo sự hướng dẫn của nhân viên xã hội. Mỗi thành viên
viết lên ô “Mở” những điểm mạnh của bản thân mà người
khác không biết và chia sẻ những điểm mạnh của bản
thân cho những người bạn xung quanh chưa biết về mình
ở ô “Ẩn”. Tiếp theo, các thành viên hoán đổi tờ giấy A0
cho nhau để các thành viên trong nhóm cùng ghi những
điểm mạnh của bạn lên cửa sổ ô “Mù”, nơi mà người
khác biết được những điểm mạnh của bạn, nhưng bạn
chưa khám phá ra. Và cứ thế lần lượt thực hiện tất cả các
ô với từng thành viên trong nhóm.
Kết thúc hoạt động 1, các thành viên trong nhóm
cùng treo kết quả lên tường và thảo luận, chia sẻ về
những kết quả cũng như giải mã một số khía cạnh trẻ
chưa rõ.
Cửa sổ của em Đ.T.M đã thể hiện rõ những điểm
mạnh do em tự khám phá và do các thành viên trong
nhóm khám phá ra: - M có khả năng hát hay; - M có nụ
cười duyên; - M học biết vẽ.
Trong khi đó, bạn N.S.Q cũng đã khám phá ra điểm
mạnh của bản thân và được các bạn khác trong nhóm chỉ
ra các điểm mạnh như: - Q đá bóng giỏi; - Q nói to; - Q
học được môn thể dục; - Q biết kể chuyện cười.
Sau cùng là tổng hợp, đánh giá của cả nhóm về những
điểm mạnh, hạn chế của các thành viên trong nhóm.
- Hoạt động 2: Tổ chức cuộc thi khám phá tài năng
giúp trẻ xác định điểm mạnh của bản thân (5 buổi).
Mỗi thành viên chuẩn bị một phần thi có thể là: hát,
múa, vẽ tranh, đọc thơ, kể chuyện, làm MC,... để thể hiện
điểm mạnh của mình. Mỗi thành viên có thời gian 5-10
phút để thực hiện phần thi. Kết thúc mỗi phần thi, các
thành viên tự cho điểm và cho điểm chéo bằng hình thức
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 122-126
125
dán sao vào tên của thành viên đó trên bảng. Thành viên
nào được nhiều sao nhất sẽ là người chiến thắng.
Kết thúc phần thi, đa số các thành viên trong nhóm
đều đã thể hiện được một tài năng riêng của mình và tài
năng đó chính là điểm mạnh của các em. Tuy các phần
thể hiện tài năng chưa thực sự được tự nhiên và xuất sắc
nhưng nó đã phần nào thể hiện sự nỗ lực, cố gắng của các
thành viên.
Thành viên chiến thắng trong phần thi này là em
N.T.Lu với phần thi múa dân gian. Trong phần thi này,
em đã múa bài Em dắt trâu ra đồng trong thời gian gần
4 phút. Phần thể hiện tài năng của em Lu đã được các bạn
trong nhóm rất thích thú với số điểm cao nhất là 7 sao.
Lượng giá mục tiêu 1:
STT Kết quả mong đợi Kết quả đạt được
1
Các em khám phá
được điểm mạnh của
bản thân.
Tất cả các thành viên
trong nhóm nhận ra
được điểm mạnh của
bản thân.
2
Các thành viên tham
gia nhiệt tình vào
phần thi “Khám phá
tài năng”.
Tất cả các thành viên
tham gia nhiệt tình
vào phần thi “Khám
phá tài năng” và có
những kết quả rất tốt.
Thực hiện mục tiêu 2: Giúp các em xác định được
vấn đề, mục tiêu và có được những kĩ năng giao tiếp mới,
tự tin, hòa đồng với các bạn; mạnh dạn tham gia các hoạt
động trong học tập và ngoại khóa sau thời gian 10 tuần.
Trong mục tiêu này, nhóm thực hiện một số hoạt
động như:
- Hoạt động 1: Tổ chức trò chơi “Khám phá khó
khăn” (4 buổi).
Thứ nhất, Các thành viên nghe theo sự điều phối của
nhóm trưởng và nhân viên xã hội. Mỗi thành viên tham
gia trò chơi sẽ có 1 tờ giấy màu được cắt thành các hình
thù ngộ nghĩnh, đáng yêu.
Thứ hai, nhóm tiến hành thảo luận về một số khía
cạnh: - Vấn đề là gì?; - Khi nào xuất hiện vấn đề?; - Vấn
đề có tác động như thế nào tới chúng ta?; - Khi gặp phải
một vấn đề khó khăn chúng ta cần phải làm gì?...
Thứ ba, các thành viên trong nhóm đã có những buổi
thảo luận và chia sẻ về những tình huống có thật trong
cuộc sống và cách giải quyết với những khó khăn đó,
cũng như những kinh nghiệm khi giải quyết được các
khó khăn.
Em T.L.P đã chia sẻ về một tình huống có thật trong
cuộc sống mà em gặp phải và cách em giải quyết tình
huống đó: Năm ngoái, trong một buổi học, bạn H ngồi
bên cạnh em có mất một cái bút, mà hôm đó em cũng mới
được tặng 1 cái bút giống như của bạn H. Sau khi tìm
khắp nơi không thấy, bạn ấy đổ cho em lấy cắp, em đã
giải thích nhưng bạn không nghe. Sau đó, em đã nhờ bạn
K là bạn thân của em làm chứng cho việc em được tặng
cái bút đó hôm sinh nhật, có bạn ấy chứng kiến. Khi đó,
bạn H mới tin lời em nói và không đổ cho em ăn cắp bút
của bạn ấy nữa.
Thứ tư, mỗi thành viên viết lên giấy một vấn đề khó
khăn trong học tập, và cuộc sống, sau đó dán lên bảng.
Thứ năm, nhóm cùng nhau thảo luận về những khó
khăn của từng thành viên, mỗi người sẽ đưa ra cách giải
quyết cho một vấn đề. Bên cạnh đó, các thành viên cũng
phải đưa ra những tình huống có thể phát sinh và hướng
xử lí.
Thứ sáu, thực hành xác định vấn đề và tìm cách giải
quyết.
- Hoạt động 2: Tổ chức thảo luận nhóm “Xác định 2
mục tiêu cần hoàn thành trong thời gian 1 tháng”
(4 buổi).
Thứ nhất, nhân viên xã hội và các thành viên trong
nhóm thảo luận xem mục tiêu là gì?
Thứ hai, nhân viên xã hội chiếu 2 đoạn video liên
quan tới hoàn thành mục tiêu.
Thứ ba, các thành viên trong nhóm cùng đặt các câu
hỏi, thắc mắc liên quan tới mục tiêu. Nhân viên xã hội
giải thích rõ, mục tiêu là cái đích cuối cùng mà chúng ta
muốn đạt được trong một thời gian nhất định. Mục tiêu
cần phải cụ thể, rõ ràng, khả thi, có thể đo lường được.
Thứ tư, thực hành: mỗi thành viên đưa ra 1 mục tiêu,
sau đó cả nhóm cùng bàn luận về các mục tiêu đó, phân
tích các mục tiêu tốt và mục tiêu cần chỉnh sửa.
Trong phần thực hành, em Đ.T.M đã đề ra các mục
tiêu sau: 1) Em phấn đấu môn Văn được 7,5; 2) Em phấn
đấu ăn kiêng giảm 1 kg.
Với 2 mục tiêu trên, nhóm đã khen ngợi và đóng góp
ý kiến để mục tiêu của M được chuẩn hơn như sau:
1) Kết thúc học kì này em phấn đấu môn Văn được 7,5;
2) Trong vòng 1 tháng em phấn đấu ăn kiêng giảm 1 kg.
Cuối cùng, mỗi thành viên đưa ra 2 mục tiêu và thực
hiện các mục tiêu đó trong vòng 1 tháng. Kết thúc 1
tháng, các thành viên báo cáo kết quả thực hiện 2 mục
tiêu trên. Sau 1 tháng, các thành viên trong nhóm báo
cáo kết quả thực hiện những mục tiêu đã đề ra. Đa số các
thành viên đã thực hiện tốt những mục tiêu này. Tuy
nhiên, vẫn còn 3 thành viên chưa hoàn thành đủ 2
mục tiêu.
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 122-126
126
- Hoạt động 3: Tổ chức các buổi thảo luận nhóm giúp
các thành viên chia sẻ những khó khăn trong quá trình
giao tiếp (2 buổi).
Thứ nhất, trong hoạt động này, nhân viên xã hội chiếu
bộ phim hoạt hình “Bài học giao tiếp quà tặng cuộc
sống: Câu hỏi quan trọng nhất”. Sau khi kết thúc bộ
phim, thành viên trong nhóm cùng nhau thảo luận về các
nhân vật và phân tích tình huống trong bộ phim để nhận
ra được yêu cầu của quá trình giao tiếp cũng như mấu
chốt cho sự thành công trong các buổi giao tiếp.
Thứ hai, các thành viên trong nhóm cùng nhau thảo
luận và xử lí một tình huống giao tiếp liên quan tới những
vấn đề trong học đường do nhân viên xã hội đưa ra. Các
thành viên sắm vai và xử lí tình huống đó trong vòng 7-
10 phút. Kết thúc phần xử lí, các em đã biết ứng dụng
những nguyên tắc cơ bản trong giao tiếp vào trong quá
trình xử lí tình huống. Điều đó thể hiện được phần nào
sự nỗ lực và cố gắng của các em.
Thứ ba, tổ chức trò chơi đan xem trong các buổi liên
quan tới xử lí tình huống giao tiếp. Trong đó, tiêu biểu là
trò chơi “Truyền tai nhau về một câu nói: Lúa nếp là lúa
nếp làng, lúa lên lơm lớp cả làng thêm no”. Kết thúc
phần thi, các thành viên cuối cùng viết lại câu nói đó lên
bảng nhưng không được chính xác vì sai một từ
“nơm nớp”.
Thông qua trò chơi, các thành viên được rèn luyện kĩ
năng lắng nghe, biết cách lắng nghe hiệu quả và tăng
thêm sự đoàn kết, gắn kết và hợp tác.
Lượng giá mục tiêu 2:
STT Kết quả mong đợi Kết quả đạt được
1
Các em biết cách xác
định, phân tích, đối
diện với vấn đề.
Tất cả các em biết
cách xác định, phân
tích, đối diện với vấn
đề.
2
Các em biết cách xác
định, mục tiêu.
Tất cả các thành viên
đã hiểu mục tiêu là gì,
biết cách xây dựng và
thực hiện mục tiêu.
3
Các em rèn luyện
được kĩ năng giao
tiếp.
Tất cả các thành viên
mạnh dạn, tự tin
trong giao tiếp.
2.2.5. Lượng giá
Trải qua thời gian 10 tuần với những hoạt động, mục
tiêu khác nhau, tuy ban đầu các thành viên còn e dè, chưa
tham gia nhiệt tình trong những buổi chia sẻ, giới thiệu
về bản thân nhưng vào những buổi sau, các em đã mạnh
dạn chia sẻ cũng như hợp tác cùng nhau thực hiện nhiệm
vụ chung của nhóm.
Sau khi kết thúc quá trình can thiệp cho nhóm TEMC
tại Làng trẻ em SOS Hà Nội, chúng tôi nhận thấy nhóm
đã hoàn thành đúng các mục tiêu và kế hoạch ban đầu và
đạt được những kết quả như mong muốn.
2.2.6. Đánh giá kết quả
Những kết quả đạt được sau quá trình can thiệp cho
nhóm TEMC thể hiện cụ thể như sau: - Các em đã biết
làm việc nhóm, biết chia sẻ và hợp tác; - Biết khám phá
ra những điểm mạnh, hạn chế c