Ứng dụng phương pháp kích thích thần kinh cơ trong phẫu thuật thoát vị tủy màng tủy trầ

Bệnh lý thoát vị tủy màng tủy (TVTMT) là một dị tật bẩm sinh phức tạp, nếu được điều trị phẫu thuật kịp thời sẽ tránh được những hậu quả nặng nề cho bệnh nhân, gia đình và xã hội. Việc ứng dụng phương pháp kích thích điện thần kinh cơ tại khoa phẫu thuật thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy đã tạo nhiều thuận lợi trong phẫu thuật bóc tách khối thoát vị và hạn chế tối đa tổn thương rễ thần kinh cho bệnh nhân. Mục tiêu: Xác định triệu chứng lâm sàng của nhóm bệnh lý thoát vị tủy màng tủy và kết quả điều trị. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, tổng cộng có 32 bệnh nhân TVTMT được điều trị bằng phương pháp phẫu thuật cắt vá thoát vị dưới kính vi phẫu kết hợp với phương pháp kích thích thần kinh cơ, trong khoảng thời gian từ tháng 04/2009 đến tháng 07/2010 tại bệnh viện Chợ Rẫy. Kết quả: Trong 32 bệnh nhân nghiên cứu, đa số vị trí thoát vị là đoạn cùng cụt. Các biểu hiện ở da chủ yếu là dát sắc tố, rối loạn cảm giác và vận động phân bố phần lớn theo rễ L4L5(37.5–50%), triệu chứng cơ vòng chiếm 34.4%.Triệu chứng cảm giác và vận động sau phẫu thuật 6 tháng cho kết quả không thay đổi 81,3%, tốt hơn 15,6%, xấu hơn 3,1%. Triệu chứng cơ vòng sau phẫu thuật 6 tháng cho kết quả không thay đổi 78,1%, tốt hơn 8,8%, xấu hơn 3,1%. Kết quả nghiên cứu cho thấy phẫu thuật giúp cải thiện chức năng cho trẻ có triệu chứng lâm sàng theo thang điểm Necker, và không làm xấu đi đối với trẻ không có triệu chứng. Kết luận: Vi phẫu thuật kết hợp phương pháp kích thích điện thần kinh cơ tạo điều kiện dễ dàng để bóc tách khối thoát vị và hạn chế tổn thương rễ thần kinh

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng phương pháp kích thích thần kinh cơ trong phẫu thuật thoát vị tủy màng tủy trầ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 247 ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP KÍCH THÍCH THẦN KINH CƠ TRONG PHẪU THUẬT THOÁT VỊ TỦY MÀNG TỦY Trần Quang Vinh* TÓM TẮT Bệnh lý thoát vị tủy màng tủy (TVTMT) là một dị tật bẩm sinh phức tạp, nếu được điều trị phẫu thuật kịp thời sẽ tránh được những hậu quả nặng nề cho bệnh nhân, gia đình và xã hội. Việc ứng dụng phương pháp kích thích điện thần kinh cơ tại khoa phẫu thuật thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy đã tạo nhiều thuận lợi trong phẫu thuật bóc tách khối thoát vị và hạn chế tối đa tổn thương rễ thần kinh cho bệnh nhân. Mục tiêu: Xác định triệu chứng lâm sàng của nhóm bệnh lý thoát vị tủy màng tủy và kết quả điều trị. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, tổng cộng có 32 bệnh nhân TVTMT được điều trị bằng phương pháp phẫu thuật cắt vá thoát vị dưới kính vi phẫu kết hợp với phương pháp kích thích thần kinh cơ, trong khoảng thời gian từ tháng 04/2009 đến tháng 07/2010 tại bệnh viện Chợ Rẫy. Kết quả: Trong 32 bệnh nhân nghiên cứu, đa số vị trí thoát vị là đoạn cùng cụt. Các biểu hiện ở da chủ yếu là dát sắc tố, rối loạn cảm giác và vận động phân bố phần lớn theo rễ L4L5(37.5–50%), triệu chứng cơ vòng chiếm 34.4%.Triệu chứng cảm giác và vận động sau phẫu thuật 6 tháng cho kết quả không thay đổi 81,3%, tốt hơn 15,6%, xấu hơn 3,1%. Triệu chứng cơ vòng sau phẫu thuật 6 tháng cho kết quả không thay đổi 78,1%, tốt hơn 8,8%, xấu hơn 3,1%. Kết quả nghiên cứu cho thấy phẫu thuật giúp cải thiện chức năng cho trẻ có triệu chứng lâm sàng theo thang điểm Necker, và không làm xấu đi đối với trẻ không có triệu chứng. Kết luận: Vi phẫu thuật kết hợp phương pháp kích thích điện thần kinh cơ tạo điều kiện dễ dàng để bóc tách khối thoát vị và hạn chế tổn thương rễ thần kinh. Từ khóa: Thoát vị màng tủy, thoát vị tủy màng tủy. ABSTRACT APPLICATION OF NEUROMUSCULAR STIMULATION IN MYELOMENINGOCELE SURGERY Tran Quang Vinh* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 247 - 252 Background: Myelomeningocele is a complicated congenital defect, if it is intervened in time by surgery, many severe consequences for the patients, their families and society can be avoided. The application of neuromuscular stimulation in Neurosurgical deparment at Cho Ray hospital has created more favorable results in surgical dissection and minimized nerve root injury. Objective: Identification the clinical symptoms of myelomeningocele and treatment outcomes. Methods: Descriptive, cross sectional study of 32 myelomeningocele patients treated surgically using surgical microscope and neuromuscular stimulation, at Cho Ray hospital, from April 2009 to July 2010. Results: 32 patients with myelomeningocele, most of the meningoceles located at the sacral and the coccygeal area. The pigmentation stigmata were commonly seen, sensory and motor disturbances distributed at L4, L5 roots in majority of cases (37.5-50%), sphincter symptoms accounted for 34.4%. At 6 month post-op follow up, for sensory and motor disturbances:unchanged 81.3%, better 15.6%, worse 3.1%; for sphinter problems: unchanged 78.1%, better 8.8%, worse 3.1%. This research showed improvement of functions in children with clinical * Khoa Hồi Sức Ngoại Thần Kinh BV Chợ Rẫy, Tác giả liên lạc: TS.BS.Trần Quang Vinh ĐT: 0903712998, Email: vinhcrhospital@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 248 symptoms (Necker scale), and showed no worsening in children without symptoms. Conclusion: The combination of microsurgery and neuromuscular stimulation had a great benefit in doing dissecting the herniated sac - elements and minimizing the nerve root injury. Key words: myelomeningocele, meningoceles ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh lý thoát vị tủy màng tủy được biết đến rất lâu từ những năm đầu thế kỷ 16. Cho đến ngày nay, với những tiến bộ của ngành y học, nhóm bệnh lý này được hiểu biết rõ ràng hơn về cơ chế bệnh sinh liên quan đến quá trình phát triển của phôi thai, với những phương tiện cận lâm sàng chẩn đoán xác định và phương pháp điều trị tối ưu(3). TVTMT là nhóm bệnh phức tạp liên quan đến nhiều chuyên khoa khác nhau, nếu không phẫu thuật thì hơn 70% trẻ bị rối loạn cơ vòng, khiếm khuyết thần kinh, các dị tật về cột sống để lại di chứng nặng nề cho bệnh nhân và ảnh hưởng to lớn đến gia đình và xã hội. Việc áp dụng điện thế gợi cảm giác, vận động góp phần nâng cao hiệu quả điều trị bệnh lý này. Trong điều kiện thực tế của nước ta hiện nay chưa có điện thế gợi trong phẫu thuật, chúng tôi ứng dụng phương pháp kích thích thần kinh cơ để xác định rễ vận động ngoại biên thông qua sự đáp ứng co cơ do thần kinh chi phối tương ứng. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu đánh giá phương pháp này với các mục tiêu sau: - Mô tả triệu chứng lâm sàng của nhóm bệnh lý TVTMT. - Đánh giá kết quả phẫu thuật TVTMT có ứng dụng phương pháp kích thích điện thần kinh cơ ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tất cả các bệnh nhân ở lứa tuổi nhũ nhi và trẻ em dưới 15 tuổi được chẩn đoán thoát vị tủy màng tủy nhập viện Chợ Rẫy từ tháng 04/2009 đến tháng 07/2010. Tiêu chuẩn chọn bệnh Tất cả các bệnh nhân nhập viện Chợ Rẫy với chẩn đoán TVTMT. Tuổi dưới 15 tuổi. Tiêu chuẩn loại trừ Tất cả những bệnh nhân được chẩn đoán TVTMT khi còn trong bụng mẹ. Bệnh nhân trên 15 tuổi. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu tiền cứu cắt ngang mô tả hàng loạt ca có can thiệp phẫu thuật. Phương pháp thu thập số liệu Tất cả bệnh nhân đều được khám và mô tả các triệu chứng ở giai đoạn phát hiện bệnh theo một phương pháp khám thống nhất, theo một biểu mẫu thống nhất. Xử lý số liệu bằng SPSS 11.5 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN Trong quá trình nghiên cứu từ tháng 04/2009 đến 07/2010, chúng tôi đã thu thập tổng cộng 32 trường hợp TVTMT được chẩn đoán và điều trị bằng phương pháp phẫu thuật cắt vá thoát vị dưới kính vi phẫu kết hợp với phương pháp kích thích thần kinh cơ. Đặc điểm dịch tễ học của dân số nghiên cứu Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu Bảng 1. Phân bố theo giới tính Giới Tần số Tỉ lệ% Nam 12 37.5% Nữ 20 62.5% Tổng số 32 100% Trong dân số nghiên cứu của chúng tôi, tuổi nhỏ nhất là 1 ngày tuổi, lớn nhất là 112 tháng tuổi, phổ biến nhất là nhóm tuổi 12-24 tháng chiếm 31,2%, tỉ lệ nam/nữ là 12/20. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của tác giả Phạm Hồng Huân 2007(4), CDC 1992(1), Vivek JO 2008(6). Lý do nhập viện Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 249 Hầu hết gia đình đều tự đưa bệnh nhi đến viện khám vì u ở cùng thắt lưng cùng, có 3 trường hợp khối thoát vị vỡ người nhà mới đưa bé vào viện. Số còn lại là những u mỡ không triệu chứng sau đó khối này lớn dần theo sự phát triển của bé và có những trường hợp bắt đầu biểu hiện rối loạn tiêu tiểu, yếu liệt 2 chân nên cho bé di khám bệnh và được chuyển đến khoa Ngoại thần kinh, một vấn đề cần nêu là một số nhân viên y tế không hiểu rõ về bệnh lý TVTMT này giải thích không đúng cho người nhà, từ đó người nhà vẫn nghĩ đơn giản rằng đó là khối u mỡ, phẫu thuật cũng đơn giản => gia đình đưa bé đến viện trễ và lúc này triệu chứng cũng biểu hiện nặng. Do đó việc giải thích với người nhà hiểu về bệnh lý TVTMT là hết sức quan trọng. Chỉ một trường hợp nhập viện vì khối thoát vị ở đoạn cột sống ngực, tuy nhiên bệnh nhi này có rối loạn cơ vòng và triệu chứng về cảm giác, vận động. Phần còn lại là các bệnh nhi đều nhập viện vì yếu chân và rối loạn cơ vòng. Bảng 2. Lý do nhập viện Lý do nhập viện Tần số Tỉ lệ% U vùng thắt lưng cùng 16 50% U vùng ngực 1 3.1% Yếu chân 5 15.6% Rối loạn cơ vòng 6 18.8% Rối loạn cơ vòng và yếu chân 1 3.1% Vỡ thoát vị 3 9.4% Vị trí khối thoát vị Trong nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận được những vị trí thoát vị sau: Bảng 3. Vị trí khối thoát vị Vị trí thoát vị Tần số Tỉ lệ% Đoạn ngực 1 3.1% Đoạn thắt lưng 3 9.4% Đoạn cùng cụt 28 87.5% Kết quả này cũng phù hợp với công trình nghiên cứu 74 bệnh nhân bị dị tật cột sống chẻ đôi từ 01/1980 - 12/1996 thuộc đại học y khoa Izmir Thổ Nhĩ Kỳ(2), họ đã ghi nhận như sau: không có trường hợp nào xảy ra ở vị trí cổ, mức tổn thương cao nhất là ngực T3, và thấp nhất là S2, và vị trí thường gặp nhất là vùng cột sống lưng. Theo công trình nghiên cứu của chúng tôi thì thấy có sự tương đồng, chỉ một trường hợp khối thoát vị có vị trí ở ngực T8, không có ca nào khối thoát vị ở cổ, nhiều nhất lại thuộc vị trí xương cùng chiếm đến 28/32 ca. Thoát vị tại vị trí cột sống cổ rất hiếm, hầu hết thai nhi đều chết trong bụng mẹ hoặc bị chấm dứt thai kỳ. Điều này giải thích được phần nào về việc khối thoát vị không hiện ở đoạn cột sống cổ trong lô nghiên cứu của chúng tôi và nghiên cứu tham khảo, cũng như chỉ ra được hai vị trí của khối thoát vị thường gặp là đoạn lưng và cùng cụt. Các biểu hiện ở da Bệnh lý TVTMT có biểu hiện lâm sàng đa dạng, và một trong những yếu tố góp phần cho sự đa dạng đó là những biểu hiện ở da. Bảng 4. Các biểu hiện ở da Biểu hiện da Tần số Tỉ lệ% Nang dịch 3 9.4% Rậm lông 1 3.1% Dát sắc tố 13 40.6% Lõm đồng tiền 4 12.5% U mạch máu 1 3.1% Nhiều dấu hiệu 10 31.3% Những biểu hiện ở da rất quan trọng và đặc hiệu, trong nghiên cứu của chúng tôi thì tất cả 32 trường hợp bệnh nhi đều có biểu hiện ở da, từ đơn giản là một khối u mỡ dưới da đến những trường hợp có nhiếu dấu hiệu phối hợp. Dát sắc tố lại là dấu hiệu thường gặp nhất chiếm 40,6% tổng số ca, phối hợp nhiều dấu hiệu da chiếm đến 31,3%. Qua đây chúng tôi nhận thấy nhờ các dấu hiệu đơn giản ở da mà việc thăm khám cũng không phải là khó, đã giúp ích rất nhiều cho chúng tôi trong việc phát hiện những dị tật gai sống chẻ đôi ẩn, và tỉ lệ này chúng tôi thống kê được là 5/32 trường hợp nghiên cứu. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 250 Hình 1. Các biểu hiện ở da trong TVTMT Triệu chứng cảm giác và vận động trước phẫu thuật Sau khi khám lâm sàng chúng tôi thu thập những số liệu như sau: - Có triệu chứng cảm giác: 6 ca. - Không có triệu chứng cảm giác: 26 ca. - Có triệu chứng vận động: 8 ca. - Không triệu chứng vận động: 24 ca. Vị trí tổn thương rễ vận động L1, L2, L3 chiếm 25%, và nhiều nhất lại là rễ L4 L5 chiếm đến 37,5%. Vị trí vùng rễ cảm giác bị ảnh hưởng cũng nhiều nhất ở L4, L5 chiếm đến 50%, và L1, L2, L3 là 16,7%. Từ những số liệu nghiên cứu tham khảo và số liệu của đề tài này, chúng tôi ghi nhận như sau: không phải vị trí thoát vị thuộc đoạn cột sống nào là rễ tương ứng bị ảnh hưởng và không phải tổn thương rễ vận động nào thì rễ cảm giác cũng bị ảnh hưởng mà nó độc lập nhau => cần phải khám lâm sàng thật cẩn thận và kỹ lưỡng cả vận động và cảm giác. Trong lô nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận được những bệnh nhi chỉ đơn thuần biểu hiện triệu chứng cảm giác mà không hề yếu chi. Chúng tôi có ghi nhận như vậy một phần vì sự khác biệt khách quan về số liệu nghiên cứu giữa rễ vận động và cảm giác. Mặt khác quan trọng hơn, theo cơ chế bệnh sinh thì trong ống sống hai rễ vận động và cảm giác còn tách rời nhau, vì vậy nếu giả sử khối mỡ thoát vị dính với rễ thần kinh nào thì rễ ấy bị ảnh hưởng. Triệu chứng cơ vòng trước phẫu thuật Trong đa số các bệnh nhi TVTMT có biểu hiện bàng quang thần kinh, rất khó khăn khi tìm rối loạn chức năng bàng quang ở trẻ mới sanh, chỉ có thể dựa vào sự quan sát bài tiết nước tiểu tự nhiên và không phải là dấu hiệu đáng tin cậy, trương lực cơ và sự co thắt cơ hậu môn cũng không phải là dấu hiệu tin cậy của cảm giác vùng đáy chậu. Như vậy việc đánh giá rối loạn cơ vòng nên được theo dõi theo từng cụm thời gian khi trẻ phát triển. Và điều đáng chú ý ở đây là phần lớn trẻ nhập viện tập trung ở lứa tuổi trung bình là 21 tháng => việc đánh giá rối loạn cơ vòng là tương đối dễ dàng. Qua thăm khám lâm sàng và lý do nhập viện của trẻ chúng tôi ghi nhận được những số liệu như sau: - Có rối loạn cơ vòng: 11ca. - Không rối loạn cơ vòng: 21 ca. Trong những ca rối loạn cơ vòng, thì chỉ 2 bệnh nhi chỉ đơn thuần là rối loạn đi tiểu (18,2%) còn lại 9 bé bị rối loạn tiêu tiểu (81,8%). Theo tài liệu nghiên cứu trong nước của tác giả Phạm Hồng Huân (4), trên 51 trường hợp TVTMT thì có đến 49 ca là có rối loạn cơ vòng, điều này minh chứng rằng triệu chứng cơ vòng là thường gặp trong loại bệnh lý này. Tóm lại rối loạn cơ vòng là một triệu chứng thường gặp trong bệnh lý TVTMT, gây ảnh hưởng rất nhiều cho bản thân của bệnh nhi và gia đình, mặc khác những di chứng về sau cũng thật sự nặng nề => cần đánh giá lâm sàng thật cẩn thận, can thiệp phẫu thuật kịp thời ngay khi có chẩn đoán. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 251 Kết quả điều trị TVTMT Thời gian phẫu thuật Ngắn nhất: 45 phút. Dài nhất: 180 phút. Thời gian phẫu thuật ngắn nhất gặp trong phẫu thuật thoát vị màng tủy đơn thuần và nhỏ, chỉ cần bộc lộ cổ thoát vị, bóc tách và may cổ túi lại, kích thước cổ túi là chỉ 3 mm, chỉ cần hai đường khâu. Thời gian phẫu thuật dài nhất gặp trong phẫu thuật lipomyelomeningocele, u mỡ phức tạp từ ngoài chui vào lòng ống sống, dính quá nhiều dây thần kinh, việc bóc tách và kích thích các rễ vận động phải được tiến hành nhiều lần, tiêu hao khá nhiều thời gian. Thời gian hậu phẫu Ngắn nhất: 6 ngày. Dài nhất: 24 ngày. Thời gian hậu phẫu ngắn nhất trong phẫu thuật thoát vị màng tủy đơn thuần và nhỏ. Bé không có biến chứng sau phẫu thuật, vết phẫu thuật lành tốt. Thời gian hậu phẫu dài nhất gặp trong những trường hợp nhiễm trùng vết phẫu thuật, lý do là do bé bị rỉ nước tiểu và phân vào vết phẫu thuật, những ca theo dõi ban đầu hay có nhiễm trùng do chưa hướng dẫn người nhà kỹ càng về chăm sóc cho bé. Tai biến trong lúc phẫu thuật và biến chứng Trong nghiên cứu này không có trường hợp nào mất máu nhiều trong lúc phẫu thuật, phẫu thuật viên bóc tách và bộc lộ từng rễ thần kinh rất tỉ mỉ dưới kính hiển vi kết hợp kích thích từng rễ vận động bằng phương pháp kích thích điện thần kinh, trong lúc đó thì phẫu thuật viên phụ cầm máu bằng bipolar, hạn chế mất máu tối đa. Chưa gặp tai biến đáng kể nào trong lúc phẫu thuật. Không có trường hợp nào tử vong trong phẫu thuật. Qua điều trị phẫu thuật và theo dõi hậu phẫu, chúng tôi ghi nhận những biến chứng như sau: Nhiễm trùng vết phẫu thuật: 1 ca. Đây là trường hợp đã nêu trên, do vết phẫu thuật bị nước tiểu và phân thấm vào làm bung vết phẫu thuật. Sau đó được xử lý đắp gạc betadine, vài ngày sau may lại vết phẫu thuật => tiến triển tốt và lành, không dò dịch não tủy và không viêm màng não. Dò dịch não tủy: 2 ca Đây là hai trường hợp dò dịch não tủy ngay ngày hôm sau phẫu thuật được băng ép nhưng không thành công, và phải phẫu thuật lại 2 ngày sau. Trong lúc phẫu thuật lại chúng tôi ghi nhân được có lỗ dò từ chỗ may màng cứng => cho thấy việc đóng vết phẫu thuật kỹ từng lớp là hết sức cần thiết. Tổn thương rễ L4:1 ca Bảng 5. Biến chứng Biến chứng Tần số Tỉ lệ% Nhiễm trùng vết mổ 1 3,1% Dò dịch não tủy 2 6,2% Tổn thương rễ L4 1 3,1% Triệu chứng cảm giác sau phẫu thuật 6 tháng Chúng tôi đã theo dõi những bệnh nhi trên theo kế hoạch là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng sau phẫu thuật. Đánh giá hiệu quả phẫu thuật thông qua việc khám lâm sàng và chụp lại MRI lúc 6 tháng sau phẫu thuật. Qua quá trình theo dõi 32 bệnh nhi trên, chúng tôi ghi nhận được những dữ kiện về cảm giác như sau: - Không thay đổi: 26 ca. - Tốt hơn: 5 ca. - Xấu hơn: 1 ca. Bảng 6. Cảm giác sau phẫu thuật 6 tháng Cảm giác sau phẫu thuật Tần số Tỉ lệ% Không thay đổi 26 ca 81.3% Tốt hơn 5 ca 15.6% Xấu hơn 1 ca 3.1% Theo dõi vận động sau phẫu thuật 6 tháng Tương tự như cảm giác, chúng tôi cũng đánh giá lâm sàng cho từng bệnh nhi sau 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 252 Sau 6 tháng chúng tôi thu thập được những dữ kiện sau: - Không thay đổi: 26 ca. - Tốt hơn: 5 ca. - Xấu hơn: 1 ca (tổn thương rễ L4). Bảng 7. Vận động sau phẫu thuật 6 tháng Vận động sau phẫu thuật 6 tháng Tần số Tỉ lệ% Không thay đổi 26 ca 81.3% Tốt hơn 5 ca 15.6% Xấu hơn 1 ca 3.1% Theo dõi triệu chứng cơ vòng sau phẫu thuật 6 tháng Việc theo dõi lâm sàng đã được chúng tôi tiến hành tương tự và kết quả như sau: Không thay đổi: 25 ca, tốt hơn: 6 ca, xấu hơn:1ca. Bảng 8. Triệu chứng cơ vòng sau phẫu thuật 6 tháng Triệu chứng cơ vòng sau phẫu thuật 6 tháng Tần số Tỉ lệ% Không thay đổi 25 ca 78.1% Tốt hơn 6 ca 18.8% Xấu hơn. 1 ca 3.1% Bàn luận về phương pháp kích thích điện thần kinh cơ phối hợp vi phẫu thuật Như chúng ta đã biết bệnh lý TVTMT là một bệnh lý phức tạp và việc điều trị phẫu thuật là muôn vàn khó khăn. Vì các rễ TK trong chùm đuôi ngựa ở trẻ em là rất nhỏ, rất khó nhìn thấy và khó phân biệt với các dải sợi xơ => phẫu thuật bằng mắt thường có thể làm tổn thương thần kinh và hậu quả là làm nặng thêm các khiếm khuyết thần kinh, và vi phẫu thuật thần kinh đã phát triển vượt bậc =>việc áp dụng kính hiển vi trong bệnh lý TVTMT đã trở nên phổ biến. Song song với những tiến bộ đó, các phẫu thuật viên còn áp dụng điện thế gợi cảm giác và vận động trong mổ để nhận ra các cấu trúc rễ thần kinh, từ đó ghi lại những biến đổi liên tục từ những thay đổi điện thế cơ thần kinh trên màn hình theo dõi (monitor). Chúng tôi đã tìm hiểu và nhận thấy có thể áp dụng phương pháp kích thích điện thần kinh cơ trong vi phẫu thuật TVTMT để tìm rễ thần kinh vận động ngoại biên thông qua sự đáp ứng co cơ tương ứng, phương pháp này có nguyên lý hoạt động tương tự điện thế gợi vận động. Như vậy tuy không thể toàn vẹn dò được các rễ cảm giác, nhưng việc áp dụng phương pháp kích thích điện thần kinh cơ để tìm dò rễ vận động thông qua việc đáp ứng co cơ cũng là một thành công ban đầu đáng kể. Theo số liệu nghiên cứu của Sabine H (2001)(5) trên 54 bệnh nhi TVTMT từ 6-12 tháng tuổi, thì tỉ lệ tổn thương rễ thần kinh sau phẫu thuật là 2%. Chúng tôi nhận thấy việc tổn thương rễ thần kinh vận động trong mổ trong lô nghiên cứu của chúng tôi là 1/32 trường hợp chiếm tỉ lệ 3,1%, cũng là một tỉ lệ không cao, tỉ lệ này gần tương xứng với các nghiên cứu có sử dụng điện thế gợi trong mổ. Như vậy việc áp dụng phương pháp kích thích điện thần kinh cơ trong vi phẫu thuật là thật sự cần thiết. KẾT LUẬN Sau 2 năm thực hiện đề tài: “Ứng dụng phương pháp kích thích điện thần kinh cơ trong vi phẫu thuật thoát vị tủy màng tủy” tại bệnh viện Chợ Rẫy. Vi phẫu thuật kết hợp phương pháp kích thích điện thần kinh cơ tạo điều kiện để bóc tách khối thoát vị và hạn chế tổn thương rễ thần kinh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. CDC (1992). Spina bifida incidence at birth-United States. MMWR 41: 497. 2. Ersashin Y, Mutler S (1998). Split spinal cord malformations in children. J Neurosurg: 57-65. 3. Greenberg.M.S (2010). Neuro tube defects. In: Greenberg.MS Hanbook of Neurosurgery, 7th edition: 243-253. Thieme, NewYork. 4. Phạm Hồng Huân (2007). Nghiên cứu điều trị thoát vị màng tủy vùng thắt lưng cùng ở trẻ em. Luận văn chuyên khoa 2, Đại học Y Dược TPHCM. 5. Sabin H (2001). Surgical treatment of tethered spinal cord, reports of 54 cases. Journal of neurosurgery vol 95: 173-178. 6. Vivek JO, Andrew M (2008). Epidermiology and Aetiological factors. The spina bifida: management and outcome: 59-67.
Tài liệu liên quan