Mở đầu: Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là một vấn đề y tế cộng đồng quan trọng ở hầu hết các quốc gia vùng nhiệt đới thuộc Châu Á và Châu Mỹ. Tuy nhiên, có thể chẩn đoán sớm bệnh SXHD trong trường hợp chưa có điều kiện sử dụng các xét nghiệm chẩn đoán nhanh như NS1, RT-PCR bằng một số xét nghiệm thường quy như công thức máu (CTM), men gan AST/ALT trong 3 ngày đầu khởi sốt. Mục tiêu: Thiết lập cách chẩn đoán sớm bệnh SXHD trong 3 ngày đầu (72 giờ) sau khi sốt-bằng các xét nghiệm thường quy bao gồm công thức bạch cầu, tiểu cầu và trị số của men gan ALT, AST. Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, mô tả nhiều trường hợp, sử dụng mô hình để phân tích, tạo lưu đồ. Cỡ mẫu: 804.Địa điểm nghiên cứu: BV Bệnh Nhiệt đới. Thời gian từ tháng 12/2010 đến tháng 09/2011. Kết quả: Sự khác biệt có ý nghĩa của các thông số huyết học-bạch cầu, bạch cầu đa nhân trung tính, bạch cầu lymphocyte, tiểu cầu, DTHC và trị số men ALT, AST của nhóm bệnh nhân SXHD và nhóm bệnh nhân sốt không do Dengue trong 3 ngày đầu sau khi khởi sốt. Các thông số cận lâm sàng này, được kết hợp để xây dựng mô hình chẩn đoán sớm bệnh SXHD. Kết luận: Có thể thiết lập một lưu đồ phối hợp giữa các thông số cận lâm sàng thường quy ở thời điểm sớm hơn 72 giờ sau khi sốt, để phân biệt có nhiễm Dengue hay không Dengue, với độ nhạy và độ đặc hiệu khá cao lần lượt là 94% và 61%; giá trị tiên đoán dương 84% và giá trị tiên đoán âm 82%.
8 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của các xét nghiệm thường quy trong chẩn đoán sớm bệnh sốt xuất huyết dengue ở người lớn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 181
VAI TRÒ CỦA CÁC XÉT NGHIỆM THƯỜNG QUY
TRONG CHẨN ĐOÁN SỚM BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE
Ở NGƯỜI LỚN
Nguyễn Thị Mỹ Linh*, Phùng Khánh Lâm**
TÓM TẮT
Mở đầu: Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là một vấn đề y tế cộng đồng quan trọng ở hầu hết các quốc gia
vùng nhiệt đới thuộc Châu Á và Châu Mỹ. Tuy nhiên, có thể chẩn đoán sớm bệnh SXHD trong trường hợp chưa
có điều kiện sử dụng các xét nghiệm chẩn đoán nhanh như NS1, RT-PCR bằng một số xét nghiệm thường quy
như công thức máu (CTM), men gan AST/ALT trong 3 ngày đầu khởi sốt.
Mục tiêu: Thiết lập cách chẩn đoán sớm bệnh SXHD trong 3 ngày đầu (72 giờ) sau khi sốt-bằng các xét
nghiệm thường quy bao gồm công thức bạch cầu, tiểu cầu và trị số của men gan ALT, AST.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, mô tả nhiều trường hợp, sử dụng mô hình để phân tích, tạo lưu đồ. Cỡ
mẫu: 804..Địa điểm nghiên cứu: BV Bệnh Nhiệt đới. Thời gian từ tháng 12/2010 đến tháng 09/2011.
Kết quả: Sự khác biệt có ý nghĩa của các thông số huyết học-bạch cầu, bạch cầu đa nhân trung tính, bạch cầu
lymphocyte, tiểu cầu, DTHC và trị số men ALT, AST của nhóm bệnh nhân SXHD và nhóm bệnh nhân sốt không
do Dengue trong 3 ngày đầu sau khi khởi sốt. Các thông số cận lâm sàng này, được kết hợp để xây dựng mô hình
chẩn đoán sớm bệnh SXHD.
Kết luận: Có thể thiết lập một lưu đồ phối hợp giữa các thông số cận lâm sàng thường quy ở thời điểm sớm
hơn 72 giờ sau khi sốt, để phân biệt có nhiễm Dengue hay không Dengue, với độ nhạy và độ đặc hiệu khá cao lần
lượt là 94% và 61%; giá trị tiên đoán dương 84% và giá trị tiên đoán âm 82%.
Từ khóa: Thông số cận lâm sàng thường quy, công thức máu, men gan, lưu đồ chẩn đoán sớm bệnh sốt xuất
huyết Dengue
ABSTRACT
THE ROLE OF BASIC LABORATORY PARAMETERS IN EARLY DIAGNOSIS
OF ADULT DENGUE PATIENTS
Nguyen Thi My Linh, Phung Khanh Lam
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17-Supplement of No 1-2013: 181 - 188
Backgrounds: The emergence of Dengue became a public health problem in tropical and sud-tropical
countries. The diagnosis of Dengue were based on NS1 test or RT=PSR which were not often available
everywhere.
Objective: To make an early diagnosis of Dengue at 72 h of onset, using the Decision Tree Algorithms with
the basic laboratory parameters: white blood cell count, absolute lymphocyte count, platelets count, AST and ALT.
Methods: This prospective observational study was done from December 2010 to September 2011 on 804
inpatients admitted to the Hospital for Tropical Diseases, with a fever of 72 h from onset.
Results: There were a significant difference of the WBC, platelet count, lymphocyte count and liver enzyme
* Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TP. HCM
** Đơn vị nghiên cứu lâm sàng ĐH Oxford Việt Nam – BV Nhiệt Đới
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Mỹ Linh, ĐT: 0903389579, Email: mylinh_bvnd@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa 182
between Dengue and non-Dengue groups within the first three days of illness.
Conclusion: Decision Tree Algorithms for early diagnosis of Dengue can be made from basic laboratory
parameters with a sensitivity and specificity of 94% and 61%; and PPV and NPV of 84% and 82%.
Keywords: Decision Tree Algorithms, early diagnosis for Dengue
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh SXHD là bệnh nhiễm trùng cấp tính,
do siêu vi Dengue gây ra, lây truyền qua trung
gian truyền bệnh là muỗi Aedes. Bốn týp huyết
thanh của siêu vi Dengue có thể gây ra nhiều
bệnh cảnh lâm sàng khác nhau, từ nhẹ đến nặng;
và hiện nay, bệnh do Dengue gây ra được xem là
một trong những bệnh nhiễm tái trỗi dậy đang
bùng phát mạnh(7).
Trong các vụ dịch SXHD mà gần đây xảy ra
liên tục qua nhiều năm, cho thấy chẩn đoán
nhiễm Dengue sớm, trước thời điểm biến chứng
sốc có thể xảy ra, là một nhu cầu bức thiết giúp
các bác sỹ điều trị quyết định được bệnh nhân
nào cần nhập viện, thiết lập chế độ theo dõi và
điều trị thích hợp như theo dõi sinh hiệu, DTHC,
tiểu cầu hoặc giảm thiểu việc sử dụng kháng
sinh. Để giúp các nhà lâm sàng có thể chẩn đóan
những trường hợp nhiễm Dengue sớm trong
vòng 72 giờ đầu ở những nơi chưa có điều kiện
sử dụng các xét nghiệm chẩn đoán nhanh như
NS1, bằng cách sử dụng một số xét nghiệm
thường quy: số lượng bạch cầu (đa nhân trung
tính và lympho), tiểu cầu và men gan (AST,
ALT) trong ba ngày đầu khởi bệnh, từ đó có thể
gợi ý một cách tiếp cận đơn giản hướng đến
chẩn đoán bệnh SXHD.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế
Nghiên cứu tiền cứu, mô tả nhiều trường
hợp, sử dụng mô hình để phân tích, tạo lưu đồ.
Dân số mẫu
Bệnh nhân người lớn (≥ 15 tuổi), điều trị
nội trú tại các khoa Nhiễm C và Nhiễm D tại
BVBNĐ. bệnh nhân người lớn (≥ 15 tuổi), sốt <
72 giờ. Từ tháng 12/2010 đến tháng 09/2011.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
- Bệnh nhân người lớn từ 15 tuổi trở lên.
- Nhập viện có sốt < 72 giờ.
- Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh đã có chẩn đoán rõ ràng khi vào viện,
như khám thấy có ổ nhiễm trùng (tiểu gắt, họng
có mủ, phổi có ran), bệnh lý huyết học cấp hay
mạn kèm theo, hay bệnh lý suy giảm miễn dịch
tế bào (AIDS).
Biến số và kỹ thuật
Công thức máu (số lượng bạch cầu, số lượng
lymphocyte tuyệt đối, số lượng tiểu cầu): thực
hiện bằng máy Cell Dyn 3700, Abbott
Laboratories S.A, Mỹ. Xét nghiệm sinh hóa máu:
thực hiện bằng máy Cobas C 501, do Roche sản
xuất, cho kết quả AST/ALT. Phát hiện kháng
nguyên NS1 của siêu vi Dengue thực hiện bằng
kỹ thuật ELISA (sử dụng bộ kít do Bio-Line
Laboratories, Mỹ sản xuất) và phát hiện virus
Dengue sử dụng kỹ thuật TaqMan Real time RT-
PCR, thực hiện tại Đơn vị Nghiên cứu Lâm sàng
thuộc Đại Học Oxford – Việt Nam – Bệnh viện
Nhiệt Đới.
Phân tích số liệu
- Số liệu thu thập được nhập bằng phần
mềm Clires Data Management System (MSSQL
Server 2005 & ASP.NET), do phòng IT Đơn vị
Nghiên cứu Lâm sàng thuộc Đại Học Oxford –
Anh quốc, tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới thiết kế.
- Phân tích số liệu bằng phần mềm thống kê R.
- Phép kiểm: so sánh tỷ lệ bằng phép kiểm
Chi bình phương, so sánh các giá trị trung bình
hay trung vị giữa 2 nhóm Dengue và không
Dengue bằng phép kiểm t test hay Wilcoxon test,
so sánh trung vị của các thông số cận lâm sàng
giữa các ngày nhập viện N1, N2, N3 bằng phép
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 183
kiểm Kruskal Wallis.
KẾT QUẢ
Đặc điểm dân số nghiên cứu
Từ tháng 12/2010 đến tháng 09/2011, chúng
tôi chọn 804 bệnh nhân nội trú, người lớn, vào
thời điểm từ ngày thứ 1 đến ngày thứ 3 kể từ khi
sốt khởi phát, theo thứ tự nhập viện liên tục, tại 2
khoa Nhiễm C và Nhiễm D. Với 804 bệnh nhân
này, chúng tôi đưa vào phân tích những trường
hợp SXHD với NS1 (+), và/hoặc RT-PCR Dengue
(+), hoặc ELISA Dengue (+). Trong số này, có 546
bệnh nhân được chẩn đoán xác định là SXHD và
258 bệnh nhân có sốt không do Dengue.
Bảng 1: Đặc tính dân số nghiên cứu
Đặc điểm dịch tễ (n=804) Tần số (%)
Nam 331 (41)
Nữ 473 (59)
Tuổi 24 (19-31)
Ngày nhập viện N1 72 (9)
N2 291 (36)
N3 441 (55)
Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 24,
khoảng trung vị là 19-31, thấp nhất là 15 tuổi, cao
nhất là 81 tuổi, trong đó có 5 bệnh nhân có tuổi
cao từ 66 đến 81 tuổi. Nhóm tuổi từ 19-31 chiếm
đa số, chiếm tỷ lệ lần lượt từ 25-75% bảng 1).
Trong 3 ngày đầu từ khi khởi sốt, có 72 bệnh
nhân nhập viện vào ngày thứ 1, 291 bệnh nhân
nhập viện vào ngày thứ 2, 441 bệnh nhân nhập
viện vào ngày thứ 3, chiếm tỷ lệ lần lượt là 9%,
36 %, và 55% (bảng 1).
Bảng 2: Đặc điểm các thông số cận lâm sàng của mẫu
Thông số cận lâm sàng (n=804) Trung vị (KTV)
Bạch cầu (x10
9
/L) 4,5 (2,9-7)
BCĐNTT (x10
9
/L) 3,1 (1,9-5,2)
Lympho (x10
9
/L) 0,7 (0,5-1)
DTHC (%) 39,8 (36,7-43)
Tiểu cầu (x10
9
/L) 142 (98-197)
AST (U/L) 41 (25-76)
ALT (U/L) 30 (17-57)
Đặc điểm chung của các thông số cận lâm
sàng của mẫu nghiên cứu: trị tuyệt đối của bạch
cầu máu là 4,5.109/L, trong đó BCĐNTT chiếm ưu
thế là 3,1.109/L (bảng 2).
Bảng 3: So sánh các thông số cận lâm sàng giữa 2 nhóm Dengue & không Dengue
Thông số cận lâm sàng (n = 804)
Dengue (n= 546) Không Dengue n=258
p
Trung vị (KTV) Trung vị (KTV)
Bạch cầu (x10
9
/L) 3,6 (2,6-5,2) 7,3 (5,1-10,7) <0,001
BCĐNTT (x10
9
/L) 2,5(1,6 -3,8) 5,4 (3,5-8,7) <0,001
Lympho (x10
9
/L) 0,6 (0,4-0,9) 1 (0,7-1,4) <0,001
DTHC (%) 40,5 (37- 44) 38,6 (36-41) <0,001
Tiểu cầu (x10
9
/L) 117 (82 -168) 204 (162-237) <0,001
AST (U/L) 52 (34-98) 25 (19 -39) <0,001
ALT (U/L) 36 (21- 66) 18 (13 -34) <0,001
Phép kiểm Wilcoxon
Nhóm bệnh Dengue có số lượng tuyệt đối
của Bạch cầu, BCĐNTT, BC Lympho, tiểu cầu
thấp hơn nhóm không Dengue. Ngược lại,
DTHC và men gan AST, ALT trong nhóm
Dengue cao hơn nhóm không Dengue. Các khác
biệt này đều có ý nghĩa giữa nhóm bệnh.
Bảng 4: Các thông số cận lâm sàng theo ngày nhập viện giữa 2 nhóm Dengue & không Dengue
Thông số cận lâm sàng (n=804)
Ngày 1 (n=71) Ngày 2 (n=289) Ngày 3 (n=440)
p
Trung vị (KTV) Trung vị (KTV) Trung vị (KTV)
Bạch cầu (x10
9
/L) 7,3 (5,4-10) 5,6 (3,7-8,2) 3,6 (2,5-5,2) <0,001
BCĐNTT (x10
9
/L) 5,5 (4,4-8,2) 3,9 (2,5-6,2) 2,5 (1,6-3,7) <0,001
Lympho (x10
9
/L) 0,8 (0,5-1) 0,7 (0,4-1) 0,7 (0,5-1) 0,1
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa 184
Thông số cận lâm sàng (n=804)
Ngày 1 (n=71) Ngày 2 (n=289) Ngày 3 (n=440)
p
Trung vị (KTV) Trung vị (KTV) Trung vị (KTV)
DTHC (%) 38 (37-40,5) 39 (36-42) 40,7 (37-44,2) <0,001
Tiểu cầu (x10
9
/L) 202 (166-235) 167 (123-214) 115 (77-162) <0,001
AST (U/L) 22 (19-35,5) 34 (23-56) 54 (33-102) <0,001
ALT (U/L) 16 (13-27) 26 (17-50) 36 (15-65) <0,001
Phép kiểm Kruskal Wallis
So sánh các thông số huyết học-bạch cầu,
bạch cầu đa nhân trung tính, bạch cầu
lymphocyte, tiểu cầu, DTHC và trị số ALT, AST
của nhóm bệnh nhân SXHD có triệu chứng và
nhóm bệnh nhân sốt không do Dengue trong
từng ngày nhập viện N1, N2, N3, sự khác biệt
này đều có ý nghĩa, có xu hướng giảm dần đối
với BC, BCĐNTT, BC Lympho, tiểu cầu, và tăng
dần đối với DTHC, men gan AST, ALT.
Bảng 5: Các thông số cận lâm sàng theo ngày nhập viện ở nhóm bệnh Dengue
Thông số cận lâm sàng
(n=546)
Ngày 1(n=28) Ngày 2(n=177) Ngày 3(n=341)
p
Trung vị(KTV) Trungvị (KTV) Trungvị (KTV)
Bạch cầu (x10
9
/L) 6 (5,3-7,5) 4,6 (3,2-6,1) 3,2 (2,3-4) <0,001
BCĐNTT (x10
9
/L) 4,7 (4,3-6) 3,3 (2-4,6) 2 (1,4-3) <0,001
Lympho (x10
9
/L) 0,7 (0,5-0,9) 0,6 (0,4-0,8) 0,6 (0,5-1) <0,001
DTHC (%) 37,8 (37-41) 39,5 (37-43) 41 (38-45) <0,001
Tiểu cầu (x10
9
/L) 173 (150-200) 144 (110-182) 100 (68-137) <0,001
AST (U/L) 26 (20-34) 40 (29-63) 65 (40-122) <0,001
ALT (U/L) 17 (13,5-25) 30 (18-58) 41 (25-77) <0,001
Phép kiểm Kruskal Wallis
Quan sát các thông số cận lâm sàng theo thời
điểm bệnh ở nhóm bệnh nhân Dengue mô tả
trong bảng 5, cho thấy trung vị của số lượng BC,
BCĐNTT, BC Lympho, tiểu cầu đều giảm dần
trong 3 ngày đầu, và thấp nhất ở N3, nhưng biên
độ giảm của BC Lymphoít hơn trong 3 ngày đầu
0,7 0,6.109/L.Nếu so với số lượng tuyệt đối của
BC máu chung, thì tỷ lệ BC Lympho tăng dần.
Tiểu cầu cũng giảm dần với biên độ khá rộng.
Men AST, ALT vào N1, N2 chưa tăng, nhưng
tăng rõ vào N3.
Bảng 6: Các thông số cận lâm sàng theo ngày nhập viện ở nhóm bệnh không do Dengue
Thông số cận lâm sàng
n=258
Ngày 1(n=44) Ngày 2(n=114) Ngày 3(n=100)
p
Trung vị (KTV) Trung vị (KTV) Trung vị (KTV)
Bạch cầu (x10
9
/L) 7,9 (6,3-11,8) 7,9 (5,5-12) 6,4 (4,7-9,5) <0,001
BCĐNTT (x10
9
/L) 7,4 (4,6-9,4) 5,9 (3,7-10) 4,4 (3,1-6,9) <0,001
Lympho (x10
9
/L) 0,8 (0,5-1,3) 0,9 (0,6-1,3) 1 (0,8-1,4) <0,001
DTHC (%) 38,6 (36,2-40) 38,3 (35,7-41) 38,7 (37-42) 0,3
Tiểu cầu (x10
9
/L) 220 (190-267) 208 (166-245) 186 (148-215) <0,001
AST (U/L) 20,5 (18-36) 27 (19-45) 25 (19-37) 0,3
ALT (U/L) 16 (13-28) 21 (14-38) 17 (13-38) 0,1
Phép kiểm Kruskal Wallis
Các thông số về huyết học và sinh hóa ở
nhóm bệnh không do Dengue được mô tả trong
bảng 6, cũng cho thấy có thay đổi theo cùng
chiều hướng-giảm dần trong 3 ngày đầu khởi
sốt, tuy nhiên, biến động này diễn ra với biên độ
thấp hơn. Đặc biệt, trị số của BC Lympho trong
nhóm này, lại có khuynh hướng tăng dần theo
ngày nhập viện.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 185
Bảng 7: Các giá trị của Lưu đồ chẩn đoán (n=804)
Tiêu chuẩn xét nghiệm SEN (%) SPE (%) PPV (%) NPV (%) Chẩn đoán sai (%)
Chưa hiệu chỉnh 95,0 63,4 84,6 85,8 15,1
Hiệu chỉnh với kiểm chứng chéo 10 lần 93,7 61,3 84 81,5 16,4
Sau khi làm tròn số 93,0 62,3 84,3 80,2 16,3
SEN: Độ nhạy. SPE: Độ đặc hiệu. PPV: Giá trị tiên đoán dương. NPV Giá trị tiên đoán âm.
1: nhóm bệnh do Dengue, 2: nhóm bệnh không do Dengue.
Lưu đồ 2: Sau khi đã làm tròn số
BÀN LUẬN
Đề tài nghiên cứu này là đề tài đầu tiên tại
Việt Nam, được thiết kế nhằm xây dựng một
cách tiếp cận đơn giản để phát hiện những
trường hợp bệnh sốt do nhiễm siêu vi Dengue
mà chỉ sử dụng những thông số cận lâm sàng
thường quy, có thể thực hiện được tại nhiều cơ
sở khám chữa bệnh. Như chúng ta đã biết bệnh
nhiễm Dengue tuy có nhiều triệu chứng và dấu
hiệu khá điển hình như xuất huyết da, dấu dây
thắt dương tính, tăng dung tích hồng cầu
(DTHC), giảm tiểu cầu nhưng chỉ biểu hiện rõ
ràng vào thời điểm khá muộn (ngày 3 trở đi) sau
khi khởi phát sốt.
Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị cũ 1974 và
mới 2009 của TCYTTG chỉ có giá trị cao hơn sau
ngày thứ 3 khi các thay đổi lâm sàng và cận lâm
sàng đã khá rõ ràng.
Trong nghiên cứu này, các xét nghiệm không
được thực hiện nhiều lần trên cùng một bệnh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa 186
nhân, nhưng kết quả từ 3 nhóm khác nhau: nhập
viện ngày 1, 2 và 3 cũng phản ánh sự thay đổi đã
được ghi nhận là số lượng bạch cầu và các thành
phần giảm theo từng ngày; trong khi DTHC và
men gan lại tăng dần một cách có ý nghĩa như đã
được mô tả bởi nhiều nghiên cứu(3,4,6). Ngoài ra,
khi so sánh các thông số xét nghiệm trong đề tài
này giữa hai nhóm do nhiễm Dengue và không
phải Dengue cũng cho thấy có khác biệt mang ý
nghĩa thống kê (Bảng 4).
Như vậy, có sự khác biệt về số lượng bạch
cầu máu, bạch cầu lympho, bạch cầu trung tính,
tiểu cầu và men gan giữa các nhóm bệnh nhập
viện vào những ngày sau khi khởi phát khác
nhau và cũng khác nhau giữa hai nhóm nhiễm
Dengue và nhóm không phải Dengue. (Bảng 5, 6)
Nhiều khảo sát trước đã được thực hiện
nhằm phát hiện những dấu hiệu lâm sàng hay
xét nghiệm huyết học, sinh hoá để chẩn
đoán(3,4,6,8). Những nghiên cứu này phân tích đơn
biến hay đa biến các thông số nói trên và đưa ra
một số triệu chứng và thông số cận lâm sàng có
liên quan đến bệnh nhiễm Dengue nhưng không
nói rõ cách áp dụng để chẩn đoán. Hơn nữa các
nghiên cứu này thường là hồi cứu và không
được thiết kế để xây dựng quy trình chẩn đoán,
do đó cũng khó áp dụng.
Đề tài này được thiết kế tiền cứu, sử dụng
phương pháp CART (Classification and
Regression Tree), nhằm xây dựng một lưu đồ,
trong đó chỉ sử dụng những thông số huyết học
và sinh hoá thường quy, nhằm phân biệt những
trường hợp nào có thể do siêu vi Dengue và
những trường hợp nào không phải là sốt do
nhiễm siêu vi Dengue trong 72 giờ đầu của quá
trình bệnh lý.
Tại sao đề tài này chỉ sử dụng hai kết quả xét
nghiệm thường quy là công thức máu và men
gan AST?
Sau khi phân tích các kết quả xét nghiệm, xét
nghiệm CTM được chọn vì luôn luôn được chỉ
định khi BN đến BV và cùng với men gan AST là
hai yếu tố thay đổi sớm trong 3 ngày đầu, sớm
hơn cả DTHC.
Sự chọn lựa này cũng căn cứ vào nhiều
nghiên cứu trước đây cho thấy những kết quả
cận lâm sàng có liên quan đến nhiễm Dengue
(tác giả Low JC và cộng sự, với nghiên cứu
EDEN, tại Singapore, năm 2006, nghiên cứu 455
bệnh nhân người lớn)(4) đã cho thấy sự khác biệt
có ý nghĩa của công thức bạch cầu-bao gồm
BCĐNTT và BC Lympho, tiểu cầu. Cùng năm
2006, tại Singapore, Chadwick D và cộng sự, rút
ra kết luận từ 381 bệnh nhân người lớn, có sự
thay đổi của công thức bạch cầu, hemoglobin,
taux de prothrombin, creatinin và bilirubin.
Cũng theo tác giả Low JC và cộng sự, nghiên
cứu 2129 bệnh nhân người lớn ≥ 18 tuổi, tại
Singapore, năm 2011, đã chứng minh cho thấy ở
người lớn bị SXHD, ngoài các triệu chứng lâm
sàng thường thấy như đau cơ, đau khớp, đau
sau hốc mắt, xuất huyết da niêm, còn có công
thức bạch cầu giảm, chủ yếu là BCĐNTT và
lymphô.
Năm 2007, Kittigul L và cộng sự khi so sánh
sự khác biệt trong SXHD ở người lớn và trẻ em
Thái Lan, cũng kết luận sự biến đổi của các
thông số huyết học và sinh hóa gồm cô đặc máu,
giảm tiểu cầu, tăng thời gian prothrombine, men
ALT ở người lớn cao rõ rệt hơn trẻ em (p<0,05)
Tại Thái Lan, James A Potts, của Đại Học Y
Khoa Massachusetts, Viện Nghiên Cứu Quân
đội Hoa Kỳ ở Thái Lan và Viện Nhi Hoàng Hậu
Sirikit ở Bangkok đã thực hiện một nghiên cứu ở
trẻ em năm 2010 nhằm tiên đoán độ nặng của
những trường hợp Dengue trong 3 ngày đầu
bằng phương pháp phân tích CART
(Classification and Regression Tree) cũng kết
luận công thức bạch cầu gồm tỷ lệ bạch cầu (tỷ lệ
% của monocyte và BCĐNTT) tiểu cầu, DTHC,
men AST, tuổi, cũng có độ nhạy cao (97%) khi
tiên lượng bệnh SXHD nặng(6). Tuy nhiên nghiên
cứu này phân tích số liệu từ trẻ em mà thôi.
Gần đây nhất, năm 2008, tác giả Lukas
Tanner và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu với
1200 bệnh nhân sốt người lớn ở Singapore và
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 187
Việt Nam,đã rút ra kết luận vể việc sử dụng lưu
đồ từ các thông số huyết học trong việc chẩn
đoán sớm bệnh SXHD trong 72 giờ đầu từ khi
khởi sốt(8).
Một câu hỏi khác là độ chính xác của các điểm
cắt khi sử dụng trong các lưu đồ như thế nào?
So sánh lưu đồ của hai nghiên cứu ta có thể
thấy nhiều tương đồng, như sau:
Tác giả Tanner không sử dụng men gan AST
trong khi Potts sử dụng tỷ lệ % monocyte và BC
trung tính (neutrophile); tuy vậy trị số các điểm
cắt khá tương đồng (bảng 8).
Một điểm lưu ý nữa là trong các lưu đồ này,
trị số các điểm cắt dường như bình thường và
dường như “không có ý nghĩa lâm sàng” như
các thầy thuốc thường nghĩ; với bạch cầu khoảng
7.109/L. Đây là một phát hiện quan trọng vì cả 3
nghiên cứu đều đưa ra trị số tương đương. Điều
này không gây ngạc nhiên nếu chúng ta nhớ
rằng các kết quả xét nghiệm này là trong 72 giờ
đầu tiên sau khi bệnh nhân sốt. Các nghiên cứu
hồi cứu đều cho thấy bạch cầu, bạch cầu trung
tính hay lympho đều giảm nhiều (<4.109/L),
DTHC và men tăng cao hơn. Chính với định
kiến như thế, các nhà lâm sàng thường bỏ qua
những thay đổi nhỏ tưởng chừng không đáng kể
và ít khi xét phối hợp các yếu tố với nhau như
trong các lưu đồ chẩn đoán.
Khi sử dụng lưu đồ, xem xét lần lượt 3 điểm
cắt là bạch cầu, tiểu cầu, men gan AST.
Trong lưu đồ chẩn đoán hình thành ở nghiên
cứu này, sử dụng phối hợp 3 thông số cận lâm
sàng là số lượng bạch cầu, số lượng lympho, tiểu
cầu và giá trị của men gan AST trong 72 giờ đầu,
đạt được tỷ lệ phân loại sai, độ nhạy, độ đặc hiệu,
cũng như giá trị tiên đoán dương và âm đều ở
ngưỡng cao hơn lưu đồ của các tác giả ở
Singapore. Trong lưu đồ của Tanner và cộng sự,
sử dụng phối hợp nhiều xét nghiệm khác là tải
lượng siêu vi (Ct) và kháng thể Dengue IgG. Hai
xét nghiệm này hiện nay chưa thể làm thường
quy ở Việt Nam, hơn nữa, kết quả có chậm (IgG)
và chi phí cao (Real-time RT-PCR). Tham khảo
độ nhạy của lưu đồ của tác giả Potts