Vai trò của kinh tế vườn trong việc phát triển Kinh tế - Xã hội ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, kinh tế vườn đã chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt là các tỉnh ở phía nam, kinh tế vườn đã mang lại hiệu quả rất lớn đối với người nông dân. Nếu so với trồng lúa, trồng hoa màu, chăn nuôi. thì kinh tế vườn đã vượt trội về mặt kỷ thuật sản xuất và hiệu quả kinh tế, gắn với công nghệ hiện đại, có thị trường rộng lớn và nhạy bén với quan hệ thị trường. Từ đó kinh tế vườn đã và đang giữ vai trò quan trọng trong việc sử dụng hiệu quả đất đai, lao động và tài nguyên sẵn có, một trong nhiệm vụ chủ yếu của lĩnh vực nông nghiệp trong những năm đầu của quá trình phát triển. Vườn là thuật ngữ rất quen thuộc và gần gũi với chúng ta. Tuy nhiên, trong nghiên cứu do thái độ tiếp cận thời điểm và địa bàn khác nhau nên có nhiều định nghĩa khác nhau. Theo từ điển tiếng việt vườn là “khu đất thường rào kín ở cạnh sát nhà ở để trồng cây” 1 hoặc là “vườn là khu đất xung quanh nhà hoặc khu đất riêng có trồng cây trái, rau, quả” 2. Một số tác giả cho rằng “kinh tế vườn là một bộ phận cấu thành hữu cơ của kinh tế VAC" có nghĩa là: Vườn nó bao hàm “A” ao, “C’’ chuồng, ‘’V” vườn và quyêt định “A”, ”C”.Thế nhưng, không có “A,C” thì hiệu quả của kinh tế của vườn sẽ kém đi. Thực ra, kinh tế vườn là một bộ phận cấu thành hữu cơ của kinh tế nông nghiệp, là một phần kinh tế được tách ra từ ngành trồng trọt. Đó là một ngành sản xuất độc lập, một phương thức kinh doanh riêng, đồng thời có quan hệ chặt chẽ với ngành trồng trọt và ngành chăn nuôi. Nhưng hoạt động chủ yếu của người nông dân là trồng cây ăn quả. Căn cứ vào chức năng, cấu trúc, qui mô và hiệu quả kinh tế có thể chia kinh tế vườn thành những loại như sau: Thứ nhất là vườn nhà chủ yếu trồng cây được thâm canh bằng lao động của hộ gia đình mục đích là chắn gió, che mát, làm cảnh, cung cấp thức ăn, dược liệu. Thứ hai là vườn đồi được trồng trên đồi theo phương thức bán tự nhiên, chủ yếu là cây công nghiệp dài ngày như: cao su, cà phê, chè, tiêu.

doc6 trang | Chia sẻ: thuylinhqn23 | Ngày: 08/06/2022 | Lượt xem: 328 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của kinh tế vườn trong việc phát triển Kinh tế - Xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 28, 2005 VAI TRÒ CỦA KINH TẾ VƯỜN TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Nguyễn Thị Hóa Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế Trong những năm gần đây, kinh tế vườn đã chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt là các tỉnh ở phía nam, kinh tế vườn đã mang lại hiệu quả rất lớn đối với người nông dân. Nếu so với trồng lúa, trồng hoa màu, chăn nuôi... thì kinh tế vườn đã vượt trội về mặt kỷ thuật sản xuất và hiệu quả kinh tế, gắn với công nghệ hiện đại, có thị trường rộng lớn và nhạy bén với quan hệ thị trường. Từ đó kinh tế vườn đã và đang giữ vai trò quan trọng trong việc sử dụng hiệu quả đất đai, lao động và tài nguyên sẵn có, một trong nhiệm vụ chủ yếu của lĩnh vực nông nghiệp trong những năm đầu của quá trình phát triển. Vườn là thuật ngữ rất quen thuộc và gần gũi với chúng ta. Tuy nhiên, trong nghiên cứu do thái độ tiếp cận thời điểm và địa bàn khác nhau nên có nhiều định nghĩa khác nhau. Theo từ điển tiếng việt vườn là “khu đất thường rào kín ở cạnh sát nhà ở để trồng cây” 1 hoặc là “vườn là khu đất xung quanh nhà hoặc khu đất riêng có trồng cây trái, rau, quả” 2. Một số tác giả cho rằng “kinh tế vườn là một bộ phận cấu thành hữu cơ của kinh tế VAC" có nghĩa là: Vườn nó bao hàm “A” ao, “C’’ chuồng, ‘’V” vườn và quyêt định “A”, ”C”.Thế nhưng, không có “A,C” thì hiệu quả của kinh tế của vườn sẽ kém đi. Thực ra, kinh tế vườn là một bộ phận cấu thành hữu cơ của kinh tế nông nghiệp, là một phần kinh tế được tách ra từ ngành trồng trọt. Đó là một ngành sản xuất độc lập, một phương thức kinh doanh riêng, đồng thời có quan hệ chặt chẽ với ngành trồng trọt và ngành chăn nuôi. Nhưng hoạt động chủ yếu của người nông dân là trồng cây ăn quả. Căn cứ vào chức năng, cấu trúc, qui mô và hiệu quả kinh tế có thể chia kinh tế vườn thành những loại như sau: Thứ nhất là vườn nhà chủ yếu trồng cây được thâm canh bằng lao động của hộ gia đình mục đích là chắn gió, che mát, làm cảnh, cung cấp thức ăn, dược liệu... Thứ hai là vườn đồi được trồng trên đồi theo phương thức bán tự nhiên, chủ yếu là cây công nghiệp dài ngày như: cao su, cà phê, chè, tiêu... Thứ ba là vườn rừng chủ yếu canh tác theo phương thức canh tác tự nhiên. Thứ tư là vườn chủ yếu trồng các loại cây rau thiết yếu hàng ngày được trồng rải rác khắp nơi. Thứ năm là vườn tạp chủ yếu là tạp chủng về giống đủ các loại cây, có cây gì trồng cây ấy, có bao nhiêu thu hoạch bấy nhiêu, nên hiệu quả kinh tế kém. Thứ sáu: là vườn chuyên canh trong vườn chỉ có một loại cây nhất định, sản xuất theo hướng chuyên môn hoá nên năng xuất và hiệu quả rất cao so với vườn tạp, vườn nhà. Thứ bảy là vườn ươm chủ yếu sản xuất theo quy trình công nghệ hiện đại và kỹ thuật tiến bộ. Thứ tám là vườn du lịch chủ yếu là cây ăn quả, cây cảnh để kinh doanh du lịch. Đặc trưng của vườn này chủ yếu là cảnh quan, chất lượng, mùa vụ... là nơi văn minh nhất đồng thời là nơi thu lợi nhuận cao nhất. Sự đa dạng của các loại vườn nó mang lại thu nhập không nhỏ đối với các hộ gia đình của nông thôn Việt Nam càng khẳng định được vai trò quan trọng của kinh tế vườn đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng. Thứ nhất, vai trò của kinh tế vườn trong việc sử dụng có hiệu quả đất đai, lao động, tăng thu nhập cho người lao động. Hoạt động nông nghiệp phụ thuộc rất lớn về điều kiện tự nhiên (về vị trí, thổ nhưỡng, nguồn nước, khí hậu...) và mang tính thời vụ. Song mùa vụ rất khác nhau đối với từng vùng đất và từng loại cây, con. Đất đai từng vùng rất nhiều loại, mỗi loại chỉ thích hợp với một hoặc vài cây nhất định. Mặt khác, vị trí của đất (xa hay gần nhà, đường giao thông, thị trường tiêu thụ, trung tâm khoa học kỹ thuật...) là điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn trong việc sử dụng và khai thác đất đai cũng là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả trong việc sử dụng lao động, đồng thời khẳng định rằng với một loại hình sản xuất thích hợp có thể khắc phục được tính mùa vụ phát huy ưu thế của từng loại đất, để khai thác và sử dụng hiệu quả nhất. Trong các loại hình sản suất nông nghiệp, kinh tế vườn là hình thức sản xuất kết hợp tốt nhất vì có đất có lao động là có của cải đất càng rộng thì của cải càng nhiều. Nếu nhìn vào cấu trúc vườn, nó được bố trí theo dài, rộng trên một diện tích nhất định, nhưng vườn có khả năng chuyển tải thường xuyên một hệ thống cây con mà đất lúa, đất công nghiệp chưa có khả năng to lớn như vậy. Bởi vì nhìn vào góc độ các loại vườn có thể nhận thấy được về sự tận dụng nguồn lao động và sử dụng đất một cách hợp lý nhất: Ví dụ: khi cây chưa bị phân tán, người nông dân có thể thực hiện trồng xen các loại cây rau và chăn nuôi, trên một diện tích đất, mặt nước có thể tận dụng lấy “ngắn nuôi dài’’. Về thời gian không gian không có giới hạn, có thể làm trong giờ hay ngoài giờ, lực lượng lao động không cần tính độ tuổi: già hay trẻ, nam hay nữ đều bố trí một cách hợp lý vừa không để đất trống mà giải quyết việc làm, vừa tăng thêm thu nhập tạo ra một sự gắn bó và ràng buộc giữa con người và đất đai. Thứ hai, kinh tế vườn chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng và toàn diện. Bởi vì, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp bao giờ cũng gắn liền với sự vận động phát triển nền kinh tế nông nghiệp: tức là chuyển nền sản xuất độc canh sang nền sản xuất nông sản hàng hóa đa dạng toàn diện. Quá trình chuyển dịch đó phải diễn ra chiều hướng tỷ trọng ngành trồng trọt giảm thì chăn nuôi, ngư nghiệp tăng lên. Trong trồng trọt, giảm lúa và hoa màu thì rau quả phải tăng, điển hình là ở Đài Loan, năm 1981, tỷ trọng trong ngành trồng trọt giảm từ 60% xuống 47% nhưng giá trị sản lượng ngành trồng trọt vẫn tăng 3,5 lần từ 29,405 triệu đồng, Đài Loan lên 110,235 triệu đồng. Tuy nhiên, cơ cấu nông lâm - ngư nghiệp nước ta còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, có vùng chưa thoát khỏi độc canh, tuyệt đại đa số diện tích đất đai trồng trọt, phần lớn thu nhập của người nông dân do sản xuất lúa đem lại. Nhưng trên thực tế, kinh tế vườn đã tạo nên một tập đoàn cây và con hết sức đa dạng và phong phú, nó đang xóa dần tính độc canh, thuần nông một số vùng trong cả nước: ví dụ: ở Hà Bắc có 4000 ha vải thiều, đã phủ xanh các đồi trọc ở Lục Ngạn làm tăng giá trị sản lượng vườn 62% so với giá trị sản lượng lúa 3 , hoặc ở đồng bằng sông Cửu Long có 13.589 ha nhãn, 14.647ha xoài, 31.450ha dừa, 27.481ha chuối, 37.532 ha cây có múi... Nó tạo ra hệ thống cây trồng vật nuôi phong phú đa dạng, bốn mùa có hoa trái đủ các loại 4. Theo tài liệu điều tra về cơ cấu thu nhập của các tỉnh phía Nam, ở đâu kinh tế vườn phát triển thì ở đó chuyển dịch kinh tế càng nhanh, chuyên môn hóa càng sâu. Nếu diện tích sản lượng lúa, hoa màu... giảm thì rau quả, cây cảnh càng tăng, những cây có giá trị xuất khẩu và có khả năng chế biến càng tăng nhanh Một số động vật được bảo tồn và chăn nuôi trong vườn và quy mô ngày càng lớn. Thứ ba, kinh tế vườn làm tăng sản lượng phẩm cho xã hội, đặc biệt làm tăng sản phẩm xuất khẩu, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Bởi vì, cấu trúc của vườn rất đa dạng về loài thực vật và động vật, riêng khu vực kinh tế vườn đã có 150 loại cây và con, tạo ra hàng trăm loại sản phẩm khác nhau, con ong cho ta mật, nhộng, phấn hoa, cây cho ta lá, hoa, trái, hạt,.... Thực phẩm được lấy từ vườn vừa tươi vừa rất bổ, nhiều chất dinh dưỡng (bột, béo, đường, vitaminA) cho con người 5. Đặc biệt làm tăng giá trị một số mặt hàng xuất khẩu như cây công nghiệp (cà phê, tiêu, hạt điều...) và một số cây ăn quả (xoài, vải thiều, nhãn, cam quýt, sầu riêng, vú sữa...) và một số hải sản (tôm, cua, lươn, ếch...) cho nhiều nước trên thế giới (Đài Loan, Pháp, Úc Trung Quốc...) Nhưng do tính thời vụ, mặt hàng lại mau hỏng chuyên chở cồng kềnh đòi hỏi phải được chế biến. Như vậy, kinh tế vườn là nguồn nuôi dưỡng ngành công nghiệp chế biến rau quả và một số ngành công nghiệp (bao bì, vận chuyển thức ăn uống cho cây trồng và vật nuôi). Thứ tư, kinh tế vườn góp phần bảo vệ môi trường, phát triển nông nghiệp sinh thái, tạo điều kiện phát triển ngành du lịch. Bởi vì nó đảm bảo cho môi trường ổn định, cân bằng sinh thái, là nhân tố phát triển nông nghiệp bền vững. Trước hết kinh tế vườn sẽ giúp con người khôi phục lại độ màu mỡ đất đai, nguồn nước trong sạch. Theo bà Rosemary Morrow chuyên gia về vườn cho biết: Nếu nơi nào mà cây bị chặt phá còn dưới 30% diện tích nguyên thủy thì quá trình sống bền vững khác sẽ bị suy thoái 6 hoặc một số nước như: Achentina, Bungari, Ai Cập, Italia... những hàng cây chắn gió thiết kế đúng đã làm tăng năng xuất cây trồng tăng từ 80% đến 200%7. Ngoài ra, vườn cây là nơi chắn lở xói mòn cho các con kênh và sông cũng là nơi lượng hóa chất độc hại do con người và súc vật đem lại, thậm chí còn tái sử dụng các chất thải (nước thải, phân rác) tạo thành lớp che phủ và tăng dinh dưỡng cho đất và làm nước sạch cho sinh vật. Mặt khác vườn nước ta với cấu trúc như một hệ sinh thái đa dạng, thảm thực vật phong phú, độc đáo vừa mang tính đặc trưng cho khu vực vừa mang tính qủ hiếm của thế giới. Cảnh quan thoáng đãng nhiều loài đặc sản đáp ứng yêu cầu khách du lịch. Miệt vườn đã và đang thu hút khách du lịch ngày càng đông. Vì ngoài phong cảnh, di tích văn hóa, lịch sử... Kinh tế vườn ra sức hấp dẫn đối với khách đó là du lịch xanh, du lịch sinh thái. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã thu hút đông đảo khách du lịch bằng cách khai thác tài nguyên động thực vật với cảnh quan hài hoà của nó. Như ở nước Pháp các chủ trang trại nhỏ kết hợp sản xuất nông nghiệp với kinh doanh du lịch, hàng năm đón 20 triệu khách du lịch nước ngoài 8. Ở Thái Lan cũng vậy, họ luôn kết hợp cảnh quan du lịch với mô hình trang trại để đón khách du lịch. Thứ năm, kinh tế vườn với việc xây dựng, cũng cố và phát triển nông thôn. Bởi vì, hoạt động kinh tế vườn diễn ra chủ yếu trên địa bàn nông nghiệp nông thôn, quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn được sự trợ lực của kinh tế vườn trên nhiều mặt sau đây: Nâng cao mức sống cho nhân dân trước hết là đối với người làm vườn, góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Áp dụng khoa học kỹ thuật tiến bộ giúp cho các hộ gia đình lựa chọn được nhiều loài giống có năng suất cao, hiệu quả lớn, đồng thời giúp các hộ tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Vậy, vai trò của kinh tế vườn đã chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Do đó, Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ cho các hộ làm vườn nhất là vấn đề khoa học kỹ thuật, vì đây là lĩnh vực rộng lớn, trình độ dân trí lại thấp. Trong khi đó, nhu cầu xã hội lại càng cao, muốn thực hiện được vấn đề đó, thì nhà nước phải có một số giải pháp sau đây: Thứ nhất là quy hoạch vườn theo từng địa phương, chuyên canh, chuyên sâu và quy mô sản xuất lớn, lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm mục tiêu, quy hoạch vườn phải đồng bộ trồng trọt, dịch vụ, tiêu thụ và thị trường. Thứ hai là vấn đề kỹ thuật canh tác, công nghiệp chế biến vì thế phải lựa chọn giống như thế nào vừa thích hợp với điều kiện từng địa phương mà đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Thứ ba là phát triển kinh tế hộ và kinh tế hợp tác, lấy hợp tác xã làm cơ sở cho các hộ gia đình liên kết nhiều hình thức đa dạng nhưng các hộ gia đình vẫn là chủ của hình thức hợp tác đó, hợp tác theo nguyên tắc tự nguyện 2 bên cùng có lợi. Thứ tư là chính sách vĩ mô, sự hỗ trợ của Nhà nước như thuế, vốn, đất đai, ổn định giá cả... đúng và thích hợp từng thời kỳ . Thứ năm, là hệ thống giáo dục, nghiên cứu khuyến nông để giúp người nông dân tiếp cận khoa học và thông tin chính xác kịp thời. Bằng những quan điểm và giải pháp đó, hy vọng và tin tưởng rằng kinh tế vườn sẽ phát huy được vai trò của nó đồng thời kinh tế vườn sẽ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Viện KHXH - NV sản xuất (1992) 113. 2. Từ điển tiếng Việt (1991) 902. 3. Chuyển dịch cơ cấu KTNNNT (1995) 41. 4. Nông - Lâm - Thủy sản Việt Nam (1996) 209. 5. Lâm nghiệp và an toàn lương thực (1994) 45. 6. Đề án phát triển vườn tỉnh Vĩnh Long (2000) 138. 7. Lâm nghiệp và an toàn lương thực (1994) 21. 8. Lâm nghiệp và an toàn lương thực (1994) 45. EFFECTS OF GARDENING ECONOMY ON SOCIO-ECONOMIC DEVELOPMENT IN VIET NAM Nguyen Thi Hoa College of Economics, Hue University SUMMARY In the recent years, gardening economy has played an important position in the socio-economy of the country. It especially gives a high effect to the farmers in the southern provinces. Compared with rice planting and other agricultural production as well as livestock breeding (cattle) ect ..., gardening economy proves to be dominant. As a result, gardening economy plays an important part in exploiting the efficacy of soil, manpower, and available natural resources, which was one of the essential farming activities in the early years of the country’s developmental process. Nowadays, the national gardening economy is of a huge potentiality. If this potentiality is maximally exploited, it will be able to provide more work for the increasing number of laborers as well as help the farmers to make use of their free time more fruitfully. In addition, it will also increase the income of the gardeners. As a consequence, the accumulation of capital will be higher, the consumer needs satisfactorily answered, and the provision of manufacture raw materials stable, and finally a lot of new work and services will have condition to develop ... Therefore, the role of gardening economy needs to be accurately assessed so as to found a basic science for an oriented development of the nation’s garden economy. At the same time, we must find proper solutions for the difficulties. Then we will be able develop better the potentiality of our gardening economy at the present phase.
Tài liệu liên quan