Vai trò của làng nghề thủ công truyền thống trong định hướng phát triển Hà Nội năm 2030, tầm nhìn 2050

Khái quát các đặc trưng của làng nghề Hà Nội có 1350 làng nghề và làng có nghề, trong đó 257 làng được Thành phố công nhận là làng nghề. Theo Quy hoạch phát triển nghề, làng nghề Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 của Hà Nội được Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội phê duyệt tại Quyết định số 14/QĐ-UBND ngày 2/1/2013, đây là những mô hình “trụ đỡ” trong xây dựng kinh tế ngoại thành. Trong thực trạng phát triển kinh tế và đô thị hiện nay, việc đô thị hóa ngày càng nhanh và tỉ trọng đất nông nghiệp giảm mạnh khiến những hộ nông dân không còn đất canh tác trở nên lạc lõng và thất nghiệp trên chính quê hương của mình. Trong quá trình này, “làng nghề” chính là hình thái phát triển phù hợp và có tiềm năng cho các vùng nông thôn và các khu vực ven các đô thị lớn. Hình thức “làng nghề” không phải là nét riêng của Việt Nam. Thực ra, nền kinh tế Việt Nam qua các triều đại đều lấy canh tác nông nghiệp làm gốc rễ, mọi làng quê đều làm nông. Chế tác sản phẩm thủ công và trao đổi hành hóa, buôn bán là hoạt động trong lúc nông nhàn và tạo ra các sản phẩm hỗ trợ đời sống xã hội. Chính các mối quan hệ kinh tế, văn hoá và cảnh quan đã hình thành nên vùng trung tâm đồng bằng Sông Hồng thống nhất và cân bằng, trong đó các làng xa xôi vẫn là một thành phần quan trọng của đô thị Hà Nội (theo TS.KTS. Trần Nhật Kiên). Muốn thấu hiểu Hà Nội thì không thể đặt thành phố tách rời với những làng mạc xung quanh. Làng nghề là bộ phận cấu thành nên đô thị Hà Nội. “Làng” là cấu trúc tự cung tự cấp, đầy đủ hạ tầng cho một nhóm người nhất định, chợ, khu vực canh tác, không gian công cộng, nguồn nước (giếng làng), tín ngưỡng tôn giáo, văn chỉ. Không gian cư trú này khép kín, bao bọc lẫn nhau. Các khối dân cư này tự quản lý gọn ghẽ và nằm trên mạng lưới phân bố đều đặn xung quanh cánh đồng lớn, giữ một khoảng vừa đủ gần để đi bộ, cũng vừa đủ xa để có khoảng đệm cách ly.

pdf5 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 546 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của làng nghề thủ công truyền thống trong định hướng phát triển Hà Nội năm 2030, tầm nhìn 2050, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SË 99 . 201990 & TÁC GIẢ QUY HOẠCH ThS.KTS. NGUYễN ANH VUõ Giảng viên bộ môn Quy hoạch vùng Khoa Quy hoạch đô thị & nông thôn - Đại học Kiến trúc Hà Nội Khái quát các đặc trưng của làng nghề Hà Nội có 1350 làng nghề và làng có nghề, trong đó 257 làng được Thành phố công nhận là làng nghề. Theo Quy hoạch phát triển nghề, làng nghề Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 của Hà Nội được Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội phê duyệt tại Quyết định số 14/QĐ-UBND ngày 2/1/2013, đây là những mô hình “trụ đỡ” trong xây dựng kinh tế ngoại thành. Trong thực trạng phát triển kinh tế và đô thị hiện nay, việc đô thị hóa ngày càng nhanh và tỉ trọng đất nông nghiệp giảm mạnh khiến những hộ nông dân không còn đất canh tác trở nên lạc lõng và thất nghiệp trên chính quê hương của mình. Trong quá trình này, “làng nghề” chính là hình thái phát triển phù hợp và có tiềm năng cho các vùng nông thôn và các khu vực ven các đô thị lớn. Hình thức “làng nghề” không phải là nét riêng của Việt Nam. Thực ra, nền kinh tế Việt Nam qua các triều đại đều lấy canh tác nông nghiệp làm gốc rễ, mọi làng quê đều làm nông. Chế tác sản phẩm thủ công và trao đổi hành hóa, buôn bán là hoạt động trong lúc nông nhàn và tạo ra các sản phẩm hỗ trợ đời sống xã hội. Chính các mối quan hệ kinh tế, văn hoá và cảnh quan đã hình thành nên vùng trung tâm đồng bằng Sông Hồng thống nhất và cân bằng, trong đó các làng xa xôi vẫn là một thành phần quan trọng của đô thị Hà Nội (theo TS.KTS. Trần Nhật Kiên). Muốn thấu hiểu Hà Nội thì không thể đặt thành phố tách rời với những làng mạc xung quanh. Làng nghề là bộ phận cấu thành nên đô thị Hà Nội. “Làng” là cấu trúc tự cung tự cấp, đầy đủ hạ tầng cho một nhóm người nhất định, chợ, khu vực canh tác, không gian công cộng, nguồn nước (giếng làng), tín ngưỡng tôn giáo, văn chỉ... Không gian cư trú này khép kín, bao bọc lẫn nhau. Các khối dân cư này tự quản lý gọn ghẽ và nằm trên mạng lưới phân bố đều đặn xung quanh cánh đồng lớn, giữ một khoảng vừa đủ gần để đi bộ, cũng vừa đủ xa để có khoảng đệm cách ly. Phố cổ Hà Nội là loại hình khá độc đáo trên thế giới, khi mỗi tuyến phố đều gắn liền với một phường hội buôn bán và làm nghề thủ công. Ngày nay, dù nhiều nơi không còn giữ nghề cũ nữa, nhưng những tấm biển tên của những con phố cũ và phố cổ Hà Nội vẫn là bằng chứng về một thành phố sầm uất mà Samuel Baron đã miêu tả: “Hoạt động náo nhiệt hơn hầu hết các thành phố khác ở châu Á”. Khu vực Kẻ Chợ - khu chợ lớn nhất, là khu 36 phố phường mà ta biết đến ngày nay cũng từng được chính Samuel Baron nhắc đến “ngày có phiên chợ chính, khi dân từ các làng lân cận đổ về đây với các loại hàng hóa nhiều vô kể”. Theo TS.KTS. Nguyễn Quốc Thông, trong “Lịch sử Hà Nội: thành phố trong lòng mỗi khu phố” có đề cập về cấu trúc khu vực các phường buôn bán tại Ha Nội như sau: “Thông thường, mỗi phường đều tập trung những cư dân đến từ một làng. Bản thân họ khi chuyển lên thành phố sinh sống cũng mang theo không chỉ lối sống, phong tục của mình mà cả những kỹ thuật xây dựng truyền thống. Vì vậy, cách tổ chức phường đô thị hoàn toàn khép kín (bằng những cánh cổng lớn) giống như những ngôi làng truyền thống.”. Các giai đoạn biến đổi của làng nghề thủ công Dựa theo quá trình phát triển làng nghề từ giữa thế kỷ 20 đến, có thể tạm chia thành 4 mốc thời gian chính như sau: Giai đoạn 1954–1986: Từ khi miền Bắc Việt Nam độc lập, nhà nước ta đã triển khai nền kinh tế tập trung với mục tiêu lớn nhất là xây dựng lại sau chiến tranh và chi viện cho miền Nam. Giai đoạn này, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội như trường học, y Vai trfl CỦA LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG TRONG ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HÀ NỘI NĂM 2030, TẦM NHÌN 2050 91SË 99 . 2019 tế được chú trọng xây dựng. Giữa những năm 1960, Hà Nội chuyển từ thành phố tiêu thụ sang thành phố sản xuất, bắt đầu xuất hiện nhiều nhà máy và khu tập thể trên các khu đất trống, ruộng trũng ở xung quanh vành đai La Thành và vành đai sông Tô Lịch. Các làng nghề lúc này vẫn sản xuất thủ công theo cách truyền thống. Với mục tiêu tiến lên sản xuất công nghiệp và cung ứng đủ lương thực cho cả nước, nhà nước hầu như chỉ tập trung vào các nhà máy quốc doanh và các nông trường, lâm trường. Ở các xã huyện thì thành lập hợp tác xã, tổ chức này thành đầu mối thương mại và đại diện cho nông dân trong việc buôn bán và hợp tác. Tuy nhiên, nền kinh tế tập trung này không phù hợp với sản xuất sản phẩm thủ công, nhất là trong giai đoạn cần sản xuất lấy số lượng hơn là tạo ra những tác phẩm có giá trị cao. Trong bối cảnh đó, việc sản xuất cá nhân hoàn toàn bị cấm. Các nghề truyền thống có hai nhánh rẽ chính: hoặc là giảm thiểu cho tới dừng hẳn (nhất là các sản phẩm vô ích với công cuộc chiến tranh), hoặc là phát triển nhanh chóng và được định hướng bởi nhà nước, dứoi hình thức các hợp tác xã thủ công nghiệp (FANCHETTE, 2016). Từ khi thống nhất đất nước cho đến năm 1986, nền kinh tế tập trung này đã bộc lộ nhiều khuyết điểm và bị thay thế bởi chính sách Đổi Mới năm 1986. Trong quá trình này, nhiều làng nghề cũ đã gặp phải những “tổn thương” nghiêm trọng, gây ra sự biến mất hoặc chuyển đổi cơ cấu sản xuất để phù hợp với định hướng phát triển mô hình hợp tác xã. Giai đoạn từ Đổi Mới trước năm 2000: Nghề truyền thống mặc dù đã thoát khỏi sự kìm kẹp hạn chế của chế độ, tuy nhiên vẫn chưa được chú ý như di sản văn hóa, mà vẫn chỉ sản xuất ra những sản phẩm thiết yếu. Số phận của các nghề dựa theo nhu cầu của xã hội: - Một số nghề truyền thống vẫn phát triển ổn định, do sản phẩm vẫn còn cần thiết cho đời sống dân sinh như đồ gốm, chổi lông gà lông vịt, làm hương, làm thuốc nam, đồ mây tre đan, xây nhà gỗ, làm đồ thờ, khuôn gỗ làm bánh - Các sản phẩm thủ công không còn gắn với đời sống thì ngày càng mai một và biến mất, như nghề dệt quai nón quai thao của làng Triều Khúc, còn nghề làm guốc mộc tại làng thì buộc phải thay đổi mẫu mã theo thị trường, dần dần cách thức và tư liệu về cách chế tác guốc cổ mai một rồi mất hẳn đi. - Các sản phẩm đắt tiền như vải lụa (sa, đoạn, the truyền thống) hoặc sản phẩm tinh xảo, giá trị nghệ thuật cao thì chịu sức ép từ sản phẩm công nghiệp nhập khẩu giá rẻ hơn, điều kiện kinh tế cũng hạn chế sức mua của người dân. Tuy giá bán và giá trị hàng hóa cao, nhưng tiền thu về và biên độ lợi nhuận lại thấp, nếu không bán được hàng thì các gia đình có thể lâm vào cảnh nợ nần. Bởi vậy, sản xuất thủ công dần dần chỉ tập trung trong những nhà đã có nền tảng kinh tế từ sản xuất thủ công tốt, còn tựu chung thì mai một dần trong không gian làng nghề. Các nghệ nhân có cuộc sống khó khăn, tính tinh xảo của sản phẩm cũng suy giảm, do giá bán không thể hiện được giá trị. Quy hoπch & t∏c gi∂ Làng nghề truyền thống tại đồng bằng sông Hồng – Phụ lục Ý tưởng quy hoạch thị xã Sơn Tây tỷ lệ 1/10.000. (Nguồn: De-so, IAU – 2018) Giả thuyết về sự phát triển của phố cổ Hà Nội (Nguồn: R. ORFEUVRE, 2015 d’après TIBOR ALEXY et LUONG TU QUYÊN (chữ nhỏ), 1998 in : fanchette (dir) 2015), p. 48 SË 99 . 201992 Giai đoạn đầu thế kỷ 21: Đây là giai đoạn nhà nước đưa ra nhiều chính sách bảo tồn làng nghề và phát triển sản phẩm thủ công, tuy nhiên trong thời kỳ được coi là phát triển kinh tế nóng hổi này, thị trường chưa mặn mà với các sản phẩm truyền thống. Sức mua mạnh nhưng nhu cầu của người mua hướng đến những sản phẩm giá rẻ, bắt mắt, có tuổi thọ sử dụng cao. Thậm chí, nhiều sản phẩm thiết yếu giai đoạn trước bị thay thế dần bằng sản phẩm công nghiệp, như đồ thờ sơn thếp, khuôn gỗ làm bánh bị thay thế bằng đồ nhựa công nghiệp, dệt vải lụa thay dần bằng buôn bán vải pha sợi tổng hợp. Các làng nghề có sản phẩm giá thành vừa phải như đồ gốm, chổi lông gà lông vịt nhưng cũng thay đổi hướng kinh doanh: Bát Tràng tập trung vào phát triển du lịch, cho ra nhiều dòng sản phẩm lưu niệm từ giá rẻ đến tinh xảo đắt tiền; Triều Khúc thu hẹp không gian làm nghề, vẫn tiếp tục thu mua phụ phẩm từ các nơi khác để tái chế, chuyển hướng sang làm đồ nhựa và thủy tinh, phân loại lông gà lông vịt để xuất khẩu là chính. Trong giai đoạn phát triển kinh tế này, thị trường trong nước không mấy mặn mà với các sản phẩm truyền thống giá trị cao. Trong khi đó, thị trường nước ngoài lại ngày được mở rộng cho các mặt hàng truyền thống mang tính nghệ thuật này. Thời điểm đó, các chính quyền địa phương đã đưa ra chính sách nhằm tạo dựng các điểm công nghiệp làng nghề tập trung, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất lớn. Các hoạt động sản xuất thủ công công nghiệp này thường có chi phí giá thành không đắt và phổ biến tại thị trường giá rẻ. Mặt khác, sự đơn giản hoá tiếp cận quỹ đất đối với các hộ làm nghề thủ công đã gây ra tình trạng lấn chiếm, xây dựng nhà ở ngay trong các điểm công nghiệp này (FANCHETTE, 2016) Giai đoạn ổn định kinh tế từ năm 2010 đến nay: Sau giai đoạn phát triển nóng và phục hồi sau khủng hoảng kinh tế, sức mua và nhận thức xã hội cũng thay đổi ít nhiều, bắt đầu hướng đến các sản phẩm tốt, tinh xảo, ngoài khả dụng còn mang ý nghĩa sưu tầm, trang trí. Giai đoạn này, Chính phủ đã đưa ra hàng loạt chính sách nhằm bảo tồn, phát huy các làng nghề, sản phẩm nghề thủ công truyền thống. Theo báo cáo của UBND TP Hà Nội, trong khoảng từ năm 2009–2015, chính quyền đã thành công trong việc hỗ trợ các hoạt động làm nghề thủ công, nâng cao năng suất và chất lượng của sản phẩm. Nỗ lực của thành phố Hà Nội trong lĩnh vực này có thể kể tới như: Xây dựng 6 điểm công nghiệp, tăng cường hoạt động đào tạo nghề, tổ chức, quảng bá hoạt động thương mại và triển lãm nghề thủ công truyền thống. Tuy nhiên, các đồ án quy hoạch hiện đại, trên lý thuyết, khuyến khích phát triển “làng nghề” bên cạnh các làng thuần nông, thậm chí có thể là hình thức hoạt động thay thế cho làng thuần nông đã mất ruộng đất sau đô thị hóa. Làng nghề dần trở thành một hình thức kinh tế vừa tạo nguồn thu cho nông dân, đóng góp vào sự phát triển kinh tế cho Thành phố, vừa thu hút lao động đáp ứng được mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang hướng tăng dịch vụ và công nghiệp. Đề án Quy hoạch phát triển nghề, làng nghề Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 có tham vọng tạo ra một lớp doanh nhân trẻ - những người trí thức trở về vùng quê của mình sau khi tốt nghiệp đại học, dùng kiến thức để thay đổi cách vận hành kinh tế vùng Bản đồ các làng nghề thuộc Hà Nội và Hà Tây (Nguồn : Jica Mard 2000, enquêtes Casrad / IRD 2006 Conception S. FANCHETTE/M. PASCHIER - Hanoi, future métropole – Rupture de l’intégration urbaine des villages future métropole, p.155 – Dịch : ThS.KTS. Nguyễn Anh Vũ) 93SË 99 . 2019 Quy hoπch & t∏c gi∂ nông thôn, chuyển đổi dần dần những hộ gia đình làm nghề thành các doanh nghiệp nhỏ (PME16) có thương hiệu. Các làng nghề có vị trí phát triển chiến lược trong xu thế phát triển chung của toàn thành phố Hà Nội. Trong tương lai, chắc chắn sẽ có ngày càng nhiều sự xung đột giữa sự mở rộng ngày càng lớn của đô thị và sự tồn tại của vành đai các làng nghề truyền thống này. Sự xung đột này không chỉ thể hiện trong vấn đề cảnh quan đô thị và sự tích hợp của các dự án đô thị mới xung quanh làng xóm cũ mà nó còn được thể hiện qua những lợi ích đối lập của các bên tham gia và bị ảnh hưởng bởi dự án, giữa các giai cấp khác nhau trong xã hội mà các cuộc chạy đua nhà đất tại các không gian đô thị mở rộng tại Hà Nội là một phần điển hình cho xung đột này. Thách thức trong phát triển đô thị tại các làng nghề thủ công truyền thống ven đô tại Hà Nội a) Quy hoạch sử dụng đất đai và sự hình thành của các siêu dự án Trong giai đoạn triển khai xây dựng chương trình nhà ở quốc gia do Bộ Xây dựng thực hiện từ năm 1975 đến năm 1985, tại Hà Nội, mỗi năm xây dựng 80.000 ngôi nhà ở KTT hoặc khu tập thể, các đơn vị nhà ở tập thể chủ yếu dành cho công chức. Sau đó, con số này đã giảm xuống còn 40.000 vào năm 1986. Mặc dù sản lượng nhà ở tại Thủ đô trong suốt ba mươi năm của nền kinh tế tập thể không đủ, phần lớn là do tăng gấp đôi dân số, nhưng cũng do nhiều sự phá hoại trong quá trình đánh bom trong những năm 1966 và 1972. Vào cuối những năm 1980, khi đối mặt với tình trạng nhà nước không có khả năng cung cấp quyền nhà ở được trợ cấp cho công chức (khoảng 30% tổng số nhân viên điều hành và nhân viên chính phủ ở trong khu nhà ở công cộng) và tình trạng xây dựng ồ ạt và không kiểm soát được lan tràn dấn đến sự phát triển của một thị trường chợ đen buôn bán các lô đất xây dựng. Hệ thống khung cứng nhắc về quản lý phi thị trường đối với việc sử dụng đất không thể theo kịp nhu cầu nhà ở ngày càng tăng cùng một công thức hỗn hợp về xây dựng nhà ở sau đó được nhà nước “và nhà nước cùng xây dựng” đánh dấu quá trình chuyển đổi từ một hệ thống quy hoạch sang một hệ thống thúc đẩy sáng kiến cá nhân được đóng khung bởi các dịch vụ công. Một thách thức đáng kể nữa là ở khía cạnh luật pháp. Luật Đất đai 1993 và các nghị định, Luật Đất đai sửa đổi sau đó phải hợp thức hóa nhiều khu đất trống bị lấn chiếm. Ví dụ như trong Luật Đất đai sửa đổi năm 2003, đất đai không có giấy tờ nhưng đã ở ổn định trước năm 1993, không có tranh chấp và phù hợp với các quy hoạch được xem xét hợp thức hóa. Việc chấp nhận hợp thức hóa đất đai này nghiêng về khía cạnh ổn định xã hội, tránh những can thiệp mạnh tay gây tranh chấp giữa nhà nước và người dân trong tình thế sự đã rồi, hơn là mục đích quy hoạch hay thiết kế đô thị. Các quy hoạch treo cũng là cơ hội để người dân tự lấp kín đất đai. Ví dụ như quy hoạch hồ đua thuyền ở bên cạnh bệnh viện Thể thao và sân vận động Mỹ Đình Những sự việc đã xảy ra là đề bài của những bài toán quy hoạch và chính sách trong tương lai, làm nên sắc thái bản địa của mỗi khu vực. So với hai thập kỷ trước, kinh tế của Việt Nam hiện nay đã phát triển vượt bậc, kéo theo những thay đổi về nhận thức xã hội. Nhìn chung, người ta không còn thông cảm, nhìn nhận việc chiếm dụng đất đai như một hành vi sinh tồn, để tìm kiếm cơ hội trong đô thị nữa. Lúc này có thể là thời điểm thích hợp để cách thức quản lý đất đai. SË 99 . 201994 b) Sự chuyển đổi về không gian sản xuất của mỗi gia đình Theo truyền thống, các bí quyết nhà nghề được cất giấu cẩn thận, chỉ truyền cho người nhà. Không gian làm nghề và không gian gắn kết gia đình có thể là vấn đề then chốt trong việc duy trì nghề gia truyền. Từ việc thờ cúng tổ tiên gia đình, tổ nghề, các lễ cầu tài lộc cho nghề phát triển, người làm nghề được no ấm, đến những nơi mà người trong gia đình có thể vừa làm việc vừa nói chuyện với nhau. “Nghề” và những tâm tư thường nhật hòa quyện, gắn bó, không còn sự phân biệt. c) Sự biến đổi không gian bao quanh làng đến từ hoạt động cho thuê nhà ở tại các làng đô thị hoá. Các khu đô thị mới xây dựng với cơ sở vật chất hạ tầng theo tiêu chuẩn, đường xá, vỉa hè rộng rãi. Ngược lại, các làng xóm hiện hữu trong đô thị phát triển trên những con đường cũ nhỏ bé. Sự tiếp giáp giữa hai không gian này không khỏi gợi lên cho chúng ta nhiều suy nghĩ về khoảng cách kinh tế. Khi một dự án quy hoạch được thực hiện, những người đầu tiên được hưởng lợi là những người sống ở rìa làng, nơi những đường lớn mới mở đi qua. Họ mất một phần đất đai, nhưng bù lại miếng đất đó có vị thế kinh doanh thuận lợi. Rìa của làng cũ, nơi trông ra khu đô thị đang xây dựng, sẽ phát triển những dịch vụ dân sinh và hàng hóa phục vụ cho công trường trước mặt. Đó là những cơ hội hiển nhiên, khó từ chối. Những ngôi nhà truyền thống mái ngói, nhà gạch cao 1-2 tầng nhanh chóng được thay thế bằng những ngôi nhà mang dáng dấp đô thị cao ráo, đẹp đẽ hơn. Trước đây, chỉ là những người nghèo, người lang bạt đến làng mới ở miếng đất “chó ỉa bìa làng”, các gia đình khá giả, có vai vế thường ở trong lõi làng, gần chợ, đình làng và những không gian công cộng quan trọng. Đô thị đi qua và lợi thế đã đảo ngược. Các ngôi nhà bơi theo làn sóng “đô thị mới” ngày một cao lên, che lấp đi lõi làng truyền thống bên trong. Sự đô thị hóa cứ thế ăn dần vào trong, ai cũng muốn có ngôi nhà mới hơn, đẹp hơn. Nó đến từ nhu cầu ở tất yếu của mỗi gia đình, nhất là khi họ đã là gia đình nhiều thế hệ. Phát triển dịch vụ và thay đổi theo đô thị dường như là tất yếu. Cũng bởi vậy, các dịch vụ buôn bán năng động nhất đều phát triển ở khu vực giao nhau giữa làng và đô thị, còn các không gian sản xuất theo nghề thủ công và buôn bán sản phẩm thủ công bị đẩy sâu vào trong lõi, trong ngõ ngách giữa làng hoặc các vị trí xa đường lớn nhất. Nghề truyền thống trải qua thăng trầm trong nhiều năm bởi đô thị hóa và quá trình thay đổi kinh tế của đất nước. d) Sự thay đổi không gian cảnh quan Làng mạc trước kia nằm dọc đường thủy: Vì trước kia, đường thủy là phương tiện di chuyển ưu tiên đối với các thương lái, hồi đó họ có thể liên kết với các khu vực lãnh thổ lân cận hoặc với thị thành Hà Nội. Chính vì vậy, trung tâm các làng đều hướng ra các dòng sông mà không hướng ra đường quốc lộ. Hình ảnh làng Văn Chương trong thế kỷ
Tài liệu liên quan