Mở đầu: Vai trò mô bệnh học trong dự đoán biến chứng u nguyên bào nuôi sau chửa trứng. Bệnh nguyên bào nuôi có thể chia thành hai loại hình thái lành tính là chửa trứng hoàn toàn và không hoàn toàn và 3 hình thái ác tính gồm chửa trứng xâm nhập, ung thư biểu mô màng đệm và u nguyên bào nuôi tại vùng rau cắm. Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ mắc bệnh cao, hàng năm có khoảng 9143 trường hợp chửa trứng, trong đó 19-21% biến thành u nguyên bào nuôi các tính. Việc sử dụng hóa liệu pháp cho tất cả các bệnh nhân chửa trứng là không thích hợp. Xác định chửa trứng có nguy cơ cao phát triển thành u nguyên bào nuôi tại thời điểm hút trứng khi hóa liệu pháp dự phòng có thể hữu hiệu là cần thiết. Mục tiêu: Xác định những đặc tính tổ chức học của chửa trứng liên quan tới sự tồn tại bệnh nguyên bào nuôi ngay sau nạo trứng. Đối tượng và phương pháp: Tiến hành nghiên cứu hồi cứu 380 bệnh án và tiêu bản mô bệnh học bệnh nhân chửa trứng toàn phần đã điều trị tại bệnh viện phụ sản trung ương trong 6 năm. Kết quả: Trong số 380 bệnh nhân chửa trứng có 131 trường hợp biến chứng u nguyên bào nuôi đòi hỏi hoá liệu pháp hoặc phẫu thuật, 249 trường hợp khỏi hoàn toàn. Những bệnh nhân biến chứng u nguyên bào nuôi nhận thấy có sự quá sản mạnh nguyên bào nuôi (OR= 2,7), tỷ lệ nhân bất thường tăng (OR= 4,2), sự biệt hoá (OR= 14,3) và tỷ lệ hợp bào/ đơn bào nuôi giảm (OR= 4,2). Tuy nhiên, giữa các hình ảnh tổ chức học có mối quan hệ mật thiết. Mối liên quan vừa và cao giữa các tiêu chuẩn tổ chức học của chửa trứng: Giá trị tuyệt đối của mối quan hệ Spearman thay đổi từ 0,27 - 0,72. Kết luận: Với kết quả của nghiên cứu này, có thể nghĩ tới một phác đồ điều trị và theo dõi thích hợp cho từng bệnh nhân sau nạo trứng dựa trên những đánh giá tổ chức học của tổ chức nạo.
5 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 249 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò mô bệnh học trong dự đoán biến chứng u nguyên bào nuôi sau chửa trứng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 174
VAI TRÒ MÔ BỆNH HỌC TRONG DỰ ĐOÁN BIẾN CHỨNG
U NGUYÊN BÀO NUÔI SAU CHỬA TRỨNG
Lê Quang Vinh*
TÓM TẮT
Mở đầu: Vai trò mô bệnh học trong dự đoán biến chứng u nguyên bào nuôi sau chửa trứng. Bệnh nguyên
bào nuôi có thể chia thành hai loại hình thái lành tính là chửa trứng hoàn toàn và không hoàn toàn và 3 hình thái
ác tính gồm chửa trứng xâm nhập, ung thư biểu mô màng đệm và u nguyên bào nuôi tại vùng rau cắm. Việt
Nam là một trong những nước có tỷ lệ mắc bệnh cao, hàng năm có khoảng 9143 trường hợp chửa trứng, trong
đó 19-21% biến thành u nguyên bào nuôi các tính. Việc sử dụng hóa liệu pháp cho tất cả các bệnh nhân chửa
trứng là không thích hợp. Xác định chửa trứng có nguy cơ cao phát triển thành u nguyên bào nuôi tại thời điểm
hút trứng khi hóa liệu pháp dự phòng có thể hữu hiệu là cần thiết.
Mục tiêu: Xác định những đặc tính tổ chức học của chửa trứng liên quan tới sự tồn tại bệnh nguyên bào
nuôi ngay sau nạo trứng.
Đối tượng và phương pháp: Tiến hành nghiên cứu hồi cứu 380 bệnh án và tiêu bản mô bệnh học bệnh
nhân chửa trứng toàn phần đã điều trị tại bệnh viện phụ sản trung ương trong 6 năm.
Kết quả: Trong số 380 bệnh nhân chửa trứng có 131 trường hợp biến chứng u nguyên bào nuôi đòi hỏi hoá
liệu pháp hoặc phẫu thuật, 249 trường hợp khỏi hoàn toàn. Những bệnh nhân biến chứng u nguyên bào nuôi
nhận thấy có sự quá sản mạnh nguyên bào nuôi (OR= 2,7), tỷ lệ nhân bất thường tăng (OR= 4,2), sự biệt hoá
(OR= 14,3) và tỷ lệ hợp bào/ đơn bào nuôi giảm (OR= 4,2). Tuy nhiên, giữa các hình ảnh tổ chức học có mối
quan hệ mật thiết. Mối liên quan vừa và cao giữa các tiêu chuẩn tổ chức học của chửa trứng: Giá trị tuyệt đối
của mối quan hệ Spearman thay đổi từ 0,27 - 0,72.
Kết luận: Với kết quả của nghiên cứu này, có thể nghĩ tới một phác đồ điều trị và theo dõi thích hợp cho
từng bệnh nhân sau nạo trứng dựa trên những đánh giá tổ chức học của tổ chức nạo.
Từ khoá: Chửa trứng, u nguyên bào nuôi.
ABSTRACT
ROLE OF HISTOPATHOLOGIC EXAMINATION IN PREDICTING GESTATIONAL
TROPHOBLASRIC TUMORS AS COMPLICATION OF HYDATIFORM MOLE
Le Quang Vinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 174 - 178
Introduction: Gestational trophoblastic disease can be divided into two benign form which consist of
complete hydatiform mole and partial hydatiform mole and three malign form namely invasive mole,
choriocarcinoma and placental site trophoblastic tumor. Gestational trophoblastic disease is common in Viet Nam,
an estimated 9143 new molar cases per year, and 19-21% of post molar patients would develop gestational
trophoblastic tumors. Prophylactic chemotherapy for all patients with hydatiform mole would be a powerful
argument and inappropriate. Prophylactic treatment of molar patients might be properly given if patients who are
in high risk group for subsequent gestational trophoblastic tumors could be identified at the time of molar
abortion.
Objective and method: This study, therefore, aimed to determine the association between pathological
characteristics and subsequent development of gestational trophoblastic tumor (GTT) in post – molar patients, we
* Khoa Giải Phẫu Bệnh- Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương
Tác giả liên lạc: TS. Lê Quang Vinh Email: Email: dr.lequangvinh@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 175
conducted a retrospective study of clinical information and histopathological sides for 380 case of original
hydatiform mole (HM) treated at National hospital of Obstetrics and Gynecology during 6 years.
Result: The 380 HM patients composed of 131 who subsequently required chemotherapy or surgery for GTT
and 249 with HM defined as remission by ultimate clinical course. The HM which ultimately developed GTT
demonstrated histological evidence of excessively abnormal proliferative activity (OR= 2.7), high degree of nuclear
atypia (OR= 4.2), less differentiation (OR= 14.3) and ratio of syncytio to cytotrophoblast (OR= 4.2). A high level
of correlation existed among these histological features.
Conclusion: Base on those findings the possibility that the malignant potential of the trophoblast of a
hydatiform mole could be predicted from the original histological appearances.
Key words: Hydatiform mole, Trophoblastic tumor.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một trong những nước trên thế
giới có tỷ lệ chửa trứng cao. Theo báo cáo của
Dương Thị Cương hàng năm số bệnh nhân chửa
trứng trong cả nước là 9143, tỷ lệ chửa trứng
chiếm 1,5/1000 phụ nữ có thai, tỷ lệ tử vong sau
5 năm theo dõi là 12% do chửa trứng xâm nhập
và 25% do ung thư nguyên bào nuôi. Tương tự,
tỷ lệ chửa trứng đã được báo cáo ở một số nước
châu á khác như Nhật Bản: 1,95/1000 phụ nữ có
thai, Phillipines: 1,1/1000 phụ nữ có thai.
Tất cả bệnh nhân chửa trứng toàn phần
(CTTP) được nạo ngay sau khi chẩn đoán, sau
đó phải theo dõi hCG trong nước tiểu liên tục
trong 2 năm để phát hiện biến chứng u nguyên
bào nuôi (UNBN). Tuy nhiên, có 2 vấn đề liên
quan đến phương pháp phát hiện UNBN và
điều trị dự phòng sau nạo trứng.
- UNBN chỉ được phát hiện khi khối u đã
thật sự phát triển.
- Việc sử dụng hoá liệu pháp cho tất cả bệnh
nhân chửa trứng là không thích hợp, vì nó liên
quan đến tỷ lệ nhiễm độc gan cao: 35%
(Goldstein, 1982), trong khi chỉ vào khoảng 20%
(Nguyễn Cận, 1987) bệnh nhân chửa trứng có
biến chứng UNBN. Do vậy việc xác định bệnh
nhân có nguy cơ cao phát triển thành UNBN tại
thời điểm nạo hút trứng khi hoá liệu pháp dự
phòng có thể hữu hiệu là cần thiết.
Mục đích của nguyên cứu: Nhằm xác định
những đặc tính tổ chức học của chửa trứng liên
quan tới sự tồn tại bệnh nguyên bào nuôi ngay
sau nạo trứng, hy vọng làm giảm tỷ lệ phát triển
UNBN sau nạo trứng.
NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nguyên liệu
- Nghiên cứu bệnh - chứng đã được tiến
hành để xem xét sự tồn tại mối quan hệ giữa đặc
điểm tổ chức học của chửa trứng và sự phát
triển UNBN. Đánh giá dựa vào:
+ Tiêu bản tổ chức học và bệnh án lâm sàng
của 380 trường hợp UNBN và CTTP được điều
trị tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương trong 6
năm.
+ Diễn biến lâm sàng của bệnh nhân được
chia thành 2 nhóm: tự khỏi hoặc có biến chứng
UNBN.
- 1440 bệnh nhân với chẩn đoán là chửa
trứng được điều trị hoặc chuyển tới viện để theo
dõi: 1060 bệnh nhân được chẩn đoán là chửa
trứng bán phần hoặc đã được điều trị dự phòng
hoặc là không có tiêu bản tổ chức học không
được tính vào nghiên cứu này. 380 trường hợp
còn lại được chẩn đoán là CTTP và có tiêu bản
tổ chức học, trong đó 131 bệnh nhân có biến
chứng UNBN và 249 trường hợp khỏi. Hầu hết
các trường hợp (92%) được nạo hút trứng, chỉ có
8% sảy trứng tự nhiên. Trong 131 trường hợp
UNBN có 83 trường hợp (63,4%) cắt tử cung
hoàn toàn, trong đó 34,4% được chẩn đoán tổ
chức học là chửa trứng xâm nhập, 29% là
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 176
choriocarcinoma và 48 trường hợp (36,6%) điều
trị bảo tồn bằng hoá chất.
Phương pháp
Tất cả các tiêu bản được cắt ở độ dày 4 5 -
8m và nhuộm HE (hematoxylin - eosin).
Sử dụng tiêu chuẩn hình thái học của Hertig
(1947), bao gồm:
- Mức độ quá sản nguyên bào nuôi.
- Mức độ bất thường của nhân.
- Sự biệt hoá nguyên bào nuôi.
- Tỷ lệ hợp bào/đơn bào nuôi.
- Có hay không hoại tử dạng tơ huyết.
- Có hay không chất hoại tử chảy máu.
Tiêu bản của cả hai nhóm bệnh nhân chửa
trứng có biến chứng ác tính và khỏi hoàn toàn
được đánh giá 2 lần độc lập bởi một bác sĩ giải
phẫu bệnh đã làm việc liên tục tại Bệnh viện
Phụ sản Trung ương 10 năm. Khi đánh giá lại
các tiêu bản, bác sĩ này không được biết kết quả
chẩn đoán cũ, tiến triển lâm sàng của bệnh nhân
chửa trứng và kết luận của lần đánh giá thứ
nhất.
Số liệu được quản lý và phân tích bằng phần
mềm Epi Info và Stata.
Đánh giá sự thống nhất trong chẩn đoán tổ
chức bệnh học chửa trứng giữa 2 lần của bác sĩ
giải phẫu bệnh sử dụng chỉ số Kappa.
Bảng cắt ngang và Pearson’s 2 được dùng
để xem xét mối quan hệ giữa các đặc điểm tổ
chức học của chửa trứng và biến chứng UNBN.
KẾT QUẢ
Sự khác nhau giữa nhóm bệnh và nhóm
chứng trong những đặc điểm nhân khẩu
học và lâm sàng
Bảng 1: Đặc điểm chung của bệnh nhân
Các yếu tố nghiên
cứu
Nhóm bệnh
(n=131)
Nhóm chứng
(n=249) p (
2)
- Nơi ở:
Thành thị 33(25,19%) 100(40,32%) 0,003
Nông thôn 98(74,81%) 148(59,68%)
- Nghề nghiệp:
Công nhân viên chức 32(24,43%) 79(31,73%) 0,003
Nghề tự do 14(10,69%) 56(22,49%)
Nội trợ 6(4,58%) 8(3,21%)
Nông dân 79(60,31%) 106(42,57%)
- Tuổi trung bình 30 7,6 26,2 6,0 < 0,001
- Tuổi có kinh:
12 - 15 50 (38,17%) 136(54,62%) 0,002
16 - 21 81(61,83%) 113(45,38%)
- Số lần có thai:
1 - 2 73(5,72%) 187(75,10%) <0,001
3 58(44,27%) 62(24,90%)
- Số lần sinh:
0 - 2 111(84,73%) 241(75,10%) <0,001
3 20(15,27%) 8(3,21%)
- Nghén 89(68,46%) 141(56,63%) 0,025
- Nang hoàng tuyến 84(64,12%) 37(14,86%) <0,001
- Số lượng trứng nạo
(ml):
100 - 900 59(45,04%) 162(65,06%) <0,001
901 72(54,96%) 87(34,94%)
Sự thống nhất giữa 2 lần đánh giá tiêu bản
chửa trứng độc lập của một bác sĩ giải phẫu
bệnh về các mức độ thay đổi nguyên bào nuôi.
Đối với tất cả các mức độ, hệ số Kappa đều cao
(> 0,9).
Bảng 2: Sự thống nhất của hai lần đánh giá độc lập các tiêu chuẩn mô học
Lần thứ nhất Lần thứ 2 Sự thống nhất
- Quá sản:
Nhẹ
Vừa
Nặng
Nhẹ
101
0
0
Vừa
5
162
1
Nặng
0
0
102
Po = 96,1%
Pe = 35,2%
k = 0,94
- Độ biệt hoá:
> 50%
20 - 50%
< 20%
> 50%
251
0
0
20 - 50%
6
118
0
< 20%
0
1
4
Po = 96,1%
Pe = 54,9%
k = 0,96
- Nhân không điển hình
Nhẹ
187
12
0
Po = 96,32%
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 177
Lần thứ nhất Lần thứ 2 Sự thống nhất
Vừa
Nặng
2
0
166
0
0
13
Pe = 46,9%
k = 0,93
- Chất hoại tử:
Có
Không
Có
260
2
Không
4
114
Po = 97,6%
Pe = 57,4%
k = 0,95
- Hợp bào/Đơn bào:
1
< 1
1
228
2
< 1
7
143
Po = 97,6%
Pe = 57,4%
k = 0,95
- Chất dạng tơ huyết
Có
Không
Có
349
1
Không
2
28
Po = 98,2%
Pe = 85,7%
k = 0,95
Po (Proportion of observed agreement): Sự thống nhất thực tế; Pe (Proportion of chance expected agreement): Sự thống nhất
dự kiến; k (unweighted Kappa): Sự thống nhất giữa hai lần đánh giá.
Mối liên quan vừa và cao giữa các tiêu
chuẩn tổ chức học của chửa trứng
Giá trị tuyệt đối của mối quan hệ Spearman
thay đổi từ 0,27 - 0,72.
Bảng 3: Mối quan hệ giữa các đặc điểm tổ chức học của chửa trứng
Tiêu chuẩn Quá sản Biệt hoá Nhân không điển hình Có hoại tử Hợp bào/ Đơn bào
Quá sản 1
Biệt hoá 0,53 (p<0,001) 1
Nhân không
điển hình
0,65
(p<0,001)
0,67
(p<0,001) 1
Có hoại tử -0,47 (p<0,001)
-0,58
(p<0,001)
-0,50
(p<0,001) 1
Hợp bào/ Đơn
bào
0,61
(p<0,001)
0,72
(p<0,001)
0,65
(p<0,001)
-0,61
(p<0,001) 1
Không có chất
tơ huyết
0,27
(p<0,001)
0,41
(p<0,001)
0,30
(p<0,001)
-0,44
(p<0,001)
0,32
(p<0,001)
Đặc điểm tổ chức học
Các trường hợp chửa trứng có biến chứng
nguyên bào nuôi cho thấy sự quá sản nguyên
bào nuôi với nhân không điển hình nặng hơn,
mức độ biệt hoá nguyên bào và tỷ lệ hợp bào/
đơn bào nuôi giảm và thường không có lớp tơ
huyết. Mặt khác những bệnh nhân này ít thấy
chất hoại tử.
Bảng 4: Đặc điểm tổ chức học của chửa trứng
và nguy cơ phát triển UNBN
Thông số Nhóm bệnh (n=131) Nhóm chứng (n=249) p(2) Tỷ suất chênh thô
(Crude odds ratio)
Quá sản Nhẹ
Vừa
Nặng
22(16,7%)
61(46,5%)
48(36,6%)
79(31,7%)
107(42,9%)
63(25,3%)
0,004 1
2,1(1,1-3,6)
2,7(1,5-5,0)
Nhân không
điển hình
Nhẹ
Vừa
Nặng
41(31,3%)
83(63,3%)
7(5,3%)
148(59,4%)
95(38,1%)
6(2,4%)
< 0,001 1
3,2(2,0-5,0)
4,2(1,3-13,2)
Độ biệt hoá > 50%
20 - 50%
< 20%
55(41,9%)
72(95,9%)
4(3,0%)
196(87,7%)
52(20,08%)
1(0,4%)
< 0,001 1
4,9(3,1-7,9)
14,3(1,6-130,2)
Có chất hoại tử: 71(54,2%) 191(76,7%) < 0,001 0,4 (0,2-0,6)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 178
Không có chất tơ huyết 21(16,09%) 9(3,6%) < 0,001
Hợp bào/Đơn
bào
1
< 1
50 (38,1%)
81(61,8%)
180(72,29%)
69(27,71%)
<0,001 1
4,2(2,3-11,5)
BÀN LUẬN VÀ KẾT LUẬN
Ở Việt Nam, điều trị hoá chất dự phòng cho
tất cả bệnh nhân chửa trứng rất tốn kém và khó
thực hiện. Do đó, việc dự đoán biến chứng
UNBN ngay sau khi nạo trứng dựa trên kết quả
tổ chức học là cần thiết để có thể làm giảm tỷ lệ
bệnh tật, tử vong và giá thành quản lý những
bệnh nhân sau chửa trứng.
Năm 1947, qua nghiên cứu 200 trường hợp
chửa trứng, Hertig và Sheldon lần đầu tiên đã
nhận thấy những biểu hiện tổ chức học của chửa
trứng có khả năng dự đoán tiến triển lâm sàng
của bệnh. Tuy nhiên, Elston (1972) khi nghiên
cứu 70 trường hợp và Genest (1991) khi nghiên
cứu 153 trường hợp nhận thấy những tiêu
chuẩn tổ chức học không đủ để tiên lượng biến
chứng UNBN. Hầu hết các nghiên cứu này được
tiến hành trước năm 1977, khi thấy chửa trứng
bán phần có nguy cơ cao hơn qua nghiên cứu tế
bào học di truyền bởi Vassilakos. Dựa trên
những hiểu biết này, một điều rõ ràng là mối
quan hệ của tiến triển lâm sàng với những tiêu
chuẩn tổ chức học hoàn toàn khác nhau giữa hai
thể chửa trứng. Do vậy những kết quả của
những nghiên cứu trước có thể bị sai lệch vì các
tác giả không phân biệt hai thể trên.
Mặc dù những tiêu chuẩn để phân loại
không tránh khỏi những bất đồng chủ quan
giữa hai lần đánh giá độc lập của một bác sĩ giải
phẫu bệnh, sự bất đồng này đã được kiểm tra
bởi hệ số Kappa và cho thấy chúng rất cao (0,9).
Vì giữa các tiêu chuẩn tổ chức học có mối
quan hệ khăng khít (0,27-0,67) nên khi sử dụng
phương pháp Univariate Analysis để xử lý số
liệu, các tác giả nhận thấy rằng sự quá sản và sự
kém biệt hoá nguyên bào nuôi với nhân không
điển hình, sự có mặt của lớp tơ huyết và tỷ lệ
hợp bào/ đơn bào nuôi liên quan với nguy cơ
phát triển UNBN. Trái lại, sự có mặt của chất
hoại tử lại là yếu tố bảo vệ đối với sự phát triển
UNBN. Điều này trái ngược với những nghiên
cứu trước đây (Hertig 1947; Deligdisch 1978), có
lẽ là do việc sử dụng tiêu chuẩn đánh giá chất
hoại tử khác nhau. Trong nghiên cứu này, chất
hoại tử bao gồm cả từ mẹ và tổ chức trứng,
trong khi ở các nghiên cứu trước chỉ tử tổ chức
mẹ.
Với kết quả của nghiên cứu này, có thể nghĩ
tới một phác đồ điều trị và theo dõi thích hợp
cho từng bệnh nhân sau nạo trứng dựa trên
những đánh giá tổ chức học của tổ chức nạo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Acosta S.H. (1959). Observation which may indicate the etiology
of hydatidiform mole and explain its high incidence in the
Philippines and Asiatic countries. Philippines Journal of Surgery
and Surgical Specialities; 14:290-3.
2. Nguyễn Cận, Nguyễn Thị Xiêm, Đỗ Kim Tòng, Đỗ Bá Dương.
(1987). An epidemiological survey of pregnancies. Cited in
Braken M.Incidence and etiology of hydatidiform mole: An
epidemiological review. Br J Obst Gyn; 94: 1123-35.
3. Dương Thị Cương, (1995). Bệnh nguyên bào nuôi tại Việt Nam;
Tỷ lệ, những biểu hiện lâm sàng và điều trị. Hội nghị tổng kết
nghiên cứu khoa học, Viện Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ sơ sinh.
4. Elston C.W., Bagshawe K.D (1972). The value of histological
finding in the management of hydatidiform mole. J Obst Gyn Br
Common; 79: 717-24.
5. Genest D.R., Laborde O., Berkowitz R.S., Goldstein D.P.,
Bernstein M.R. et al. (1991). A clinicopathologic study of 153
cases of complete hydatidiform mole (1980-1990): Histologic
grade lacks prognostic significance. Obst Gyn; 78: 402-9.
6. Goldstein D.P. (1982). Gestational Trophoblastic Neoplasms:
Clinical Principles of Diagnosis and Management. W.B.Saunder
company, Philadelphia; Vol 14, chap 7: 143 - 75.
7. Hertig A.T., Shaldon W.H. (1947). Hydatidiform mole - a
pathologicao-clinical correlation of 200 cases. Am J Obst Gyn; 53,
1: 1-36.
8. Vassilkos P., Riotton G., Kajii T. (1977). Hydatidiform mole: Two
entities: A morphologic and cytogenetic study with some clinical
considerations. Am J Obst Gyn; 127: 167-70.