The paper presents a viewpoint about water surply possibility of
Hanoi’s underground aquifers and the efectiveness of water surply
projects from Da and Duong rivers. The paper points out that up to now
only 17% of Hanoi’s water undeground resource were exploited and the
way the most effective for supplementary surplying Hanoi water is from
Da river.
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 253 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề đảm bảo an ninh nước sạch của Thủ đô Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1 - 2021 4
VẤN ĐỀ ĐẢM BẢO AN NINH NƯỚC SẠCH
CỦA THỦ ĐÔ HÀ NỘI
NGUYỄN VĂN TÚC*
On the security problem of Hanoi clean underground water
Abstract: The paper presents a viewpoint about water surply possibility of
Hanoi’s underground aquifers and the efectiveness of water surply
projects from Da and Duong rivers. The paper points out that up to now
only 17% of Hanoi’s water undeground resource were exploited and the
way the most effective for supplementary surplying Hanoi water is from
Da river.
Để sống con ngƣời phải ăn, uống và thở an
toàn. Vậy vấn đề an ninh nƣớc sạch cho thủ đô
Hà Nội - Trung tâm chính trị - văn hóa - kinh tế
của cả nƣớc cần phải đƣợc các cấp, các ngành
và mọi ngƣời đặc biệt quan tâm. *
1. NƢỚC NGẦM LÀ NGUỒN NƢỚC
TỐT N ẤT ẢM ẢO AN N N NƢỚC
SẠC CỦA T Ủ Ô
1.1. à Nội có trữ lƣợng nƣớc ngầm rất
lớn - đạt trên 8 2 triệu m3/ngày
Theo số liệu điều tra và thống kê của Dự án
xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên nước trên địa
phận TP.Hà Nội” do Sở Tài nguyên và Môi
trƣờng Hà Nội thực hiện và hoàn thành vào năm
2011 đã cho thấy, tổng trữ lƣợng (tiềm năng)
nƣớc ngầm trên địa bàn TP. Hà Nội đạt trên 8,2
triệu m3/ngày (bảng 1)
Nhƣ vậy, tổng trữ lƣợng (tiềm năng) nƣớc
ngầm của Hà Nội là 8.243.000 m3/ngày, trong
đó riêng của tầng chứa nƣớc cát cuội sỏi (tầng
chứa nƣớc qp theo cách gọi của các nhà ĐCTV)
nằm ở độ sâu trung bình từ 30 - 40m đến 60 -
80m là tầng chứa nƣớc chính đang đƣợc khai
thác từ hơn 1 thế kỉ nay đáp ứng mọi nhu cầu
cấp nƣớc của toàn Thành phố có trữ lƣợng là
* PCT Hội Địa chất Thủy văn Việt Nam
Số 10 ngõ 42 Đường Trần Cung - Cầu Giấy - Hà Nội
5.849.000 m
3
/ngày và chỉ riêng trữ lƣợng khai
thác cuốn theo nhận bổ cấp trực tiếp từ sông
Hồng đã đạt 4.711.000m3/ngày.
Ở Việt Nam, không có thành phố hoặc tỉnh
nào có trữ lƣợng nƣớc ngầm phong phú nhƣ Hà
Nội và là nguồn nƣớc tốt nhất đảm bảo an ninh
nƣớc sạch đủ cấp cho các nhu cầu dùng nƣớc
của Thủ đô đến giữa thế kỷ 21.
2.2. Hà Nội mới khai thác tập trung
khoảng 17% số trữ lƣợng nƣớc ngầm của
tầng chứa nƣớc cuội sỏi (qp) đã đƣợc khai
thác từ hơn 1 thế kỷ nay
Trên lãnh thổ Việt Nam, không ở đâu có
nguồn nƣớc ngầm có trữ lƣợng phong phú và
khai thác dễ dàng, thuận tiện và kinh tế nhƣ ở
Hà Nội, đã đƣợc ngƣời Pháp đƣa vào khai
thác sử dụng từ cuối thế kỉ thứ 19 (năm 1895)
để xây dựng Nhà máy nƣớc Yên Phụ nằm bên
bờ sông Hồng đáp ứng các nhu cầu cấp nƣớc
của đô thị Hà Nội từ lúc bấy giờ. Cho đến nay,
theo số liệu điều tra của Dự án xây dựng cơ sở
dữ liệu tài nguyên nước trên địa phận TP. Hà
Nội do Sở Tài nguyên và Môi trƣờng Hà Nội
thực hiện và hoàn thành vào năm 2011 cho
thấy, tổng lƣợng khai thác nƣớc ngầm trên địa
bàn TP. Hà Nội đã đạt khoảng 1,8 triệu
m
3/ngày (xem bảng 2).
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1 - 2021 4
ảng 1. Trữ lƣợng (tiềm năng) nƣớc ngầm của TP. à Nội
TT
Vùng tính
toán
Trữ lƣợng
động tự nhiên
(10
3
m
3
/ngày)
Trữ lƣợng
tĩnh tự nhiên
(10
3
m
3
/ngày)
Trữ lƣợng
tĩnh đàn hồi
(10
3
m
3
/ngày)
Trữ lƣợng
cuốn theo
(10
3
m
3
/ngày)
Tổng trữ lƣợng
(tiềm năng)
(10
3
m
3
/ngày)
I Tầng chứa nƣớc cát hệ tầng Thái ình (qh)
1
Bắc
sông Hồng -
Sông Đuống
467 8 475
234
2 Gia Lâm 231 4 1.685
3 Nam
sông Hồng
1.625 60
Tổng 2.323 72 2.394
II Tầng chứa nƣớc cát cuội sỏi hệ tầng à Nội (qp)
1
Bắc
sông Hồng-
Sông Đuống
410
120
1.323
1.654
2 Gia Lâm 128 12.3 660 800
3 Nam
sông Hồng
623 43.3 2.728 3.395
Tổng 1.161 676 4.711 5.849
III Nƣớc ngầm trong các tầng đá gốc
1 Ba Vì 50 50
2 Sóc Sơn 68 68
Tổng trữ
lƣợng vùng
Hà Nội
3.486
72
67.6
4.711
8.243
ảng 2. Tổng lƣợng khai thác nƣớc ngầm TP. à Nội
TT
Loại hình khai thác và đơn vị
quản lý
Loại công trình
khai thác
Số lƣợng
công trình
Lƣợng khai thác
(m
3
/ngày)
1
Khai thác công nghiệp tập trung
Các NMN do các công ty nƣớc
sạch Hà Nội quản lí: Hà Nội 1,
Hà Nội 2, Hà Đông và Sơn Tây.
Giếng khoan
đƣờng kính lớn
279
669.000
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1 - 2021 5
TT
Loại hình khai thác và đơn vị
quản lý
Loại công trình
khai thác
Số lƣợng
công trình
Lƣợng khai thác
(m
3
/ngày)
2
Khai thác công nghiệp đơn lẻ
Các trạm cấp nƣớc do các cơ
quan, xí nghiệp, trƣờng học, bệnh
viện quản lý
Giếng khoan
đƣờng kính lớn
đến trung bình
1.102
312.728
3
Cấp nước sạch nông thôn
Giếng khoan mini
đƣờng kính nhỏ,
giếng đào
793.637
797.682
Tổng cộng 1.779.410
Nhƣ vậy, tổng lƣợng khai thác nƣớc ngầm
toàn Thành phố đến năm 2011 mới chỉ có
1.779.410m
3/ngày, chiếm khoảng 21,8% tổng
trữ lƣợng nƣớc ngầm của toàn Thành phố là
8.243.000m
3
/ngày.
Trong tổng số lƣợng nƣớc ngầm đƣợc khai
thác là 1.779.410m
3
/ngày, thì lượng nước khai
thác công nghiệp (khai thác tập trung do các
Công ty nƣớc sạch, cơ quan, xí nghiệp quản lí)
từ tầng chứa nƣớc cát cuội sỏi (qp) chỉ có
981.728m
3
/ngày và tập trung ở các quận nội
thành vùng bờ Nam Sông Hồng, nghĩa là cũng
chỉ khai thác có 16,8% trong tổng số trữ lƣợng
của tầng chứa nƣớc cuội sỏi (qp) là
5.849.000m
3
/ngày.
Tất cả những điều đó nói lên rằng, nguồn
nước ngầm của Hà Nội đang bị khai thác cạn
kiệt là võ đoán và không có cơ sở khoa học. Trữ
lượng nước ngầm của Hà Nội đủ đáp ứng mọi
nhu cầu cấp nước của Thành phố đến những
năm 2030 - 2050.
3.3. Trữ lƣợng nƣớc ngầm ở phần bờ ắc
sông ồng hoàn toàn đáp ứng các nhu cầu
cấp nƣớc của vùng này khi đƣợc đô thị hóa
Kết quả điều tra thăm dò và khai thác sử
dụng nguồn nƣớc ngầm trên địa phận TP. Hà
Nội suốt hơn 1 thế kỉ qua đã cho thấy, điều
kiện ĐCTV ở 2 phần bờ Bắc và Nam sông
Hồng thuộc địa phận TP. Hà Nội tƣơng tự
nhau và trên toàn lãnh thổ Việt Nam không ở
đâu có nguồn nƣớc ngầm có trữ lƣợng phong
phú và dễ dàng khai thác thuận tiện và kinh tế
nhƣ ở vùng Hà Nội, trong đó trữ lƣợng (tiềm
năng) nƣớc ngầm của chỉ riêng tầng chứa
nƣớc cát cuội sỏi (tầng qp) của phần bờ Bắc
sông Hồng - sông Đuống là 1.654.000
m
3/ngày. Trong khi đó, ở vùng Đông Anh
hiện nay mới chỉ xây dựng có 2 NMN khai
thác nƣớc ngầm gồm: Đông Anh đƣợc xây
dựng ở khu vực thị trấn Đông Anh công suất
22.000 m
3/ngày và Bắc Thăng Long đƣợc xây
dựng ở Khu công nghiệp Bắc Thăng Long
công suất 50.000 m3/ngày, nhƣng chỉ mới
khai thác có 37.000 m
3/ngày. Nghĩa là, toàn
vùng Đông Anh chỉ mới khai thác có 59.000
m
3/ngày trong tổng số trữ lƣợng nƣớc ngầm
của vùng này là 1.654.000 m3/ngày, mới
chiếm có 0,03% trữ lƣợng nƣớc ngầm đƣợc
phép khai thác.
Khi vùng Đông Anh đƣợc công nghiệp hóa
và đô thị hóa, đầu tiên sẽ là Khu đô thị dọc 2
bên đại lộ Võ Nguyên Giáp từ cầu Nhật Tân đi
sân bay Nội Bài, thì chỉ cần khai thác nƣớc
ngầm ở dải đất ngoài đê bờ Bắc sông Hồng
thuộc địa phận 2 xã Vĩnh Ngọc và Tầm Xá nằm
ngay dƣới chân cầu đầu bắc cầu Nhật Tân cũng
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1 - 2021 6
đủ cấp nƣớc cho mọi nhu cầu của Khu đô thị dài
hơn 10km này.
Thực tế khai thác nƣớc ngầm ở phần đất đầu
Nam cầu Nhật Tân trong hơn 30 năm qua đã
cho thấy tính ƣu việt của giải pháp khai thác
nƣớc ngầm ở những dải đất ven bên bờ sông
Hồng. Cụ thể: NMN Yên Phụ với 33 giếng
khoan của bãi giếng Nhật Tân đã khai thác
được 90.000m3/ngày, nhwng NMN Mai Dịch
với 31 giếng khoan chỉ khai thác được có
60.000m
3/ngày hoặc cùng với công suất khai
thác nước ngầm là 60.000 m3/ngày, nhưng ở
NMN Mai Dịch thì mực nước ngầm hạ tới độ
sâu - 28,1m, còn ở NMN Cáo Đỉnh chỉ có -
6,12m, chênh nhau tới 22,0m.
Tất cả những điều đó nói lên tính khả thi và
độ an toàn, ổn định của việc khai thác sử dụng
nguồn nƣớc ngầm tại chỗ, đáp ứng đủ nhu cầu
cấp nƣớc của vùng đất Đông Anh khi đƣợc công
nghiệp hóa và đô thị hóa. Không có giải pháp
nào kinh tế hơn, kịp thời hơn và an toàn hơn và
có thể tránh đƣợc mọi sự cố lún nứt có thể xảy
ra trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa
vùng đất này. Bởi lẽ, quá trình đô thị hóa không
thể tiến triển ồ ạt để cùng một lúc cần 1 lƣợng
nƣớc lớn 100.000 - 200.000 m3/ngày để cấp cho
các Khu đô thị mới đƣợc xây dựng, mà nhu cầu
cấp (dùng) nƣớc sẽ tăng lên từ từ theo quá trình
phát triển đô thị. Vậy chỉ có khai thác sử dụng
nƣớc ngầm mới kinh tế và hợp lý. Nghĩa là, cứ
xây dựng dần từng đơn nguyên 30.000m3/ngày
từ nguồn nƣớc ngầm trong suốt quá trình phát
triển đô thị nhƣ đã làm ở phần bờ Nam. Nghĩa
là, bắt đầu là 30.000m3/ngày, rồi 60.000m3/ngày
và 90.000m
3
/ngày cho tới 150.000 -
180.000m
3/ngày. Tính ƣu việt này nếu sử dụng
nguồn nƣớc mặt (sông Hồng - sông Đuống), thì
không làm sao có thể thực hiện đƣợc. Bởi lẽ,
nếu sử dụng nguồn nƣớc mặt thì phải xây dựng
những nhà máy nƣớc có công suất lớn, ít nhất
150.000 - 300.000 m
3/ngày mới đạt hiệu quả và
kinh tế, giá thành nƣớc sạch mới không cao,
nhƣng lại không có nơi tiêu thụ cùng một lúc
một số lƣợng lớn nƣớc sạch nhƣ vậy sản xuất ra.
Nhưng quan trọng hơn cả là không đảm bảo
an ninh nước sạch do nguồn nước cấp không
đảm bảo.
2. N À M Y NƢỚC SÔNG À CÓ
NGUỒN NƢỚC CẤP (NƢỚC T Ô) ẢM
ẢO AN N N NƢỚC SẠC CẤP C O
T Ủ Ô À NỘ
Ngay sau những ngày miền Nam đƣợc giải
phóng, vào cuối những năm 70 của thế kỷ trƣớc
tác giả bài viết này đã đƣợc giao nhiệm vụ tìm
kiếm nguồn nƣớc ngầm ở những khu vực từ
Xuân Mai qua Hòa Lạc lên Sơn Tây để phát
triển thủ đô Hà Nội về phía Tây dựa vào dãy núi
Ba Vì sau khi quốc lộ 21 do Cu Ba giúp xây
dựng xong. Kết quả nghiên cứu cho thấy, những
vùng này rất nghèo nƣớc ngầm.
Bƣớc vào những năm 90 của thế kỷ trƣớc,
đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ đổi mới mở cửa
mạnh mẽ và thủ đô Hà Nội có xu hƣớng mở
rộng về phía Tây. Bởi vậy, tác giả đã đề xuất
giải pháp “Nguồn nước cấp cho Hà Nội và các
vùng phụ cận vào thế kỷ 21” là nƣớc sông Đà,
chứ không phải là nƣớc sông Hồng chảy qua
giữa lòng Thành phố (Báo Hà Nội mới chủ nhật,
ngày 31/3/1996).
Bảy năm sau, Quyết định số 1285/CP-CT
cho phép đầu tƣ xây dựng “Dự án cấp nước
chuỗi đô thị Sơn Tây - Hòa Lạc - Xuân Mai -
Miếu Môn - Hà Đông - Hà Nội” do Tổng công
ty VINACONEX Bộ Xây dựng làm chủ đầu tƣ
với công suất cấp nƣớc giai đoạn I là
600.000m
3/ngày, sau đó đƣợc nâng lên
1.200.000m
3
/ngày.
Năm 2009, giai đoạn I công suất
300.000m
3/ngày của NMN sông Đà đã đƣợc
hoàn thành và ngƣời dân ở những khu vực phía
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1 - 2021 7
Tây thành phố đã đƣợc cấp nƣớc sạch. Tuy vậy,
trong quá trình khai thác sử dụng, thậm chí ngay
từ những năm đầu tiên đã xảy ra sự cố ở 3 hạng
mục công trình, gồm: Trạm bơm nƣớc thô lấy
nƣớc từ sông Đà, Hồ sơ lắng nƣớc thô và Tuyến
đƣờng ống chính dẫn nƣớc sạch để phân phối đi
các nơi tiêu thụ. Tất cả các sự cố xảy ra đều do
các khâu thiết kế và thi công xây dựng gây nên.
Trong đó, sự cố vỡ đƣờng ống dẫn nƣớc sạch là
rất nghiêm trọng và hiện tại đã xảy ra đến hơn
30 lần và chắc chắn sẽ vẫn còn xảy ra tiếp nữa
nếu không đƣợc khắc phục triệt để từ gốc.
Khi xảy ra sự cố vỡ đƣờng ống dẫn nƣớc
sạch sông Đà, UBND TP. Hà Nội đã có chủ
trƣơng đầu tƣ xây dựng 1 hệ thống cấp nƣớc
sạch số 2 từ NMN sông Đà công suất
600.000m
3/ngày để đảm bảo cấp nƣớc sạch cho
TP. Hà Nội và khi cần thiết có thể chuyển tải
nƣớc sạch sang bờ Bắc sông Hồng.
Tóm lại, xét về nguồn nƣớc thô để sản xuất
nƣớc sạch, thì ở vùng Hà Nội sau nguồn nước
ngầm chỉ có nguồn nước sông Đà là có độ an
toàn đảm bảo an ninh nước sạch cấp cho thủ đô
Hà Nội.
3. N À M Y NƢỚC SÔNG UỐNG
K ÔNG ẢM ẢO AN N N NƢỚC
SẠC CẤP C O T Ủ Ô À NỘ
Vấn đề xây dựng NMN sử dụng nguồn nƣớc
mặt không phải đến những năm gần đây mới
đƣợc đề cập đến, mà ngay từ giữa những năm
90 của thế kỷ trƣớc tác giả bài viết này đã đề
xuất giải pháp sử dụng nguồn nƣớc sông Đà để
sản xuất nƣớc sạch cấp cho TP. Hà Nội, trƣớc
mắt là những khu vực nằm về phía Tây Thành
phố do rất nghèo nguồn nƣớc ngầm, mà không
dùng nƣớc sông Hồng chảy qua giữa lòng
Thành phố, nhƣ đã trình bày ở phần trên.
Tuy vậy, ngày 10/6/2003 tại Tờ trình số
33/TTr-UB, Ủy ban nhân dân thành phố Hà
Nội vẫn trình Thủ tƣớng Chính phủ “Báo cáo
nghiên cứu tiền khả thi Dự án xây dựng nhà
máy nước mặt” công suất đợt đầu 150.000
m
3
/ngày và sau này nâng lên 300.000 m
3
/ngày
từ nguồn nƣớc sông Hồng đặt tại xã Thƣợng
Cát, huyện Từ Liêm, Tp. Hà Nội do Công ty
kinh doanh nƣớc sạch Hà Nội làm chủ đầu tƣ
và Công ty Nƣớc và Môi trƣờng Việt Nam
thuộc Bộ Xây dựng lập Báo cáo nghiên cứu
tiền khả thi.
Về Dự án xây dựng Nhà máy nƣớc mặt này,
ngày 24/8/2003 Tờ trình gửi tới Lãnh đạo các
cấp của TP. Hà Nội, đã phân tích và kiến nghị
không nên xây dựng Nhà máy nƣớc mặt từ nguồn
nƣớc sông Hồng đạt tại xã Thƣợng Cát, huyện Từ
Liêm, mà tại đó nên xây dựng một NMN sử dụng
nguồn nƣớc ngầm công suất 60.000 m3/ngày nhƣ
NMN Cáo Đỉnh vừa xây dựng xong. Đến nay,
tại xã Thƣợng Cát, quận Bắc Từ Liêm 1 bãi
giếng khai thác nƣớc ngầm công suất 60.000
m
3/ngày đã đƣợc xây dựng, mà không xây dựng
NMN mặt sông Hồng.
Nhƣng đến năm 2011, Dự án xây dựng NMN
sông Đuống công suất 300.000m3/ngày (đợt I,
150.000m
3/ngày) đặt ở bờ Bắc sông Đuống, trên
địa phận đất xã cuối cùng của huyện Gia Lâm,
TP. Hà Nội do Tổng công ty đầu tƣ Nƣớc và
Môi trƣờng Việt Nam, Bộ Xây dựng làm Chủ
đầu tƣ và Công ty tƣ vấn xây dựng
VINACONEX lập Dự án lại đƣợc đệ trình lên
UBND thành phố Hà Nội.
Cùng thời gian này, ngày 18/11/2011 UBND
thành phố Hà Nội và Bộ Xây dựng đã tổ chức
Hội nghị chung thống nhất việc thực hiện Qui
hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm
2030 và tầm nhìn đến năm 2050 đã đƣợc Thủ
tƣớng Chính phủ phê duyệt sau khi Hà Nội
đƣợc mở rộng và lập các qui hoạch chuyên
ngành, trong đó có qui hoạch tổng thể cấp nƣớc
Thủ đô Hà Nội.
Ngày 02/12/2011 Tờ trình về “Vấn đề trữ