Sau gần 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần 2 – Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII), ngành giáo dục Việt Nam có những chuyển biến quan trọng và đang bước vào thời kỳ phát triển mới. Mạng lưới trường lớp tiếp tục được duy trì, phát triển với hình thức đa dạng hơn, ngày càng nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu học tập của con em trong nhân dân.
Quy mô giáo dục không ngừng được điều chỉnh cho phù hợp với các điều kiện thực tiễn, đồng thời đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng đào tạo trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ. Từ những cố gắng, nỗ lực của ngành giáo dục đào tạo, đến nay ở Việt Nam đã dần khắc phục tình trạng mất cân đối về cơ cấu cấp học, bậc học, hoàn thành kế hoạch xoá mù chữ trong cả nước, gắn liền với phổ cập giáo dục tiểu học và đẩy mạnh phổ cập trung học cơ sở.
Nhằm xây dựng một nền giáo dục phát triển toàn diện, phù hợp với thực tiễn cũng như phù hợp với trình độ dân trí, ngành giáo dục đào tạo Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước luôn đưa ra những chính sách phù hợp và cần thiết đối với sự phát triển chung của nền giáo dục nước nhà. Nằm trong xu thế đó, việc đổi mới sách giáo khoa được xem như một tất yếu. Bởi trước hết nó mang tính lịch sử - đã đến lúc sách giáo khoa phổ thông phải được đổi mới nhằm bám sát sự phát triển chung về kinh tế – xã hội của đất nước. Thứ hai, sách giáo khoa phải đổi mới bởi đây là thời điểm sách giáo khoa phổ thông cũ bộc lộ những bất cập về cả nội dung, hình thức, lẫn cách phân bố chương trình.
25 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1751 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vấn đề đổi mới sách giáo khoa trên giáo dục hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA BÁO CHÍ
---------------
NIÊN LUẬN
VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI SÁCH GIÁO KHOA TRÊN GIÁO DỤC HIỆN ĐẠI
Giáo viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện :
Lớp :
PHẦN I. LỜI MỞ ĐẦU
Sau gần 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần 2 – Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII), ngành giáo dục Việt Nam có những chuyển biến quan trọng và đang bước vào thời kỳ phát triển mới. Mạng lưới trường lớp tiếp tục được duy trì, phát triển với hình thức đa dạng hơn, ngày càng nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu học tập của con em trong nhân dân.
Quy mô giáo dục không ngừng được điều chỉnh cho phù hợp với các điều kiện thực tiễn, đồng thời đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng đào tạo trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ. Từ những cố gắng, nỗ lực của ngành giáo dục đào tạo, đến nay ở Việt Nam đã dần khắc phục tình trạng mất cân đối về cơ cấu cấp học, bậc học, hoàn thành kế hoạch xoá mù chữ trong cả nước, gắn liền với phổ cập giáo dục tiểu học và đẩy mạnh phổ cập trung học cơ sở.
Nhằm xây dựng một nền giáo dục phát triển toàn diện, phù hợp với thực tiễn cũng như phù hợp với trình độ dân trí, ngành giáo dục đào tạo Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước luôn đưa ra những chính sách phù hợp và cần thiết đối với sự phát triển chung của nền giáo dục nước nhà. Nằm trong xu thế đó, việc đổi mới sách giáo khoa được xem như một tất yếu. Bởi trước hết nó mang tính lịch sử - đã đến lúc sách giáo khoa phổ thông phải được đổi mới nhằm bám sát sự phát triển chung về kinh tế – xã hội của đất nước. Thứ hai, sách giáo khoa phải đổi mới bởi đây là thời điểm sách giáo khoa phổ thông cũ bộc lộ những bất cập về cả nội dung, hình thức, lẫn cách phân bố chương trình.
Mặc dù được xem như một tất yếu nhưng vấn đề đổi mới sách giáo khoa không dễ dàng được chấp nhận, vì trong dư luận xã hội có rất nhiều ý kiến khác nhau. Nói một cách khác, vấn đề đổi mới sách giáo khoa đã làm thay đổi và ảnh hưởng rất lớn đến nhịp độ phát triển chung của nền giáo dục; do vậy, không phải dễ dàng đặt ra và cũng không dễ dàng thực hiện. Nó phải trải qua một thời kỳ đấu tranh giữa mặt yếu và mặt mạnh; giữa cái tích cực, tiến bộ và cái tiêu cực, lạc hậu; giữa cái thuận lợi và cái khó khăn...để rồi đi đến quyết định “đổi mới hay không đổi mới?”.
Đứng trước câu hỏi này, báo Giáo dục và Thời đại - tiếng nói của ngành Giáo dục và Đào tạo Việt Nam; diễn đàn toàn xã hội vì sự nghiệp giáo dục - đã tham gia vào quá trình đi tìm lời giải đáp. Là một cơ quan báo chí, báo Giáo dục và Thời đại thể hiện rõ chức năng nhiệm vụ của mình. Trước hết, tờ báo không chỉ truyền đạt các thông tin của cơ quan lãnh đạo nhằm phổ biến, giải thích đường lối chính sách mà còn làm tốt chức năng diễn đàn của nhân dân. Từ khi đặt ra vấn đề đổi mới sách giáo khoa phổ thông, tờ báo càng trở nên sinh động, hấp dẫn người đọc, bởi nó thực sự là khâu trung gian truyền tải thông tin hai chiều: từ các cơ quan chức năng đến công chúng và ngược lại. Tờ báo hướng đến sự hình thành dư luận xã hội, đồng thời là kênh thể hiện dư luận xã hội, từ đó thúc đẩy sự phát triển của vấn đề đặt ra. Đặc biệt, báo Giáo dục và Thời đại đã tạo nên mối quan tâm của công chúng khi vấn đề đổi mới sách giáo khoa là vấn đề cấp bách và có ý nghĩa chiến lược lâu dài của nền giáo dục Việt Nam hiện đại.
Để làm rõ những đóng góp của tờ báo trong việc đổi mới sách giáo khoa phổ thông, chúng tôi tiến hành xây dựng tiểu luận: “Vấn đề đổi mới sách giáo khoa trên báo Giáo dục& Thời đại”. Tiểu luận này được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Giáo viên hướng dẫn với bố cục như sau:
Phần I: Lời mở đầu.
Phần II: Hoàn cảnh thực tiễn đổi mới sách giáo khoa.
Phần III: Vai trò, ý nghĩa của báo Giáo dục và Thời đại trong việc đổi mới sách giáo khoa.
Phần IV: Kết luận.
Mục lục.
Phụ lục.
Tài liệu tham khảo.
Mặc dù được sự hướng dẫn tận tình của Giáo viên hướng dẫn, nhưng do thời gian còn hạn chế, lại trong một dung lượng nhỏ (19 trang), chắc chắn niên luận cuối khóa này chưa thể khảo sát hết những vấn đề xung quanh việc đổi mới sách giáo khoa. Người thực hiện rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo, các bạn sinh viên nhằm hoàn thiện hơn nữa tiểu luận này.
Xin trân trọng cảm ơn!
PHẦN II. HOÀN CẢNH THỰC TIỄN ĐỔI MỚI SÁCH GIÁO KHOA.
I . Sự cần thiết phải đổi mới sách giáo khoa.
1. Cơ sở văn hoá của sự đổi mới.
Được sự đồng ý của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và sự uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có tờ trình Quốc hội về “Chủ trương đổi mới chương trình sách giáo khoa của giáo dục phổ thông”. Trong tờ trình, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra những lý do cơ bản dẫn đến sự cần thiết phải soạn thảo chương trình và sách giáo khoa mới của giáo dục phổ thông. Nội dung tờ trình nêu rõ: “Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đặt ra mục tiêu phát triển nguồn lực con người Việt Nam cả về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Có như vậy mới đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế xã hội, ổn định an ninh quốc phòng. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu đó trước hết Việt Nam phải chăm lo phát triển nguồn lực con người, chuẩn bị lớp người lao động có phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Điều này làm được chỉ có thể bắt đầu từ giáo dục phổ thông.”
Cơ sở của việc đổi mới còn được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương lần thứ II (khoá VIII) của Đảng cộng sản Việt Nam. Nghị quyết khẳng định những giá trị mới của nền kinh tế thị trường cùng với các giá trị truyền thống đã được kết tinh trong mục tiêu giáo dục phổ thông nêu trong Luật giáo dục, cần thể hiện trước hết trong chương trình và sách giáo khoa phổ thông. Vì vậy xác định lại mục tiêu, thiết kế lại chương trình, kế hoạch, nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo cụ thể của từng bậc học, cấp học, ngành học là một trong những chủ trương, chính sách biện pháp lớn để tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Không những thế xu hướng phát triển chương trình và đổi mới quan niệm về sách giáo khoa của giáo dục phổ thông trong khu vực và trên thế giới đã trở thành đòi hỏi bức xúc buộc ngành giáo dục Việt Nam phải khẩn trương điều chỉnh cách soạn thảo chương trình và cách biên soạn sách giáo khoa cho phù hợp với điều kiện Việt Nam. Có thể nói, trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội ngày càng đổi mới đã làm thay đổi quan niệm và cách biên soạn, cách sử dụng sách giáo khoa. Sách giáo khoa trở thành tài liệu định hướng và hỗ trợ cho sự tự học, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh tri thức mới và thực hành theo năng lực của người học. Các thông tin trong sách giáo khoa thường đa dạng và phong phú, được đưa ra qua các dạng gợi mở, đòi hỏi người học phải có tư duy linh hoạt, có óc phê phán mới có thể phát hiện và giải quyết được những vấn đề đặt ra. Mặt khác, trước những thách thức của xu thế toàn cầu hoá, chương trình phổ thông của các nước trong khu vực đều rất coi trọng các môn ngoại ngữ, tin học, các kỹ năng giao tiếp... Do vậy, tất cả những yếu tố trên đây đã tác động mạnh mẽ đến quá trình đổi mới, biên soạn mới sách giáo khoa cho các cấp học phổ thông ở nước ta.
Một lý do khác không thể không kể đến khi nói đến sự cần thiết phải đổi mới sách giáo khoa, đó là: chương trình và sách giáo khoa hiện hành đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của chúng trong giai đoạn thống nhất hệ thống giáo dục phổ thông trong phạm vi cả nước, góp phần quan trọng vào quá trình phổ cập và nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông mà bắt đầu từ giáo dục tiểu học. Để đáp ứng những yêu cầu đổi mới về mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục nêu trong các Nghị quyết Trung ương lần thứ tư (khoá VII), lần thứ hai (khoá VIII) và nêu trong Luật giáo dục, cần phải khẩn trương đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông, coi đây là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện phổ cập trung học cơ sở và tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông.
2. Mục tiêu của việc đổi mới sách giáo khoa.
Đổi mới sách giáo khoa cùng với việc đổi mới chương trình, phương pháp giáo dục phổ thông nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam; tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Từ mục tiêu đề ra như trên, cộng với tờ trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quốc hội đã xem xét, thông qua các ý kiến và đưa ra “Nghị quyết về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông” (Nghị quyết số 40/2000/QH- 10 ban hành tại kỳ họp Quốc hội thứ 8 – khoá X). Nghị quyết khẳng định: “Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông phải quán triệt mục tiêu, yêu cầu nội dung, phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học quy định trong Luật giáo dục; khắc phục những mặt còn hạn chế của chương trình, sách giáo khoa hiện hành; tăng cường tính thực tiễn, kỹ năng thực hành, năng lực tự học; coi trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn; bổ sung những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh. Không những thế phải đảm bảo sự thống nhất về chuẩn kiến thức và kỹ năng, có phương án vận dụng chương trình sách giáo khoa phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của các địa bàn khác nhau”.
Trên cơ sở mục tiêu đề ra, các cơ quan chức năng mà trước hết là Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với Nhà xuất bản Giáo dục đã xây dựng những chương trình hành động cụ thể. Tại cuộc họp báo “Giới thiệu về sách giáo khoa và sách tham khảo phục vụ năm học mới” ngày 26/5/2000 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Ông Lê Vũ Hùng - Thứ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo cho biết: “Qua 3 lần cải cách giáo dục năm 1951, 1959, và 1980, chương trình và sách giáo khoa đều được biên soạn mới; hàng năm lúc tái bản đều có những điều chỉnh, thay đổi nhỏ nhưng cơ bản là ổn định. Sách giáo khoa đang sử dụng thể hiện rõ quan điểm giáo dục toàn diện, định hướng tư tưởng chính trị tốt, cung cấp hệ thống tri thức chặt chẽ, đầy đủ, đảm bảo đủ sách tuy cũng có những trục trặc khi chuyển hướng từ cấp phát sang kinh doanh. Nhưng thiếu sót là sách ba cấp học thiếu đồng bộ, thiếu nối kết thông dẫn đến những chồng chéo, trùng lắp, chưa quan tâm đến điều kiện thực hiện, chưa phục vụ tốt cho cải cách phương pháp giảng dạy, chương trình chưa thực hiện đầy đủ định tính, định lượng. Đội ngũ tác giả không chuyên nghiệp, biên soạn sách chỉ là tay trái, tập trung vào các nhà khoa học, giáo sư đại học mà sự am hiểu phổ thông có những hạn chế. Mặt khác, chúng ta chưa coi sách giáo khoa là một công trình khoa học; loại sách tham khảo bổ sung, bổ trợ cho sách giáo khoa chưa được quản lý tốt, rất dễ lẫn lộn với sách giáo khoa và cũng còn nặng xu thế thương mại hoá”. Từ những bất cập trên Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra mục tiêu xây dựng một chương trình mới liên thông các cấp học, tổ chức biên soạn sách giáo khoa theo một quy trình nghiêm ngặt. Tác giả sách giáo khoa ngoài các nhà khoa học, các giáo sư đại học... còn có các thầy giáo giỏi, có trình độ, kinh nghiệm trực tiếp giảng dạy các cấp học; quy trình thẩm định đầy đủ và chặt chẽ có sự tham gia của chuyên gia nước ngoài, phụ huynh học sinh và trước khi phát hành sẽ tổ chức “trại đọc sách” mời một số giáo viên ở địa phương phát sách cho đọc trước ở nhà, đến trại đọc lại rồi góp ý kiến cụ thể, nếu cần dạy thử một vài tiết cần thiết...(Theo Lê Khắc Hân – Phương hướng biên soạn sách giáo khoa và sách tham khảo mới – Báo Giáo dục và Thời đại số 65 ngày 30/5/2000).
II. Quá trình đổi mới sách giáo khoa.
Tiến độ thực hiện việc đổi mới.
Trước những vấn đề cấp bách về sự cần thiết phải đổi mới sách giáo khoa phổ thông, các cấp, các ngành cũng nhanh chóng triển khai kế hoạch đổi mới mang tính đồng bộ. Quốc hội đã ra Nghị quyết chỉ đạo quá trình đổi mới. Trước hết việc xây dựng chương trình, triển khai thí điểm, tổng kết thí điểm, tổng kết rút kinh nghiệm phải chu đáo, khẩn trương để đạt được mục tiêu đề ra. Sau đó Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ có kế hoạch triển khai đại trà việc áp dụng chương trình: sách giáo khoa phải được đổi mới theo đúng tiến độ để đảm bảo đưa vào áp dụng bắt đầu ở lớp 1 và lớp 6 từ năm học 2002 – 2003; bắt đầu ở lớp 10 từ năm học 2004 – 2005; đến năm học 2006 – 2007 tất cả các lớp cuối cấp đều được thực hiện chương trình và sách giáo khoa mới.
Theo như ý kiến của Bộ Giáo dục và Đào tạo trả lời kiến nghị của cử tri về ổn định sách giáo khoa tại kỳ họp thứ 9 quốc hội khoá X thì đến thời điểm này (tức là thời điểm diễn ra kỳ họp Quốc hội), Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có kế hoạch chỉ đạo việc soạn thảo bộ sách giáo khoa mới của giáo dục phổ thông. Bộ sách này dự kiến sẽ giữ ổn định ít nhất trong 8 năm (từ 2002 đến 2010). Bộ cũng đang phối hợp với các Bộ, Ban, Ngành của Chính phủ để trình Chính phủ cho phép thực hiện mở rộng việc cho mượn, cho thuê sách giáo khoa, nâng thời hạn sử dụng mỗi cuốn sách tới 5 năm để giữ vững ổn định về sách giáo khoa vừa tiết kiệm cho nhà nước và nhân dân.
Như vậy, khi đưa ra sách giáo khoa mới vào áp dụng đại trà, chủ thể đổi mới phải tính đến sự vận dụng phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng dân tộc, từng loại đối tượng học sinh để làm sao phát huy tối đa hiệu quả của nó sau khi đổi mới, cải tiến.
2. Chủ thể thực hiện chương trình đổi mới.
Trên cơ sở Tờ trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì Quốc hội giao Chính phủ chỉ đạo việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông (trong đó có đổi mới sách giáo khoa); hàng năm báo cáo với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về kết quả và tiến độ thực hiện. Riêng Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm huy động, tập hợp các nhà khoa học, các nhà sư phạm, các cán bộ quản lý giáo dục am hiểu, có kinh nghiệm về giáo dục phổ thông và các giáo viên giỏi tham gia biên soạn, thí điểm, thẩm định chương trình sách giáo khoa mới, trên cơ sở đó hướng dẫn áp dụng đối với các địa bàn khác nhau.
Để sách giáo khoa phổ thông góp phần đáp ứng yêu cầu chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và sớm đạt được trình độ phát triển chung của sách giáo khoa phổ thông trong khu vực và trên thế giới, Chính phủ có kế hoạch thực hiện trong 10 năm nhằm chuẩn bị điều kiện để sách giáo khoa đổi mới thực hiện có hiệu quả. Vì vậy, khi tổ chức triển khai xây dựng chương trình biên soạn sách giáo khoa (cụ thể là sách THCS), Bộ sẽ thành lập ban chỉ đạo do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo làm trưởng ban. Bộ phận thường trực gồm đại diện lãnh đạo của Viện Khoa học giáo dục, các Vụ chức năng, Ban điều hành dự án, các chủ tịch các hội đồng bộ môn là uỷ viên. Khi tổ chức biên soạn sách giáo khoa hiện hành, căn cứ vào danh sách giới thiệu của các cơ quan có trách nhiệm (Nhà xuất bản giáo dục, Vụ trung học phổ thông, Vụ giáo viên, Viện Khoa học giáo dục và các thường trực hội đồng bộ môn), Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định cử các tác giả biên soạn sách giáo khoa, kể cả sách giáo viên theo chương trình đã ban hành. Tập thể tác giả bao gồm các tổng chủ biên bộ sách từng bộ môn, chủ biên quyển sách của từng lớp, tác giả từng quyển đối với mỗi môn học. Các tác giả sách là các nhà khoa học, các nhà giáo ở các trường đại học, cao đẳng sư phạm, các trường trung học cơ sở, các cán bộ chỉ đạo giỏi đối với các môn học...
3 . Nội dung đổi mới sách giáo khoa phổ thông.
Sách giáo khoa được đổi mới phải đảm bảo đem lại chất lượng mới cho giáo dục phổ thông nói riêng, cho giáo dục và đào tạo nói chung. Sách giáo khoa mới sẽ được thể chế hoá theo Luật giáo dục và được quản lý chỉ đạo, đánh giá theo yêu cầu cụ thể của từng giai đoạn phát triển của đất nước, cố gắng giữ vững sự ổn định để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông.
Với mỗi cấp học, bậc học, Bộ đưa ra từng nội dung đổi mới cụ thể cho phù hợp với tính chất, mức độ của từng cấp học cũng như phù hợp với từng loại đối tượng phục vụ. Cụ thể như sau:
+ Đối với Tiểu học: Thực hiện tích hợp nội dung để giảm số môn học (các lớp 1, 2, 3 có 6 môn học; lớp 4, 5 có 9 môn học ). Đối với bậc tiểu học tập trung chú ý vào 2 môn công cụ chính là Tiếng Việt và Toán, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo nội dung giáo dục toàn diện, đảm bảo cân đối giữa dạy chữ và dạy người, chú trọng hình thành và phát triển các kỹ năng cơ bản.
+ Đối với trung học cơ sở : Tiếp tục quán triệt các quan điểm tích hợp qua việc xây dựng các môn học với nhiều phân môn tách biệt như môn Ngữ văn được xây dựng thành môn học thống nhất từ 3 phân môn : Tiếng Việt, Văn học, Tập làm văn hoặc hình thành các nhóm, môn học có liên quan chặt chẽ ( nhóm khoa học tự nhiên), nhằm trước hết bảo đảm yêu cầu chống chồng chéo, trùng lặp, tạo sự phối hợp và hỗ trợ có hiệu quả trong quá trình học tập từng môn học thuộc nhóm. Môn tự chọn ( Tin học) và các chủ đề tự chọn thuộc các môn học, được bắt đầu thực hiện từ lớp 8 nhằm giúp các học sinh có khả năng, nguyện vọng khác nhau trong việc bồi dưỡng để nâng cao hoặc mở rộng kiến thức. Tăng tính hướng nghiệp trong chương trình để góp phần định hướng phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp Trung học cơ sở.
+ Đối với trung học phổ thông : Sách giáo khoa sẽ được đổi mới phù hợp với chương trình phân ban mới với các yêu cầu: phổ thông, cơ bản, toàn diện và phân hoá. Vì vậy, khi tiến hành đổi mới, chủ thể biên soạn phải chú ý đến đặc trưng của từng ban để bám sát yêu cầu phân ban đã đề ra.
4 . Kết quả của quá trình đổi mới.
Theo báo Giáo dục & Thời đại số 86 ngày 19/7/2001, Bộ trưởng bộ Giáo dục & Đào tạo cho biết “Dự án phát triển giáo dục Trung học cơ sở đã đạt được một số kết quả ban đầu hết sức cơ bản và toàn diện”. Bộ đã ban hành sách giáo khoa lớp 6 gồm 13 môn học và nhóm học, 15 đầu sách với trên 38 vạn cuốn cho năm thí điểm lớp 6. Đến tháng 6/2001, bộ sách giáo khoa lớp 7 đã hoàn thành việc thẩm định và hoàn thiện đưa in. Về quy mô, Bộ đã tổ chức thí điểm trương trình và sách giáo khoa mới ở 11 huyện thuộc 11 tỉnh nằm trên các địa bàn khác nhau: thành thị, nông thôn, miền núi, trên cả 3 miền Bắc, Trung, Nam. Mỗi lớp sẽ được triển khai thí điểm 2 vòng, 2 lần chỉnh lý trước khi triển khai đại trà. Theo Thứ trưởng Nguyễn Văn Vọng, đây sẽ là kết quả tốt, là cơ sở vững chắc cho giai đoạn thực hiện dự án sau này (giai đoạn 2003-2008).
PHẦN III. VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA BÁO GIÁO DỤC & THỜI ĐẠI TRONG VIỆC ĐỔI MỚI SÁCH GIÁO KHOA.
I . Một vài nhận xét về tờ báo Giáo dục & Thời đại.
Ngay trên măng - séc của tờ Giáo dục & Thời đại, chức năng, nhiệm vụ của tờ báo đã thể hiện rõ. Đây (chỉ tờ báo) là tiếng nói của ngành Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, đồng thời là diễn đàn toàn xã hội vì sự nghiệp giáo dục. Nói như vậy có nghĩa là Giáo dục & Thời đại là tờ báo của ngành giáo dục mà trên đó tất cả những vấn đề liên quan đến nền giáo dục Việt Nam và thế giới đều được làm sáng tỏ. Không chỉ là cơ quan ngôn luận của ngành giáo dục mà lâu nay tờ báo Giáo dục & Thời đại đã chiếm lĩnh được niềm tin của độc giả bởi tờ báo thực sự là nơi trao đổi, giải quyết những thắc mắc mà bạn đọc quan tâm. Chẳng hạn những vấn đề có tính chính sách như : “Thông tin cần biết về mùa tuyển sinh đại học, cao đẳng” ; “Vấn đề quyền lợi của giáo viên”, vấn đề “lương giáo viên” v.v... cho đến thực trạng của nền giáo dục Việt Nam thông qua các ghi chép, phóng sự, ...Không những thế, tờ Giáo dục & Thời đại còn dành hẳn 1 trang (thường là trang cuối) để giới thiệu cho độc giả biết về tình hình giáo dục thế giới, về những nét độc đáo, khác biệt của giáo dục nước bạn cũng như những vấn đề liên quan đến giáo dục quốc tế nổi bật trong tuần. Có thể nói, đối tượng của tờ báo là rất lớn. Không chỉ giới hạn trong khu vực nhà trường, tức là những người làm công tác giáo dục, mà đối tượng còn mở rộng ra đông đảo công chúng trong xã hội, bao gồm tất cả những ai quan tâm đến nền giáo dục Việt Nam.
Trong mấy năm gần đây, tờ báo có nhiều đổi mới. Nó thực sự trở thành diễn đàn trao đổi của độc giả. Thông qua các trang, mục như “Toà soạn với bạn đọc”; mục “Trao đổi”, “Bình thơ” hàng tháng; “Nhịp cầu bạn đọc”...người đọc được thoả mãn tất cả những thắc mắc của mình. Ngay như vấn đề đổi mới chương trình và đổi mới sách giáo khoa phổ thông ( như đề tài đang nghiên cứu) thì tờ báo đóng một vai trò vô cùng quan tr