Liên quan đến giá trị hợp lý, tại khoản 6 điều 3 Luật Kế toán sửa đổi số 88/2015/QH13 đã định nghĩa: “Giá trị hợp lý là giá trị được xác định phù hợp với giá thị trường, có thể nhận được khi bán một tài sản hoặc chuyển nhượng một khoản nợ phải trả tại thời điểm xác định giá trị”. Theo đó, giá trị tài sản và nợ phải trả được ghi nhận ban đầu theo giá gốc. Sau ghi nhận ban
đầu, đối với một số loại tài sản hoặc nợ phải trả mà giá trị biến động thường xuyên theo giá thị trường và
giá trị của chúng có thể xác định lại một cách đáng tin cậy thì được ghi nhận theo giá trị hợp lý tại thời
điểm cuối kỳ lập báo cáo tài chính. Trên cơ sở Luật Kế toán số 88/2015/QH13, Bộ Tài chính cần nghiên
cứu ban hành các chuẩn mực kế toán (CMKT) trên cơ sở tiếp cận, áp dụng các thông lệ, CMKT quốc tế phù
hợp với hệ hống luật pháp, trình độ, kinh nghiệm kế toán của Việt Nam và theo lộ trình phù hợp để đáp
ứng nhu cầu minh bạch thông tin tài chính mà Việt Nam đang khẩn trương tiến tới.
6 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 503 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vận dụng giá trị hợp lý trong hệ thống kế toán Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 41Số 115 - tháng 5/2017
vaän DuÏng giaù trò hÔÏp lyù
trong heä thoáng Keá toaùn vieät nam
TS. NGUYỄN ĐĂNG HUY*
*Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
Liên quan đến giá trị hợp lý, tại khoản 6 điều 3 Luật Kế toán sửa đổi số 88/2015/QH13 đã định nghĩa: “Giá trị hợp lý là giá trị được xác định phù hợp với giá thị trường, có thể nhận được khi bán một tài sản hoặc chuyển nhượng một khoản nợ phải trả tại thời điểm xác định giá trị”. Theo đó, giá trị tài sản và nợ phải trả được ghi nhận ban đầu theo giá gốc. Sau ghi nhận ban
đầu, đối với một số loại tài sản hoặc nợ phải trả mà giá trị biến động thường xuyên theo giá thị trường và
giá trị của chúng có thể xác định lại một cách đáng tin cậy thì được ghi nhận theo giá trị hợp lý tại thời
điểm cuối kỳ lập báo cáo tài chính. Trên cơ sở Luật Kế toán số 88/2015/QH13, Bộ Tài chính cần nghiên
cứu ban hành các chuẩn mực kế toán (CMKT) trên cơ sở tiếp cận, áp dụng các thông lệ, CMKT quốc tế phù
hợp với hệ hống luật pháp, trình độ, kinh nghiệm kế toán của Việt Nam và theo lộ trình phù hợp để đáp
ứng nhu cầu minh bạch thông tin tài chính mà Việt Nam đang khẩn trương tiến tới.
Từ khóa: giá trị hợp lý
Applying fair values in the Vietnamese accounting system
With regard to fair value, paragraph 6 of Article 3 of the revised Accounting Law No.88/2015/QH13
defines “fair value as the value determined in line with market price, which would be received from selling an
asset or paid to transfer a liability at the measurement dates”. Consequently, assets and liabilities are initially
recognised at cost. Subsequent to initial recognition, those assets and liabilities whose values frequently
fluctuate following market prices and can be reliably measured shall be stated at fair value at the end of the
financial reporting period. Based on the Law on Accounting No.88/2015/QH13, the Ministry of Finance
should study and promulgate accounting standards based on the approach and application of international
accounting practice and standards in line with the law. The level of accounting knowledge, skills, experience
required to meet the need for transparency of financial information that Vietnam is rapidly approaching.
keyword: fair value
1. Giá trị hợp lý trong kế toán
Trong các lý thuyết về kế toán, giá trị hợp lý
không được đề cập như một loại giá độc lập trong
khuôn mẫu lý thuyết chung nhưng nó trở thành
một xu hướng quan trọng trong những năm gần
đây. Các chuẩn mực kế toán (IAS) và chuẩn mực
Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) hiện hành đều sử
dụng định nghĩa “Giá trị hợp lý là mức giá mà một
tài sản có thể được trao đổi giữa các bên có đầy đủ
hiểu biết trong một giao dịch ngang giá”.
Cơ sở hình thành của kế toán theo giá trị hợp
lý xuất phát trực tiếp từ nhu cầu sử dụng thông tin
của xã hội và chính những hạn chế của các phương
pháp kế toán trước đó. Nhìn từ góc độ lý thuyết kế
toán, khi tất cả các tài sản được đo lường với cùng
một cơ sở định giá, giá gốc hay giá thị trường, thì
điều này sẽ đáp ứng nhu cầu thông tin dễ hiểu hơn
cho các đối tượng sử dụng báo cáo tài chính. Bên
cạnh đó, việc áp dụng các cơ sở định giá tài sản
theo giá thị trường thay thế dần nguyên tắc giá gốc
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN42 Số 115 - tháng 5/2017
tại nhiều quốc gia trong những năm gần đây cho
thấy xu thế định giá tài sản trên báo cáo tài chính
đang hướng đến giá trị hợp lý, kết hợp nhiều loại
giá khác nhau nhằm đáp ứng đầy đủ hơn yêu cầu
thông tin của người sử dụng và tạo thuận lợi cho
công tác kế toán. Vì thế, kế toán theo giá trị hợp lý
là một lựa chọn tất yếu.
Giá trị hợp lý phát triển mạnh trong kế toán,
nhất là trong các hoạt động liên quan đến công cụ
tài chính, tạo thành một trào lưu kế toán theo giá
trị hợp lý hay theo thị trường. Những ưu điểm của
giá trị hợp lý và lợi ích của sử dụng giá trị hợp lý
là không thể phủ nhận. Điều này thể hiện qua một
số khía cạnh sau: (1) Giá trị hợp lý phản ánh được
những thay đổi của thị trường; (2) Những giả định
dùng để ước tính giá trị hợp lý có thể được xác định
và kiểm chứng, ngày càng mang tính khách quan
hơn; (3) Các mô hình định giá cho những trường
hợp không có giá thị trường hiện đang phát triển
và từng bước hoàn thiện.
Chế độ kế toán Việt Nam hiện nay được xây
dựng trên cơ sở phương pháp kế toán theo giá gốc.
Tuy nhiên, phương pháp định giá các tài sản kế
toán cũng từng bước được cập nhật theo phương
pháp giá trị hợp lý, kết hợp kế toán theo giá gốc và
đánh giá lại phù hợp với đặc điểm của từng loại tài
sản và thời điểm lập báo cáo tài chính.
2. Sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán và thực
tiễn tại Việt Nam
Giá trị hợp lý được sử dụng để đánh giá và ghi
nhận ban đầu. Giá trị hợp lý trong trường hợp này
được sử dụng là giá gốc ghi nhận ban đầu (ghi
nhận ban đầu “Nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ”,
“Nhà xưởng, máy móc, thiết bị”; “Bất động sản đầu
tư”; “Tài sản sinh học”; “Tài sản thuê tài chính”...)
Giá trị hợp lý được sử dụng sau ghi nhận ban
đầu. Sau ghi nhận ban đầu, giá trị hợp lý được xác
định tại mỗi thời điểm lập báo cáo tài chính. Ví dụ:
Đánh giá sau khi nhận ban đầu đối với tài sản tài
chính, bất động sản đầu tư...; Xác định giá trị đánh
giá lại của nhà xưởng, máy móc thiết bị theo mô
hình đánh giá lại của IAS 16, tài sản vô hình theo
IAS 38...
Ghi nhận chênh lệch phát sinh do sự biến động
của giá trị hợp lý. Các khoản chênh lệch phát sinh
do sự thay đổi giá trị hợp lý giữa các thời điểm báo
cáo có thể được ghi là thu nhập, chi phí trong báo
cáo lãi, lỗ. Ví dụ: Tài sản tài chính ghi nhận theo
giá trị hợp lý qua báo cáo lãi lỗ, bất động sản đầu
tư, tài sản sinh học và sản phẩm nông nghiệp hoặc
điều chỉnh chỉ tiêu thuộc nguồn vốn chủ sở hữu
trên Bảng cân đối kế toán như: chênh lệch đánh giá
tăng (giảm) tài sản...
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 43Số 115 - tháng 5/2017
Thực tiễn kế toán Việt Nam hiện nay
Nhìn chung, chế độ kế toán Việt Nam, được xây
dựng trên cơ sở phương pháp kế toán theo giá gốc.
Tuy nhiên, trong phương pháp định giá các tài sản
kế toán, Việt Nam cũng từng bước được cập nhật
theo phương pháp giá trị hợp lý, kết hợp kế toán
theo giá gốc và đánh giá lại phù hợp với đặc điểm
của từng loại tài sản và thời điểm lập báo cáo tài
chính. Cụ thể:
* Về việc ghi nhận giá trị tài sản:
- Ghi nhận theo giá gốc tại thời điểm hình thành
tài sản: Giá trị các loại tài sản như TSCĐ, hàng tồn
kho được ghi nhận theo giá thực tế bao gồm giá
mua và toàn bộ các chi phí thu mua phát sinh để có
được tài sản ở trạng thái sẵn sàng đưa vào sử dụng.
- Đánh giá lại theo giá trị hợp lý tại thời điểm
báo cáo: Giá trị hợp lý được sử dụng làm cơ sở để
tính giá trị đánh giá lại của tài sản sau ghi nhận
ban đầu. Phần chênh lệch được ghi nhận là chi phí
trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (tăng
hoặc giảm chi phí) hoặc ghi nhận điều chỉnh chỉ
tiêu thuộc nguồn vốn chủ sở hữu trên Bảng cân đối
kế toán. Cụ thể:
+ Lập dự phòng giảm giá tài sản: Cuối mỗi kỳ kế
toán đối với những khoản mục tài sản bị giảm giá,
kế toán tiến hành trích lập dự phòng (dự phòng
giảm giá đầu tư ngắn hạn, dài hạn, dự phòng giảm
giá hàng tồn kho, dự phòng phải thu khó đòi) và
ghi nhận vào chi phí (Chi phí tài chính, chi phí
quản lý doanh nghiệp) đồng thời các khoản dự
phòng được ghi nhận vào bên Tài sản của Bảng cân
đối kế toán để ghi giảm tổng giá trị tài sản của đơn
vị bên cạnh giá gốc.
+ Đánh giá lại tài sản: Tài sản được đánh giá
lại chủ yếu là TSCĐ, bất động sản đầu tư, một số
trường hợp có thể và cần thiết đánh giá lại vật liệu,
công cụ, dụng cụ, thành phẩm, hàng hoá, sản phẩm
dở dang... Trường hợp tiến hành đánh giá khi có
quyết định của Nhà nước về đánh giá lại tài sản,
khi thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước;
và các trường hợp khác theo quy định (chuyển đổi
hình thức sở hữu doanh nghiệp...). Giá trị tài sản
được xác định lại trên cơ sở bảng giá Nhà nước quy
định hoặc Hội đồng định giá tài sản thống nhất xác
định. Chênh lệch đánh giá lại tài sản được bổ sung
hoặc ghi giảm nguồn vốn nguồn vốn chủ sở hữu.
+ Đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc
ngoại tệ ở thời điểm cuối năm tài chính: Cuối năm
tài chính, doanh nghiệp phải đánh giá lại các khoản
mục tiền tệ có gốc ngoại tệ theo tỷ giá giao dịch
bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời
điểm cuối năm tài chính. Đối với chênh lệch tỷ giá
hối đoái ở thời điểm cuối năm tài chính do đánh giá
lại của các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ liên
quan đến hoạt động kinh doanh sẽ tính vào chi phí
tài chính (nếu lỗ tỷ giá hối đoái), hoặc doanh thu
hoạt động tài chính (nếu lãi tỷ giá hối đoái) để xác
định kết quả hoạt động kinh doanh. Đối với chênh
lệch tỷ giá hối đoái phát sinh do đánh giá lại cuối
năm của tài chính của các khoản mục tiền tệ có
gốc ngoại tệ của hoạt động đầu tư XDCB (giai đoạn
trước hoạt động): Ở giai đoạn đang đầu tư XDCB,
doanh nghiệp chưa đi vào hoạt động thì chênh lệch
tỷ giá hối đoái đánh giá lại cuối năm tài chính được
phản ánh lũy kế trên TK 413 “Chênh lệch tỷ giá hối
đoái” (TK 4132). Số dư Nợ, hoặc Có này sẽ được
phản ánh trên Bảng Cân đối kế toán. Khi kết thúc
giai đoạn đầu tư XDCB, bàn giao TSCĐ đưa vào
sử dụng cho sản xuất, kinh doanh, số dư Nợ, hoặc
số dư Có TK 413 “Chênh lệch tỷ giá hối đoái” (TK
4132) phản ánh số chênh lệch tỷ giá hối đoái phát
sinh do đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc
ngoại tệ cuối mỗi năm tài chính (không bao gồm
khoản đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc
ngoại tệ liên quan đến hoạt động đầu tư XDCB ở
thời điểm bàn giao tài sản để đưa vào sử dụng) sẽ
được kết chuyển toàn bộ một lần (nếu nhỏ) vào chi
phí tài chính, hoặc doanh thu hoạt động tài chính
của năm tài chính có TSCĐ và các tài sản đầu tư
hoàn thành bàn giao đưa vào hoạt động hoặc phân
bổ tối đa là 5 năm (nếu lớn, kể từ khi công trình
hoàn thành đưa vào hoạt động).
* Đối với các khoản mục chi phí, doanh thu: Kế
toán Việt Nam quy định việc ghi nhận doanh thu,
chi phí phù hợp với các nguyên tắc kế toán chung
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN44 Số 115 - tháng 5/2017
được thừa nhận rộng rãi, chủ yếu là nguyên tắc phù
hợp và thận trọng, trọng yếu. Các loại doanh thu,
thời điểm ghi nhận doanh thu, phương pháp kế
toán doanh thu và thu nhập khác làm cơ sở ghi sổ
kế toán và lập báo cáo tài chính được quy định rõ
trong chuẩn mực số 14 Doanh thu và thu nhập khác
(VAS 14). Tuy nhiên, nếu IAS 18 quy định: Khi giá
trị hợp lý của số tiền bán hàng bằng tiền mặt hay
tương đương tiền mặt nhận được phải thu nhỏ hơn
số tiền mặt danh nghĩa nhận được hay phải thu, thì
phần chênh lệch được ghi nhận là doanh thu lãi thì
VAS 14 chưa đề cập đến vấn đề này.
Đối với chi phí, chế độ kế toán Việt Nam quy
định rõ các khoản chi phí ghi nhận ngay, chi phí
trích trước, chi phí phải trả nhằm đảm bảo sự
phù hợp giữa doanh thu và chi phí và do đó ảnh
hưởng tới kết quả kinh doanh.
Mục tiêu chủ yếu của báo cáo tài chính là nhằm
cung cấp thông tin hữu ích cho các đối tượng sử
dụng. Nhìn từ góc độ này, báo cáo tài chính cần
cung cấp các thông tin về quá khứ, hiện tại và
tương lai. Vì vậy, sự kết hợp giữa các loại giá sử
dụng trên báo cáo tài chính nhằm mục tiêu cung
cấp thông tin đầy đủ, đa dạng đáp ứng yêu cầu
thông tin của người sử dụng, dẫn tới sự ra đời của
phương pháp kế toán theo giá trị hợp lý. Trong thời
đại khoa học kỹ thuật phát triển, môi trường kinh
doanh luôn thay đổi và vấn đề lạm phát là tất yếu
như hiện nay, thông tin về giá trị tài sản trên báo
cáo tài chính nếu chỉ trình bày theo giá gốc thì sẽ
không thích hợp với các đối
tượng sử dụng thông tin để
đưa ra quyết định kinh tế.
3. Sử dụng giá trị hợp
lý theo Luật kế toán số
88/2015/QH13 và Thông tư
200/2014/TT-BTC
Đến nay, vẫn còn không ít
những tranh luận xung quanh
việc sử dụng giá trị hợp lý (vấn
đề được tranh luận nhiều nhất
là tính đáng tin cậy và phương
pháp xác định giá trị hợp lý).
Tại Việt Nam, giá trị hợp lý đã
được đề cập đến từ 12 năm nay và đầu tiên được
định nghĩa trong Chuẩn mực kế toán số 14 - Doanh
thu và thu nhập khác: Giá trị hợp lý là giá trị tài
sản có thể trao đổi hoặc giá trị một khoản nợ được
thanh toán một cách tự nguyện giữa các bên có đầy
đủ hiểu biết trong trao đổi ngang giá. Trong kế toán
Việt Nam, giá trị hợp lý được sử dụng chủ yếu trong
ghi nhận ban đầu, chẳng hạn: ghi nhận ban đầu tài
sản cố định, doanh thu, thu nhập khác, ghi nhận ban
đầu và báo cáo các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại
tệ, xác định giá phí hợp nhất kinh doanh.
Trong các văn bản pháp lý gần nhất có các điểm
đáng lưu ý liên quan đến giá trị hợp lý như sau:
* Luật Kế toán sửa đổi, bổ sung số 88/2015/
QH13
Luật được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2015
với một trong các nội dung quan trọng được bổ
sung là quy định các nguyên tắc kế toán liên quan
đến giá trị hợp lý. Các quy định về giá trị hợp lý
được đề cập trong 3 Điều: Điều số 3, số 6 và Điều
số 28. Giá trị hợp lý là vấn đề quá phức tạp nên
phải quy định trong văn bản pháp luật cao nhất về
kế toán, từ đó tạo ra tiền đề pháp lý mà quan trọng
là đặt ra yêu cầu tạo dựng khuôn khổ pháp lý và
triển khai thực hiện các quy định liên quan đến giá
trị hợp lý. Theo Điều 6 của Luật này thì “Bộ Tài
chính quy định chuẩn mực kế toán trên cơ sở chuẩn
mực quốc tế về kế toán phù hợp với điều kiện cụ thể
của Việt Nam”. Do vậy, cần phải nghiên cứu đồng
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 45Số 115 - tháng 5/2017
bộ các CMKT quốc tế để cập nhật các CMKT Việt
Nam đã và sẽ ban hành mới, đặc biệt là giá trị hợp
lý và công cụ tài chính vì nó liên quan đến nhiều
CMKT khác.
Luật Kế toán sửa đổi 2015 cũng đã xác định
“giá trị hợp lý là giá trị được xác định phù hợp
với giá thị trường, có thể nhận được khi bán một
tài sản hoặc chuyển nhượng một khoản nợ phải
trả tại thời điểm xác định giá trị”. Sau ghi nhận
ban đầu, đối với một số loại tài sản hoặc nợ phải
trả mà giá trị biến động thường xuyên theo giá
thị trường và giá trị của chúng có thể xác định
lại một cách đáng tin cậy thì được ghi nhận theo
giá trị hợp lý tại thời điểm cuối kỳ lập báo cáo tài
chính. Qua đó, khắc phục hạn chế của Luật Kế
toán 2003 là quy định hạch toán theo giá gốc, điều
này không phản ánh được tình hình biến động tài
sản và nợ phải trả tại thời điểm lập báo cáo tài
chính. Theo chuẩn mực kế toán quốc tế và thông
lệ phổ biến trên toàn thế giới, việc hạch toán được
thực hiện theo giá trị hợp lý (giá thị trường tại
thời điểm đánh giá). Điều này cũng phù hợp với
chuẩn mực kế toán quốc tế và yêu cầu của công
tác kế toán đối với một số nhóm tài sản, nợ phải
trả như công cụ tài chính theo yêu cầu của chuẩn
mực kế toán phải ghi nhận và đánh giá lại theo
giá trị hợp lý; các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại
tệ được đánh giá theo tỷ giá giao dịch thực tế; các
tài sản hoặc nợ phải trả khác có giá trị biến động
thường xuyên, theo yêu cầu của chuẩn mực kế
toán phải được đánh giá lại theo giá trị hợp lý.
Do việc đánh giá giá trị tài sản và hạch toán theo
giá trị hợp lý có tính kỹ thuật cao, để phù hợp với
điều kiện của Việt Nam có tài sản có thể đánh giá
được theo giá trị thị trường, có tài sản chưa có điều
kiện đánh giá được, Luật quy định, Bộ Tài chính
hướng dẫn cụ thể các tài sản và nợ phải trả được
ghi nhận và đánh giá lại theo giá trị hợp lý, phương
pháp kế toán ghi nhận và đánh giá lại theo giá trị
hợp lý. Về phương pháp xác định Giá trị hợp lý,
ngoại trừ đoạn 24 của Chuẩn mực kế toán số 4 - Tài
sản cố định vô hình - có đề cập đến phương pháp
xác định Giá trị hợp lý của tài sản cố định vô hình,
và thông tư 21/2006/TT-BTC ngày 20/03/2006 của
Bộ Tài chính có hướng dẫn việc xác định Giá trị
hợp lý trong xác định giá phí hợp nhất kinh doanh,
đến nay thông tư 200/2014/TT-BTC cũng đề cập
đến một số trường hợp cụ thể.
* Thông tư 200/2014/TT-BTC
a. Đối với chứng khoán kinh doanh
Chứng khoán kinh doanh phải được ghi sổ kế
toán theo giá gốc, bao gồm: Giá mua cộng (+) các
chi phí mua (nếu có) như chi phí môi giới, giao
dịch, cung cấp thông tin, thuế, lệ phí và phí ngân
hàng. Giá gốc của chứng khoán kinh doanh được
xác định theo giá trị hợp lý của các khoản thanh
toán tại thời điểm giao dịch phát sinh.
Mọi trường hợp hoán đổi cổ phiếu đều phải xác
định giá trị cổ phiếu theo giá trị hợp lý tại ngày trao
đổi. Được thực hiện như sau:
- Đối với cổ phiếu của công ty niêm yết, giá trị
hợp lý của cổ phiếu là giá đóng cửa niêm yết trên
thị trường chứng khoán tại ngày trao đổi. Trường
hợp tại ngày trao đổi thị trường chứng khoán
không giao dịch thì giá trị hợp lý của cổ phiếu là
giá đóng cửa phiên giao dịch trước liền kề với ngày
trao đổi.
- Đối với cổ phiếu chưa niêm yết được giao dịch
trên sàn UPCOM, giá trị hợp lý của cổ phiếu là giá
giao dịch đóng cửa trên sàn UPCOM tại ngày trao
đổi. Trường hợp ngày trao đổi sàn UPCOM không
giao dịch thì giá trị hợp lý của cổ phiếu là giá đóng
cửa phiên giao dịch trước liền kề với ngày trao đổi.
- Đối với cổ phiếu chưa niêm yết khác, giá trị hợp
lý của cổ phiếu là giá do các bên thỏa thuận theo hợp
đồng hoặc giá trị sổ sách tại thời điểm trao đổi.
b. Đối với hàng tồn kho
Tại Điều 23 Thông tư 200/2014/TT-BTC quy
định về Nguyên tắc kế toán Hàng tồn kho như sau:
Kế toán hàng tồn kho phải được thực hiện theo quy
định của Chuẩn mực kế toán “Hàng tồn kho” khi
xác định giá gốc hàng tồn kho, phương pháp tính
giá trị hàng tồn kho, xác định giá trị thuần có thể
thực hiện được, lập dự phòng giảm giá hàng tồn
kho và ghi nhận chi phí.
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN46 Số 115 - tháng 5/2017
- Nguyên tắc xác định giá gốc hàng tồn kho
được quy định cụ thể cho từng loại vật tư, hàng
hoá, theo nguồn hình thành và thời điểm tính giá.
- Khi mua hàng tồn kho nếu được nhận kèm
thêm sản phẩm, hàng hóa, thiết bị, phụ tùng thay
thế (phòng ngừa trường hợp hỏng hóc) thì kế toán
phải xác định và ghi nhận riêng sản phẩm, phụ
tùng thiết bị thay thế theo giá trị hợp lý. Giá trị sản
phẩm, hàng mua được xác định bằng tổng giá trị
của hàng được mua trừ đi giá trị sản phẩm, thiết bị,
phụ tùng thay thế.
c. Đối với tài sản cố định
Nguyên giá TSCĐ hữu hình do mua sắm bao
gồm: Giá mua (trừ các khoản được chiết khấu
thương mại, giảm giá), các khoản thuế (không bao
gồm các khoản thuế được hoàn lại) và các chi phí
liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào trạng
thái sẵn sàng sử dụng như chi phí chuẩn bị mặt
bằng, chi phí vận chuyển và bốc xếp ban đầu, chi
phí lắp đặt, chạy thử (trừ (-) các khoản thu hồi về
sản phẩm, phế liệu do chạy thử), chi phí chuyên gia
và các chi phí liên quan trực tiếp khác. Chi phí lãi
vay phát sinh khi mua sắm TSCĐ đã hoàn thiện
(TSCĐ sử dụng được ngay mà không cần qua quá
trình đầu tư xây dựng) không được vốn hóa vào
nguyên giá TSCĐ.
- Trường hợp mua TSCĐ được kèm thêm thiết
bị, phụ tùng thay thế thì phải xác định và ghi nhận
riêng thiết bị, phụ tùng thay thế theo giá trị hợp lý.
Nguyên giá TSCĐ được mua là tổng các chi phí liên
quan trực tiếp tới việc đưa tài sản vào trạng thái sẵn
sàng sử dụng trừ đi giá trị thiết bị, phụ tùng thay thế.
+ Đối với các khoản đầu tư: Trường hợp giải
thể công ty con và sáp nhập toàn bộ Tài sản và Nợ
phải trả của công ty con vào công ty mẹ: Phải ghi
giảm giá trị ghi sổ khoản đầu tư; Ghi nhận toàn
bộ tài sản, nợ phải trả của công ty con bị giải thể
theo giá trị hợp lý tại ngày sáp nhập. Phần chênh
lệch giữa giá phí khoản đầu tư và giá trị hợp lý
được ghi nhận vào Doanh thu tài chính hoặc Chi
phí tài chính.
d. Đối với