Vi phạm hành chính về đất đai ở Thái Bình - Thực trạng và giải pháp khắc phục

Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất chính không thể thay thế được của một số ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp, là một bộ phận không thể tách rời lãnh thổ quốc gia, gắn liền với chủ quyền quốc gia, là nơi trên đó, con người xây dựng nhà cửa, các công trình kiến trúc ; là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa; là nơi phân bổ các vùng kinh tế, các khu dân cư; là thành quả cách mạng của cả dân téc; là cơ sở để phát triển hệ sinh thái, tạo nên môi trường, duy trì sự sống của con người và sinh vật. C.Mác đã khái quát vai trò kinh tế của đất đai: "Đất là mẹ, sức lao động là cha, sản sinh ra mọi của cải vật chất" [4, tr.189]. Đất đai có vai trò quan trọng như vậy, nên Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm vấn đề đất đai, tăng cường quản lý nhà nước về đất đai. Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930 đã chỉ rõ: "Thâu tóm hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày". Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước ta đã ban hành nhiều Sắc lệnh, đạo luật để quản lý đất đai. Khi cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp chưa hoàn thành, ngày 04/12/1953, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Luật Cải cách ruộng đất nhằm xóa bỏ sự bóc lột của đế quốc, phong kiến do chiếm hữu đất đai mang lại. Cũng từ đó, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm, ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định, các chủ trương, đường lối, chính sách trong quản lý nhà nước về đất đai cho phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mét trong các biện pháp hữu hiệu được Nhà nước chú trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai đó là xử lý các vi phạm hành chính về đất đai. Các văn bản quan trọng liên quan đến xử lý vi phạm hành chính về đất đai là Nghị định 143/CP ngày 27/5/1977 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ Xử phạt vi cảnh; Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989 của Hội đồng Nhà nước; Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 06/7/1995 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; Nghị định 04/NĐ-CP ngày 10/01/1997 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02/7/2002 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Nghị định 182/2004/NĐ-CP được ban hành trên cơ sở tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn thi hành Nghị định 04/NĐ-CP ngày 10/01/1997 của Chính phủ phù hợp với Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02/7/2002, có tính đến các yêu cầu mới về đấu tranh, phòng, chống vi phạm pháp luật đất đai trong điều kiện nước ta mở cửa, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các văn bản trên đã góp phần lập lại trật tự trong quản lý, sử dụng đất đai, hạn chế những tiêu cực nảy sinh

doc125 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1706 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vi phạm hành chính về đất đai ở Thái Bình - Thực trạng và giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất chính không thể thay thế được của một số ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp, là một bộ phận không thể tách rời lãnh thổ quốc gia, gắn liền với chủ quyền quốc gia, là nơi trên đó, con người xây dựng nhà cửa, các công trình kiến trúc…; là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa; là nơi phân bổ các vùng kinh tế, các khu dân cư; là thành quả cách mạng của cả dân téc; là cơ sở để phát triển hệ sinh thái, tạo nên môi trường, duy trì sự sống của con người và sinh vật. C.Mác đã khái quát vai trò kinh tế của đất đai: "Đất là mẹ, sức lao động là cha, sản sinh ra mọi của cải vật chất" [4, tr.189]. Đất đai có vai trò quan trọng như vậy, nên Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm vấn đề đất đai, tăng cường quản lý nhà nước về đất đai. Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930 đã chỉ rõ: "Thâu tóm hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày". Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước ta đã ban hành nhiều Sắc lệnh, đạo luật để quản lý đất đai. Khi cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp chưa hoàn thành, ngày 04/12/1953, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Luật Cải cách ruộng đất nhằm xóa bỏ sự bóc lột của đế quốc, phong kiến do chiếm hữu đất đai mang lại. Cũng từ đó, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm, ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định, các chủ trương, đường lối, chính sách trong quản lý nhà nước về đất đai cho phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mét trong các biện pháp hữu hiệu được Nhà nước chú trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai đó là xử lý các vi phạm hành chính về đất đai. Các văn bản quan trọng liên quan đến xử lý vi phạm hành chính về đất đai là Nghị định 143/CP ngày 27/5/1977 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ Xử phạt vi cảnh; Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989 của Hội đồng Nhà nước; Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 06/7/1995 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; Nghị định 04/NĐ-CP ngày 10/01/1997 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02/7/2002 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Nghị định 182/2004/NĐ-CP được ban hành trên cơ sở tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn thi hành Nghị định 04/NĐ-CP ngày 10/01/1997 của Chính phủ phù hợp với Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02/7/2002, có tính đến các yêu cầu mới về đấu tranh, phòng, chống vi phạm pháp luật đất đai trong điều kiện nước ta mở cửa, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các văn bản trên đã góp phần lập lại trật tự trong quản lý, sử dụng đất đai, hạn chế những tiêu cực nảy sinh. Tuy nhiên, trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, mặc dù Nhà nước có nhiều văn bản để quản lý và xử lý vi phạm về đất đai, nhưng do đất đai trở thành hàng hoá mà giá trị của nó ngày càng tăng với tốc độ rất cao, lợi nhuận thu được từ việc mua bán đất đai không có mặt hàng và nghề kinh doanh nào sánh nổi. Vì vậy những hành vi vi phạm pháp luật đất đai, trục lợi từ đất diễn ra ngày càng phổ biến và nghiêm trọng. Những hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai tuy chưa đến mức nguy hiểm là tội phạm nhưng diễn ra ở khắp mọi nơi, hàng ngày, hàng giê, không những gây khó khăn cho quản lý nhà nước về đất đai, mà còn là nguyên nhân của những tranh chấp, mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ nhân dân và xã hội; nhiều khi chuyển hoá thành vụ việc hình sự, thành điểm nóng, thậm chí trở thành vấn đề chính trị. Về mặt thực tiễn, do chủ quan, coi thường những vi phạm nhỏ nên xử lý không kiên quyết, thiếu nghiêm minh dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật, vi phạm ngày càng tràn lan, khó kiểm soát. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu về vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai góp phần lập lại trật tự kỷ cương, phòng, chống vi phạm, tăng cường quản lý nhà nước về đất đai thực sự có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận cũng như thực tiễn đặt ra. Thái Bình là mét tỉnh ven biển thuộc lưu vực sông Hồng, là tỉnh thuần nông, diện tích đất tự nhiên 154.542,0396 ha, dân số 1.845.000 người [2, tr.3]. Nhiều thập kỷ, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, người dân Thái Bình đã lao động cần cù, "một nắng, hai sương", sử dụng đất có hiệu quả, Ýt có vi phạm pháp luật đất đai; đã lập nên những kỳ tích với "Bài ca 5 tấn", rồi 10 tấn, 12 tấn thóc/ha… Nhưng rồi, tháng 5/1997, Thái Bình đã xảy ra khiếu kiện đông người, gây mất ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; một trong những nguyên nhân đó là do “...cấp đất, bán đất trái thẩm quyền một cách phổ biến; chính quyền ở nhiều cơ sở đã lạm dụng việc xử phạt hành chính một cách tùy tiện, trái quy định, quá sức chịu đựng của dân, gây bất bình trong dân” [51, tr.7]. Sau sù kiện trên, các cấp, các ngành trong tỉnh đã rút kinh nghiệm; đề ra các chủ trương, giải pháp sửa chữa, khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót; chấn chỉnh công tác quản lý, xử phạt các vi phạm hành chính về đất đai, vì vậy các vi phạm pháp luật về đất đai ngày càng giảm. Những năm gần đây, Thái Bình đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, xây dựng nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung; với phong trào “xây dựng cánh đồng đạt giá trị sản xuất 50 triệu đồng/ha/năm và hé gia đình thu nhập đạt 50 triệu đồng/ha/năm” [57, tr.1]. Với quyết tâm trên, Thái Bình từ tỉnh có thu ngân sách trên địa bàn đạt 235 tỷ đồng năm 2001, đã vinh dự được vào câu lạc bộ tỉnh có thu ngân sách trên địa bàn đạt 1.000 tỷ đồng năm 2004. Nhưng bên cạnh đó: Công tác quản lý nhà nước về đất đai ở cấp xã, cấp huyện trong tỉnh còn bị buông lỏng; còn tình trạng cấp đất, giao đất sai thẩm quyền. Một số địa phương lợi dụng chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã chuyển đổi không đúng mục đích theo quy định của tỉnh. Một số doanh nghiệp trong cụm công nghiệp của huyện Đông Hưng còn vi phạm nghiêm trọng Luật Đất đai. Việc xử lý các vi phạm trên chưa kịp thời, gây bức xúc trong nhân dân [79, tr.8]. Chính vì vậy, làm thế nào để hạn chế các vi phạm hành chính về đất đai, bảo đảm xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm hành chính về đất đai, đặc biệt là với Thái Bình, một tỉnh đất chật người đông thì càng trở thành những yêu cầu bức xúc. Là giảng viên giảng dạy môn Quản lý Nhà nước - Luật tại trường Chính trị Thái Bình, qua thực tiễn giảng dạy và tìm hiểu thực tế vi phạm hành chính về đất đai ở Thái Bình và xuất phát từ những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên, tôi lùa chọn đề tài "Vi phạm hành chính về đất đai ở Thái Bình - thực trạng và giải pháp khắc phục" để nghiên cứu, nhằm góp phần tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai ở Thái Bình trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu Nội dung vi phạm hành chính là một vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm; nhưng do nhận thức được tầm quan trọng, ý nghĩa lý luận, ý nghĩa thực tiễn của vấn đề này, nên đã có nhiều công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như: Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính của Hoàng Xuân Hoan - Nguyễn Trí Hòa (1993), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh; Hỏi đáp về Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính của Đặng Thanh Sơn - Hà Thị Nga (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Tìm hiểu về xử phạt vi phạm hành chính của Phạm Dòng - Hoàng Sao (1998), Nxb Pháp lý; Chế tài hành chính - Lý luận và thực tiễn của tiến sĩ Vũ Thư (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Vi phạm pháp luật và đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay (2003), Luận án tiến sĩ Luật học của Bùi Minh Thanh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực hải quan và giải pháp xử lý, Luận văn thạc sĩ Luật học của Lê Nguyễn Nam Ninh (2004), Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội … Hoặc một số công trình có đề cập nội dung rất nhỏ liên quan đến vi phạm pháp luật nói chung như: Chính sách đất đai của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Tôn Gia Huyên (trong cuốn bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2002); Về thực trạng chính sách đất đai ở Việt Nam của Phạm Hữu Nghị, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 8/2002; Một số vấn đề quản lý nhà nước về đất đai trong giai đoạn hiện nay của tiến sĩ Nguyễn Đình Bồng, Tạp chí Quản lý nhà nước, 4/2001; Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai qua thực tiễn tỉnh Thái Bình, Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Mạnh Hùng (2003), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội… Nhìn chung, các công trình trên mới chỉ đề cập đến vi phạm pháp luật, vi phạm hành chính nói chung; hoặc vi phạm pháp luật ở lĩnh vực cụ thể là hải quan; hoặc ở một phạm vi rộng hơn, trong đó có nội dung nhỏ đề cập đến vi phạm pháp luật nói chung về đất đai…; mà chưa đề cập đến vi phạm hành chính về đất đai, đặc biệt cụ thể là ở tỉnh Thái Bình. Chính vì vậy, đề tài “Vi phạm hành chính về đất đai ở Thái Bình - thực trạng và giải pháp khắc phục” được xem là công trình đầu tiên nghiên cứu vấn đề vi phạm hành chính về đất đai ở một địa phương cụ thể. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu + Mục đích nghiên cứu Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phòng, chống vi phạm hành chính về đất đai ở Thái Bình hiện nay. + Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa và phân tích lý luận chung về vi phạm pháp luật và vi phạm hành chính. - Nghiên cứu cơ sở lý luận và quy định của pháp luật về vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. - Phân tích thực trạng vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính về đất đai ở Thái Bình. - Đề xuất các quan điểm và giải pháp phòng, chống vi phạm hành chính về đất đai ở Thái Bình trong thời gian tới + Phạm vi nghiên cứu - Về thời gian: Từ tháng 7/1995 (thời gian Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 có hiệu lực thi hành) đến hết năm 2004. - Về nội dung và không gian: Luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu một vấn đề cụ thể là vi phạm hành chính về đất đai tại Thái Bình. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu + Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời dùa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật nói chung, về quản lý nhà nước đối với đất đai, trong đó có xử lý vi phạm hành chính về đất đai nói riêng. + Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của triết học Mác-Lênin; kết hợp với các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê... 5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài + Luận văn thạc sĩ này là công trình đầu tiên dưới góc độ chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật nghiên cứu vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai ở Thái Bình. Luận văn đã hệ thống hoá cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật về vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, phân tích đánh giá thực trạng vi phạm hành chính về đất đai, từ đó đưa ra các quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường phòng, chống vi phạm hành chính về đất đai ở Thái Bình góp phần tăng cường quản lý nhà nước về đất đai ở Thái Bình cũng như trên phạm vi cả nước. Ngoài những đóng góp chung nêu trên luận văn có những đóng góp mới cụ thể sau đây: - Luận văn góp phần nghiên cứu khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. - Phân tích tình hình diễn biến phức tạp và khẳng định yêu cầu bức xúc của việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai ở Thái Bình. - Đề xuất các quan điểm và giải pháp phù hợp với thực tiễn của Thái Bình mang tính kiến nghị để các nhà quản lý còng như những người trực tiếp thi hành xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai ở Thái Bình nghiên cứu vận dông. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương với 8 tiết, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo. Chương 1 CƠ Sở Lý LUậN Và quy định của pháp luật Về VI PHạM HàNH CHíNH, xử lý vi phạm hành chính TRONG LĩNH VựC ĐấT ĐAI 1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM VI PHẠM HÀNH CHÍNH 1.1.1. Khái niệm, phân loại vi phạm pháp luật Khái niệm vi phạm pháp luật và cấu thành vi phạm pháp luật + Khái niệm vi phạm pháp luật Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung, là tiêu chuẩn của hành vi con người. Hành vi là những phản ứng, cách ứng xử được biểu hiện ra bên ngoài của con người trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định. Mỗi hành vi đều được hình thành trên cơ sở nhận thức và kiểm soát của chủ thể, mà chủ thể ý thức được và chủ động thực hiện nó. Những hoạt động của con người không thể coi là hành vi, nếu con người hoạt động trong trạng thái vô thức. Trong hoạt động của mỗi người thường có rất nhiều hành vi khác nhau được thể hiện bằng những phương thức khác nhau trong quá trình sản xuất, trao đổi, sinh hoạt hàng ngày trong cuộc sống. Song tuỳ theo tính chất, đặc điểm và những lĩnh vực thể hiện của hành vi con người mà xã hội đặt ra những tiêu chuẩn, những công cụ điều chỉnh chúng khác nhau. Những hành vi nào của con người được pháp luật quy định, điều chỉnh thì được gọi là hành vi pháp luật. Hành vi pháp luật gắn liền với các quy định của pháp luật, những hành vi không được pháp luật quy định, điều chỉnh thì không phải là hành vi pháp luật. Hành vi pháp luật rất đa dạng nên có thể phân chia chúng dùa theo nhiều tiêu chí khác nhau. - Căn cứ vào phương thức biểu đạt ra bên ngoài có thể chia hành vi pháp luật thành hành vi hành động và hành vi không hành động. Hành vi hành động là hành vi mà chủ thể phải thực hiện bằng những thao tác nhất định. Chẳng hạn, hành vi ký hợp đồng, hành vi tham gia giao thông trên đường phố... Hành vi không hành động là hành vi mà chủ thể thực hiện nó bằng cách không tiến hành những thao tác nhất định. Chẳng hạn, hành vi không tố giác người phạm tội, hành vi không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng... - Căn cứ vào chủ thể thực hiện có thể chia hành vi pháp luật thành hành vi của cá nhân và hành vi (hoạt động) của tổ chức... - Căn cứ vào sự phù hợp của hành vi với quy định của pháp luật có thể chia hành vi pháp luật thành hành vi hợp pháp và hành vi không hợp pháp. Hành vi hợp pháp là những hành vi được thực hiện phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật. Hành vi không hợp pháp là hành vi được thực hiện trái với những quy định của pháp luật như không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc mà pháp luật cấm, hành động vượt quá phạm vi cho phép của pháp luật... Hành vi không hợp pháp được phân thành hành vi vi phạm pháp luật và những hành vi trái pháp luật nhưng không bị coi là vi phạm pháp luật. Hành vi vi phạm pháp luật là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, có lỗi và do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện. Vậy muốn xác định hành vi vi phạm pháp luật thì phải dùa vào các dấu hiệu cơ bản sau: - Thứ nhất, là hành vi nguy hiểm cho xã hội: Như ta đã biết các quy định của pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh hành vi của con người. C.Mác đã nhấn mạnh: Ngoài hành vi của mình ra tôi hoàn toàn không tồn tại đối với pháp luật, hoàn toàn không phải là đối tượng của nó. Những hành vi của tôi - đó là lĩnh vực duy nhất trong đó tôi đụng chạm với pháp luật, bởi vì hành vi là cái duy nhất vì nó mà tôi đòi quyền tồn tại, quyền hiện thực, và như vậy là do nó mà tôi rơi vào quyền lực của pháp luật hiện hành [5, tr.19]. Cho nên vi phạm pháp luật trước hết là hành vi của con người hoặc là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội... nguy hiểm hoặc có khả năng gây nguy hiểm cho xã hội. Khi xác định vi phạm pháp luật thì dấu hiệu hành vi là không thể thiếu được, nói cách khác, không có hành vi nguy hiểm của con người thì không có vi phạm pháp luật. - Thứ hai, là hành vi trái pháp luật: Đã là hành vi xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ. Vi phạm pháp luật không những phải có dấu hiệu là hành vi nguy hiểm cho xã hội mà còn phải có dấu hiệu trái pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ. - Thứ ba, có lỗi của chủ thể: Dấu hiệu trái pháp luật chỉ là biểu hiện bên ngoài của hành vi, để xác định vi phạm pháp luật cần xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, nghĩa là, xác định lỗi của chủ thể khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đó. Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của mình. Nếu một hành vi trái pháp luật được thực hiện do những điều kiện và hoàn cảnh khách quan, chủ thể thực hiện hành vi đó không cố ý và cũng không vô ý hoặc không thể nhận thức được, từ đó không lùa chọn được cách xử sự theo yêu cầu của pháp luật thì chủ thể thực hiện hành vi đó không bị coi là có lỗi và hành vi đó không bị coi là vi phạm pháp luật. Kể cả những hành vi trái pháp luật mà chủ thể buộc phải thực hiện khi không có sự lựa chọn khác cũng có thể không bị coi là vi phạm pháp luật. - Thứ tư, chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý: Năng lực trách nhiệm pháp lý là khả năng tự mình chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy chủ thể của vi phạm pháp luật phải là những người đã đạt tới một độ tuổi nhất định, không mắc bệnh tâm thần và các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình, có điều kiện lùa chọn và quyết định cách xử sự. Vì vậy, pháp luật chỉ quy định năng lực trách nhiệm pháp lý cho những người đã đạt được một độ tuổi nhất định, có khả năng lý trí và có tự do ý chí. Tóm lại, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cè ý hoặc vô ý, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. + Cấu thành vi phạm pháp luật Là mét sự kiện pháp lý, vi phạm pháp luật được cấu thành bởi mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể. - Mặt khách quan của vi phạm pháp luật: Là những biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm pháp luật, bao gồm: Hành vi trái pháp luật; hậu quả do hành vi trái pháp luật gây ra; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả mà nó gây ra cho xã hội. Ngoài những yếu tố trên trong mặt khách quan của vi phạm pháp luật còn có các yếu tố khác như thời gian, địa điểm, phương tiện và công cụ vi phạm... - Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật: Là những biểu hiện tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm pháp luật. Nó bao gồm những yếu tố như: Lỗi của chủ thể vi phạm pháp luật: Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi vi phạm của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Khoa học pháp lý chia lỗi ra thành hai loại lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý có thÓ là vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả. Động cơ vi phạm: Động cơ được hiểu là động lực thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Thông thường khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật chủ thể thường được thúc đẩy bởi một động cơ nào đó. Động cơ đó có thể là vụ lợi, trả thù, hay đê hèn... Mục đích vi phạm: Mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ của mình, chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, không phải khi nào kết quả mà chủ thể vi phạm đạt được trong thực tế cũng trùng hợp với mục đích mà chủ thể vi phạm mong muốn đạt được. Chẳng hạn, H chỉ muốn làm K đau (mục đích gây thương tích) nhưng kết quả thực tế K chết (cái chết của K nằm ngoài mong muốn của H). - Chủ thể vi phạm pháp luật: Chủ thể vi phạm pháp luật có thể là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực chủ thể, nghĩa là theo quy định của pháp luật thì họ phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi trái pháp luật của mình. - Khách thể vi phạm pháp luật: Là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Những quan hệ xã hội khác nhau thì có tính chất và tầm quan trọng khác nhau, do vậy, tính chất và tầm quan trọng của khách thể cũng là những yếu tố để xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật. b. Phân loại vi phạm pháp luật Hiện tượng vi phạm pháp luật trong xã hội rất đa dạng, nên có thể phân chia vi phạm pháp luật theo nhiề
Tài liệu liên quan