Đặt vấn đề: Nhiễm độc gan do thuốc là biến cố bất lợi thường gặp nhất trong điều trị lao. Ở Việt Nam, tần
suất nhiễm HBV và HCV rất cao nhưng có ít dữ liệu về nhiễm độc gan do thuốc chống lao ở những bệnh nhân
có huyết thanh chẩn đoán siêu vi viêm gan dương tính.
Mục tiêu: Mô tả tần suất nhiễm độc gan do thuốc lao ở những bệnh nhân có nhiễm HBV và HCV.
Chất liệu và phương pháp: Trong số 315 bệnh nhân đang điều trị lao nhập bệnh viện Phạm Ngọc Thạch
(thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam) từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2010 do phản ứng bất lợi của thuốc chống
lao, chúng tôi hồi cứu bệnh án của 94 bệnh nhân có làm xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán siêu vi viêm gan
(HBsAg và anti‐HCV). Chúng tôi sử dụng mẫu báo cáo ca bệnh được chuẩn hóa để thu thập các dữ liệu về nhân
khẩu học, lâm sàng và xét nghiệm.
Kết quả: Trong số 94 bệnh nhân được phân tích, tuổi trung bình là 43 ± 17 tuổi, tỷ lệ nam:nữ là 3:1. Có
12,8% bệnh nhân có HBsAg dương tính, 6,4% bệnh nhân có anti‐HCV dương tính, và 2,1% bệnh nhân dương
tính với cả HBsAg và anti‐HCV. Các nhiễm độc gan (vàng da, tăng men gan, tăng bilirubin) thường xảy ra ở
bệnh nhân có huyết thanh dương tính với HBV và/hoặc HCV (HBsAg và/hoặc anti‐HCV dương tính) so với các
bệnh nhân có các xét nghiệm trên âm tính: 40% trong số các bệnh nhân có huyết thanh dương tính với HBV
hoặc HCV hoặc cả hai có triệu chứng phù hợp với nhiễm độc gan do thuốc so với chỉ 18,9% bệnh nhân có huyết
thanh âm tính với HBV, HCV có triệu chứng phù hợp với nhiễm độc gan do thuốc.
Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy bệnh nhân có nhiễm siêu vi viêm gan (HBV, HCV) được điều
trị lao có tần suất nhiễm độc gan cao hơn. Như vậy, trong những vùng dịch tễ như Việt Nam, tất cả bệnh nhân
được điều trị lao nên làm xét nghiệm chẩn đoán nhiễm siêu vi viêm gan và bác sĩ lâm sàng cần đặc biệt chú ý
những bệnh nhân này.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 285 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Viêm gan siêu vi và nhiễm độc gan ở bệnh nhân điều trị lao tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 67
VIÊM GAN SIÊU VI VÀ NHIỄM ĐỘC GAN
Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ LAO TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH
Nguyễn Thị Bích Yến*, Nguyễn Huy Dũng*, Nguyễn Hữu Lân*, Lê Tự Phương Thảo**,
Nguyễn Thanh Hiệp**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nhiễm độc gan do thuốc là biến cố bất lợi thường gặp nhất trong điều trị lao. Ở Việt Nam, tần
suất nhiễm HBV và HCV rất cao nhưng có ít dữ liệu về nhiễm độc gan do thuốc chống lao ở những bệnh nhân
có huyết thanh chẩn đoán siêu vi viêm gan dương tính.
Mục tiêu: Mô tả tần suất nhiễm độc gan do thuốc lao ở những bệnh nhân có nhiễm HBV và HCV.
Chất liệu và phương pháp: Trong số 315 bệnh nhân đang điều trị lao nhập bệnh viện Phạm Ngọc Thạch
(thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam) từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2010 do phản ứng bất lợi của thuốc chống
lao, chúng tôi hồi cứu bệnh án của 94 bệnh nhân có làm xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán siêu vi viêm gan
(HBsAg và anti‐HCV). Chúng tôi sử dụng mẫu báo cáo ca bệnh được chuẩn hóa để thu thập các dữ liệu về nhân
khẩu học, lâm sàng và xét nghiệm.
Kết quả: Trong số 94 bệnh nhân được phân tích, tuổi trung bình là 43 ± 17 tuổi, tỷ lệ nam:nữ là 3:1. Có
12,8% bệnh nhân có HBsAg dương tính, 6,4% bệnh nhân có anti‐HCV dương tính, và 2,1% bệnh nhân dương
tính với cả HBsAg và anti‐HCV. Các nhiễm độc gan (vàng da, tăng men gan, tăng bilirubin) thường xảy ra ở
bệnh nhân có huyết thanh dương tính với HBV và/hoặc HCV (HBsAg và/hoặc anti‐HCV dương tính) so với các
bệnh nhân có các xét nghiệm trên âm tính: 40% trong số các bệnh nhân có huyết thanh dương tính với HBV
hoặc HCV hoặc cả hai có triệu chứng phù hợp với nhiễm độc gan do thuốc so với chỉ 18,9% bệnh nhân có huyết
thanh âm tính với HBV, HCV có triệu chứng phù hợp với nhiễm độc gan do thuốc.
Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy bệnh nhân có nhiễm siêu vi viêm gan (HBV, HCV) được điều
trị lao có tần suất nhiễm độc gan cao hơn. Như vậy, trong những vùng dịch tễ như Việt Nam, tất cả bệnh nhân
được điều trị lao nên làm xét nghiệm chẩn đoán nhiễm siêu vi viêm gan và bác sĩ lâm sàng cần đặc biệt chú ý
những bệnh nhân này.
Từ khóa: bệnh nhân lao, HBV, HCV.
ABSTRACT
VIRAL HEPATITIS AND HEPATIC TOXICITY IN PATIENTS TREATED FOR TUBERCULOSIS
IN PHAM NGOC THACH HOSPITAL
Nguyen Thi Bich Yen, Nguyen Huy Dung, Nguyen Huu Lan, Le Tu Phuong Thao,
Nguyen Thanh Hiep * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 67 ‐ 72
Background: Drug‐induced hepatotoxicity is the most common adverse drug reaction (ADR) due to
tuberculosis treatment. In Viet Nam, prevalence of hepatitis B and C are high, but data on hepatic
toxicity associated with antimycobacterial medications among patients with seropositivity to viral hepatitis are
limited.
Objective: To describe the frequency of hepatic toxicity in patients presenting with ADRs due to
* Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, Tp. Hồ Chí Minh ** Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Tp. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Hữu Lân Email: nguyenhuulan1965@yahoo.com.vn ĐT: 0913 185 885
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 68
antimycobacterial medications according HBV and HCV status.
Materials and Methods: Among 315 patients treated for tuberculosis and hospitalized in Pham Ngoc
Thach Hospital (Ho Chi Minh City, Vietnam) from January to December 2010 for ADRS, we retrospectively
discovered medical records of 94 patients who had viral hepatitis testing (Ag HBs and HCV antibodies). A
standardized case record form was used to collect demographic, clinical, and biological data.
Results: Among the 94 patients analyzed, mean age was 43 ± 17 years, with a male to
female ratio of 3:1. 12.8% of the patients were Ag HBs positive, 6.4% had HCV antibodies, and 2.1% were
positive for both Ag HBs and HCV antibodies. Symptoms of hepatotoxicity (jaundice, elevated transaminases,
elevated bilirubin) occurred more frequently in patients who were seropositive for viral hepatitis B and/or C (Ags
HBs + and/or HCV Antibodies +) compared to patients with negative tests: 40% of those who are seropositive for
hepatitis B or C or both met criteria for ADR and 18.9% of seronegative patients met your criteria for ADR.
Conclusion: Our findings showed that patients with a positive serology for viral hepatitis (HBV, HCV)
treated for tuberculosis have a higher frequency of hepatotoxicity. Therefore, in endemic areas like Viet Nam, viral
hepatitis testing should be proposed to all patients treated for tuberculosis and clinicians should pay particular
attention to these patients.
Key words: TB patient, Hepatitis B virus (HBV), Hepatitis C virus (HCV), antituberculous agent,
adverse drug reactions (ADRs).
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phản ứng bất lợi do thuốc chống lao dẫn tới
gián đoạn điều trị thường gặp nhất là nhiễm độc
gan(10). Nhiễm độc gan do thuốc lao có liên quan
đến tỷ lệ tử vong từ 6%‐12% nếu những thuốc
này vẫn tiếp tục được sử dụng sau khi bệnh
nhân có triệu chứng(4). Nguy cơ nhiễm độc gan
tăng lên khi nhiều thuốc được sử dụng kết hợp.
Điều trị lao sau khi có viêm gan rất khó khăn và
có nhiều điểm chưa thống nhất. Có rất ít nghiên
cứu được công bố liên quan đến vấn đề này, và
các kết quả nghiên cứu cho thấy những phác đồ
thử thuốc khác nhau cho kết quả thành công
khác nhau(1,13,14). Sự tái xuất hiện của nhiễm độc
gan do thuốc chống lao có thể là yếu tố quan
trọng làm cho bệnh nhân phát triển lao kháng
thuốc. Một trong những yếu tố nguy cơ gây ra
nhiễm độc gan do thuốc lao là bệnh nhân lao bị
nhiễm thêm siêu vi viêm gan như HBV, HCV(9).
Mặc khác, viêm gan siêu vi cấp thường gây chẩn
đoán nhầm với nhiễm độc gan do thuốc ở
những bệnh nhân đang điều trị lao(8).
Việt Nam là nước có tỷ lệ nhiễm HBV, HCV
cao. Thống kê tại thành phố Hồ chí Minh và Hà
Nội cho thấy tỷ lệ người có HbsAg dương tính
chiếm từ 9% đến 14%(5). Tỷ lệ người nhiễm HCV
chiếm từ 2 đến 2,9% dân số(15). Các tổ chống lao
địa phương mới chỉ quan tâm đến việc điều trị
lao cho bệnh nhân mà chưa chú trọng đến xét
nghiệm tầm soát nhiễm siêu vi viêm gan cho họ.
Phản ứng thuốc chống lao là biến cố khá thường
gặp ở bệnh nhân lao. Hàng năm, bệnh viện
Phạm Ngọc Thạch thường tiếp nhận nhiều bệnh
nhân bị phản ứng thuốc chống lao nặng nhập
viện. Tuy nhiên, chúng tôi chưa tìm thấy nghiên
cứu về tình hình phản ứng thuốc chống lao ở
bệnh nhân đang điều trị lao có nhiễm siêu vi
viêm gan. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên
cứu hồi cứu này nhằm đánh giá tình trạng
nhiễm siêu vi viêm gan ở bệnh nhân đang điều
trị lao có tổn thương gan. Chúng tôi hy vọng có
được những số liệu bước đầu để giúp chúng tôi
có hướng phát triển thêm các nghiên cứu sâu
hơn về loại bệnh này trong tương lai.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng nghiên cứu là tất cả các bệnh
nhân lao nhập bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ
tháng 1.2010 đến tháng 12.2010 vì phản ứng với
thuốc chống lao trong giai đoạn điều trị và đồng
ý làm xét nghiệm đồng thời HBsAg và antiHCV
để tầm soát nhiễm HBV, HCV. Chúng tôi thực
hiện nghiên cứu hồi cứu, mô tả loạt ca lâm sàng.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 69
Các dữ liệu được ghi nhận để đưa vào phân tích
trong nghiên cứu bao gồm tuổi, giới, tình trạng
hút thuốc lá, uống rượu, nghiện ma túy, tiền căn
điều trị lao, dị ứng thuốc, các loại tổn thương do
độc tính của thuốc lao, loại thuốc lao gây phản
ứng có hại cho bệnh nhân, xét nghiệm HIV,
Các số liệu sau khi thu thập sẽ được mã hóa và
nhập vào máy vi tính, sử dụng phần mềm Stata
10 để xử lý. Chúng tôi sử dụng phép kiểm
Mann‐Whitney để so sánh sự khác biệt giữa hai
nhóm bệnh nhân cho các biến định lượng và
phép kiểm χ2 để so sánh sự khác biệt về tỷ lệ
giữa hai nhóm bệnh nhân cho các biến định tính.
Thực hiện phép kiểm chính xác của Fisher
(Fisher’s Exact Test) nếu có trên 20% số ô trong
bảng chéo có tần số mong đợi nhỏ hơn 5. Tất cả
các phương pháp kiểm định giả thuyết được
thực hiện bằng cách sử dụng kiểm định 2 bên
(two‐sided alternatives). Ngưỡng ý nghĩa là 0,05
(p < 0,05) để chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết
thống kê.
KẾT QUẢ
Vào năm 2010, tại bệnh viện Phạm Ngọc
Thạch, có 315 bệnh nhân bị phản ứng với thuốc
chống lao vào điều trị nội trú, trong đó có 94
bệnh nhân đồng ý làm xét nghiệm đồng thời
HBsAg và antiHCV để tầm soát nhiễm HBV,
HCV. Kết quả có 6 (6,4%) bệnh nhân nhiễm
HBV, 12 (12,8%) bệnh nhân nhiễm HCV, 2
(2,1%) bệnh nhân đồng nhiễm HBV và HCV, 74
(78,7%) bệnh nhân có huyết thanh chẩn đoán
HBV và HCV âm tính. 94 bệnh nhân nghiên cứu
có tuổi trung bình là 43 ± 17 tuổi (từ 15 – 79 tuổi),
tỷ lệ nam/nữ là 3,1/1. Tuổi trung bình bệnh nhân
nam là 46 ± 16 tuổi, nữ là 36 ± 17 tuổi (p = 0,008).
17% bệnh nhân có tiền căn điều trị lao, 4,3% có
tiền căn dị ứng thuốc chống lao. Có 22 bệnh
nhân HIV dương tính trong số 51 bệnh nhân
làm xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán HIV,
chiếm tỷ
lệ 43,1%.
Bệnh nhân nhiễm HBV và/hoặc HCV có tuổi
trung bình 41 ± 13 tuổi (từ 23 – 61 tuổi), trong đó
có 19 nam (95%) và 1 nữ (5%). Tuổi trung bình
bệnh nhân nam là 42 ± 12 tuổi, một bệnh nhân
nữ 25 tuổi (p < 0,1). 35% bệnh nhân có tiền căn
điều trị lao, 5% có tiền căn dị ứng thuốc chống
lao. Trong số 13 bệnh nhân làm xét nghiệm tầm
soát HIV, có 9 bệnh nhân HIV dương tính,
chiếm tỷ lệ 69,2%.
Bệnh nhân có huyết thanh chẩn đoán HBV
và HCV âm tính có tuổi trung bình 44 ± 18 tuổi
(từ 15 – 79 tuổi), tỷ lệ nam/nữ là 2,4/1. Tuổi trung
bình bệnh nhân nam là 47 ± 17 tuổi, nữ là 36 ± 17
tuổi (p < 0,02). 12,2% bệnh nhân có tiền căn điều
trị lao, 4,1% có tiền căn dị ứng thuốc chống lao.
Có 13 bệnh nhân HIV dương tính trong số 38
bệnh nhân làm xét nghiệm huyết thanh chẩn
đoán HIV, chiếm tỷ lệ 34,2%.
Về biểu hiện lâm sàng, các triệu chứng phản
ứng thuốc lao rất đa đạng ở cả 2 nhóm bệnh
nhân có và không nhiễm HBV và HCV (Bảng 1).
Tuy nhiên, chúng tôi thấy các loại tổn thương da
do phản ứng với thuốc chống lao thường xảy ra
ở nhóm bệnh nhân có xét nghiệm huyết thanh
chẩn đoán HBV, HCV âm tính nhiều hơn là
nhóm bệnh nhân có xét nghiệm huyết thanh
chẩn đoán HBV, HC dương tính (55,4% so với
25%, p < 0,02). Ngược lại, tổn thương nhiễm độc
gan do phản ứng với thuốc chống lao thường
xảy ra ở nhóm bệnh nhân có xét nghiệm huyết
thanh chẩn đoán HBV, HCV dương tính hơn là
âm tính (40% so với 18,9%, p < 0,05).
Bảng 1: Các loại tổn thương do độc tính của thuốc
lao
HBV và/hoặc
HCV (+) n (%)
HBV và HCV
(-) n (%)
Buồn nôn 0(0%) 2(2,7%)
Nôn 1(5%) 8(10,8%)
Đau bụng 0(0%) 1(1,4%)
Chóng mặt 1(5%) 0(0%)
Ù tai 0(0%) 0(0%)
Mẩn ngứa 4(20%) 32(43,2%)
Đỏ da toàn thân 1(5%) 9(12,2%)
Phù mạch 0(0%) 1(1,4%)
Tê bì do viêm dây thần kinh
ngoại vi 0(0%) 1(1,4%)
Rối loạn tâm lý 2(10%) 5(6,8%)
Ngất, lơ mơ, hôn mê 1(5%) 2(2,7%)
Sốt 0(0%) 2(2,7%)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 70
HBV và/hoặc
HCV (+) n (%)
HBV và HCV
(-) n (%)
Tăng men gan 1(5%) 3(4,1%)
Vàng da 7(35%) 11(14,9%)
Giảm tế bào máu 0(0%) 1(1,4%)
Xuất huyết dưới da 0(0%) 1(1,4%)
BÀN LUẬN
Phản ứng có hại của thuốc chống lao liên
quan đến nhiều yếu tố khác nhau và yếu tố
quyết định những phản ứng như vậy chủ yếu
do liều lượng, thời điểm sử dụng thuốc trong
ngày, cũng như tuổi, tình trạng dinh dưỡng
bệnh nhân, bệnh phối hợp như nghiện rượu, suy
giảm chức năng gan, suy giảm chức năng thận,
đồng nhiễm HIV. Có 3 loại thuốc chống lao thiết
yếu là Rifampicin, Isoniazid, Pyrazinamid có
độc tính tiềm ẩn trên gan. Những thuốc này
được chuyển hóa ở gan. Ba loại thuốc này tương
tác lẫn nhau và với những thuốc khác, đôi khi
làm tăng độc tính gan. Những bệnh nhân sử
dụng thuốc Rifampicin, Isoniazid, Pyrazinamid,
có nguy cơ trung bình về tình trạng viêm gan do
thuốc từ 1‐10% tùy thuộc vào các yếu tố như
chủng tộc, tình trạng kinh tế ‐ xã hội và vị trí địa
lý. Những yếu tố thuận lợi cho độc tính trên gan
bao gồm do di truyền, tuổi cao, mức độ bệnh tật,
giới nữ, tình trạng suy dinh dưỡng, liều lượng
quá cao, sử dụng kết hợp với những thuốc gây
độc trên gan, nghiện rượu, viêm gan siêu vị mạn
(type B, C) và nhiễm HIV. Gần 5% bệnh nhân
lao sử dụng phác đồ Rifampicin + Isoniazid +
Pyrazinamid sẽ có tình trạng tăng men gan từ 3‐
5 lần, tăng nồng độ Bilirubin mà không có biểu
hiện lâm sàng(2). Khuyến cáo của Nghiên cứu
của Shakya R thực hiện tại Kathmandu, Nepal là
cần thận trọng hơn khi tái điều trị với isoniazid,
rifampicin, pyrazinamid sau khi chức năng gan
của bệnh nhân nhiễm độc gan nặng do thuốc lao
trở lại bình thường(11). Nhiễm độc gan do thuốc
lao tương đối thường gặp, nhất là ở những nơi
có nguồn lực hạn chế và có dịch tễ lao cao. Bên
cạnh đó, viêm gan siêu vi cấp cũng thường gặp
ở những khu vực này. Nghiên cứu của Sarda P.
và cộng sự nhận thấy viêm gan cấp do siêu vi là
yếu tố nhiễu quan trọng của nhiễm độc gan do
thuốc lao(8). Tại Việt Nam, trong năm 2011 có
30.000 người chết vì bệnh lao, 180.000 người mắc
lao, trong đó có 14.000 bệnh nhân lao nhiễm
HIV(16). Việt Nam là nước có tỷ lệ người nhiễm
HBV và/hoặc HCV cao(5). Vì vậy, phân biệt triệu
chứng độc tính gan ở một bệnh nhân đang điều
trị lao phổi là do thuốc lao hay do viêm gan siêu
vi hay phối hợp cả hai bệnh là công việc quan
trọng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận
chỉ có 29,8% bệnh nhân bị phản ứng thuốc
chống lao nhập viện được các bác sĩ điều trị cho
tầm soát tình trạng nhiễm siêu vi viêm gan B và
C và thường chỉ được thực hiện khi bệnh nhận
có triệu chứng vàng da niêm. Trong khi
streptomycin không gây độc cho gan(3) thì các
thuốc rifampicin, isoniazid và pyrazinamid lại là
những thuốc có độc tính trên gan cao. Theo
Arbex MA và cộng sự, ở bệnh nhân đang điều
trị lao bằng công thức có rifampicin, isoniazid,
pyrazinamid, hoại tử tế bào gan cấp không phân
biệt được với viêm gan do phản ứng có hại của
thuốc chống lao hay do siêu vi viêm gan; khi
uống kết hợp rifampicin và isoniazid có thể làm
tái hoạt động ở những bệnh nhân bị nhiễm siêu
vi viêm gan không có triệu chứng, vì vậy, có thể
là nguyên nhân của một đợt viêm gan cấp,
thường là viêm gan B(2). Ở những bệnh nhân này
cần đặt ra vấn đề chẩn đoán tổn thương độc tính
gan là do HBV và/hoặc HCV, hay do phản ứng
có hại của thuốc chống lao.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi cũng ghi
nhận chỉ có 1 số rất ít bệnh nhân có nhiễm HBV
và hoặc HCV trong nghiên cứu này được chỉ
định xét nghiệm tải lượng siêu vi. Tại thành phố
Hồ Chí Minh, kỹ thuật này đã được thực hiện
rất rộng rãi để giúp chẩn đoán và điều trị bệnh
viêm gan siêu vi cho bệnh nhân. Việc tầm soát
tình trạng đồng nhiễm HBV và HCV ở bệnh
nhân có triệu chứng phản ứng thuốc khi đang
điều trị lao trong nghiên cứu này rõ ràng chưa
được quan tâm đúng mức. Đây là một hạn chế
trong thực hành lâm sàng cần được khắc phục,
đặc biệt ở một bệnh viện chuyên khoa đầu
ngành như bệnh viện Phạm Ngọc Thạch.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 71
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
phản ứng có hại của thuốc chống lao thường
gặp nhất là độc tính trên da với tần suất xảy ra là
48,9% (25% trong nhóm bệnh nhân có xét
nghiệm huyết thanh chẩn đoán HBVvà/hoặc
HCV dương tính, thấp hơn so với 55,4% trong
nhóm bệnh nhân có xét nghiệm huyết thanh
chẩn đoán HBV, HCV âm tính, p < 0,02). Ngược
lại, tần suất xảy ra nhiễm độc gan là 40% trong
nhóm bệnh nhân có xét nghiệm huyết thanh
chẩn đoán HBVvà/hoặc HCV dương tính, cao
hơn có ý nghĩa thống kê so với 18,9% trong
nhóm bệnh nhân có xét nghiệm huyết thanh
chẩn đoán HBV, HCV âm tính (p < 0,05), và
nhiễm độc gan cũng là triệu chứng thường gặp
đứng hàng thứ hai trong số các độc tính do
thuốc chống lao gây ra (23,4%). Theo Marks DJB
và cộng sự, tỷ lệ nhiễm độc gan thấp một cách
bất thường có thể do không có dữ liệu cơ sở và
không có theo dõi các xét nghiệm chức năng
gan(6).
Điều trị lao ở bệnh nhân nhiễm HIV rất
phức tạp vì những bệnh nhân này nói chung cần
sử dụng cả thuốc ARV, là những yếu tố có thể
gây nhiễm độc gan và có tương tác về độc tính
với thuốc lao. Bên cạnh đó, viêm gan ở những
bệnh nhân này cũng có thể là một nhiễm trùng
cơ hội thường gặp, nhất là tình trạng xuất hiện
Hội chứng phục hồi miễn dịch ở những bệnh
nhân có điều trị ARV(12). Trong nghiên cứu của
chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân nhiễm HIV có xét
nghiệm huyết thanh chẩn đoán HBV và/hoặc
HCV dương tính cao hơn có ý nghĩa thống kê so
với tỷ lệ bệnh nhân nhiễm HIV có xét nghiệm
huyết thanh chẩn đoán HBV, HCV âm tính
(69,2% so với 34,2%, p < 0,01). Kết quả này cũng
phù hợp với một số nghiên cứu trước đây tại
Việt Nam, đa số người nhiễm HIV là nghiện
chích ma túy và có tỷ lệ đồng nhiễm HBV
và/hoặc HCV rất cao so với cộng đồng(7).
KẾT LUẬN
Chúng tôi nhận thấy đây là một nghiên cứu
hồi cứu, số liệu từ các bệnh án lâm sàng còn
chưa đầy đủ nên kết quả nghiên cứu chưa phản
ánh hết được tầm quan trọng của phản ứng
thuốc chống lao nói chung, nhiễm độc gan nói
riêng trên bệnh nhân lao có đồng nhiễm HBV,
HCV. Chúng tôi ghi nhận bước đầu rằng bệnh
nhân đang điều trị lao có nhiễm HBV, HCV có
tần suất nhiễm độc gan cao hơn. Như vậy, trong
những vùng dịch tễ như Việt Nam, tất cả bệnh
nhân được điều trị lao nên làm xét nghiệm chẩn
đoán nhiễm siêu vi viêm gan và bác sĩ lâm sàng
cần đặc biệt chú ý những bệnh nhân này. Một
nghiên cứu tiến cứu về mối liên hệ giữa độc tính
gan do thuốc chống lao với tình trạng đồng
nhiễm siêu vi viêm gan ở bệnh nhân đang điều
trị lao cũng là vấn đề cấp thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agal S, Baijal R, Pramanik S, et al (2005). Monitoring and
management of anti‐tuberculosis drug induced hepatotoxicity. J
Gastroenterol Hepatol, 20: 1745‐1752.
2. Arbex MA, Varella MCL, Siqueira HR, et al (2010).
Antituberculosis drugs: Drug interactions, adverse effects, and
use in special situations. Part 1: First‐line drugs*, J Bras
Pneumol, 36(5): 626‐640.
3. Arbex MA, Varella MCL, Siqueira HR, et al (2010).
Antituberculosis drugs: Drug interactions, adverse effects, and
use in special situations. Part 2: Second‐line drugs*, J Bras
Pneumol, 36(5): 641‐656.
4. Dash LA, Comstock GW, Flynn PG (1980). Isoniazid preventive
therapy: retrospect and prospect. Am Rev Respir Dis, 121: 1039‐
1044.
5. Hồng Anh Thị Từ, Woerdenbag HJ., A Riewpaiboon et al
(2012). Cost of Illness of Chronic Hepatitis B Infection in
Vietnam. Value in Health Regional, 1: 23‐28.
6. Marks DJB, Dheda K, Daw