Xác định tỷ lệ loãng xương và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ ≥ 50 tại Thành phố Vũng Tàu, Bà Rịa ‐ Vũng Tàu

Đặt vấn đề: Mặc dù là vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng nhưng loãng xương và hậu quả của nó chưa được quan tâm đúng mức. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ loãng xương vàmột số yếu tố liên quan ở phụ nữ ≥50 tuổi tại thành phố Vũng Tàu, năm 2013. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang với cỡ mẫu 410 phụ nữ ≥50 tuổi. Sử dụng bộ câu hỏi phỏng vấn trực tiếp để thu thập các số liệu về đặc điểm dân số xã hội, tiền sử cá nhân và gia đình. Đo nhân trắc học và xác định tỷ lệ loãng xương bằng phương pháp hấp thu năng lượng kép (DXA). Kết quả: Tỷ lệ loãng xương ở CXĐ là 21%, tỷ lệ thiếu xương là 19%. Tỷ lệ loãng xương ở xương đùi là 14,7%, tỷ lệ thiếu xương là 19%. Tỷ lệ loãng xương tăng theo tuổi và tăng cùng thời gian mãn kinh. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa loãng xương với tuổi, cân nặng, số lần sinh con và tình trạng mãn kinh khi sử dụng mô hình phân tích đa biến. Kết luận: Tỷ lệ loãng xương ở CXĐ của phụ nữ ≥ 50 tuổi tại thành phố Vũng Tàu là 21%. Có mối liên quan giữa loãng xương và nhóm tuổi, số lần sinh, cân nặng và thời gian mãn kinh.

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 364 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định tỷ lệ loãng xương và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ ≥ 50 tại Thành phố Vũng Tàu, Bà Rịa ‐ Vũng Tàu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 134 XÁC ĐỊNH TỶ LỆ LOÃNG XƯƠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN   Ở PHỤ NỮ ≥ 50 TẠI THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, BÀ RỊA‐VŨNG TÀU  Đặng Thị Hải Yến*, Đặng Văn Chính**  TÓM TẮT   Đặt vấn đề: Mặc dù là vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng nhưng loãng xương và hậu quả của nó chưa  được quan tâm đúng mức.  Mục tiêu: Xác định tỉ lệ loãng xương vàmột số yếu tố liên quan ở phụ nữ ≥50 tuổi tại thành phố Vũng Tàu,  năm 2013.  Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang với cỡ mẫu 410 phụ nữ ≥50 tuổi. Sử dụng bộ câu hỏi  phỏng vấn trực tiếp để thu thập các số liệu về đặc điểm dân số xã hội, tiền sử cá nhân và gia đình. Đo nhân trắc  học và xác định tỷ lệ loãng xương bằng phương pháp hấp thu năng lượng kép (DXA).  Kết quả: Tỷ lệ loãng xương ở CXĐ là 21%, tỷ lệ thiếu xương là 19%. Tỷ lệ loãng xương ở xương đùi là  14,7%, tỷ lệ thiếu xương là 19%. Tỷ lệ loãng xương tăng theo tuổi và tăng cùng thời gian mãn kinh. Có mối liên  quan có ý nghĩa thống kê giữa loãng xương với tuổi, cân nặng, số lần sinh con và tình trạng mãn kinh khi sử  dụng mô hình phân tích đa biến.  Kết  luận: Tỷ lệ loãng xương ở CXĐ của phụ nữ ≥ 50 tuổi tại thành phố Vũng Tàu là 21%. Có mối liên  quan giữa loãng xương và nhóm tuổi, số lần sinh, cân nặng và thời gian mãn kinh.  Từ khóa: loãng xương, phụ nữ ≥50 tuổi.   ABSTRACT  DETERMINATION THE OSTEOPOROSIS PROPORTION, SOME RELATIONSHIPS OF WOMEN  ABOVE 50 YEARS OLD IN VUNG TAU CITYBA RIA‐VUNG TAU PROVINCE  Dang Thi Hai Yen, Dang Van Chinh  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 134 – 140  Background:Osteoporosis is a significantt public health problem; however its magnitude and consequences  have not been concerned sufficiently.  Objectives: To determine  the prevalence of osteoporosis and  low bone mass and  its determinants among  women who aged 50 years and older in Vung Tau City, Ba Ria‐Vung Tau province, 2013.  Methods:  This  wasacross‐sectional  survey  with  a  sample  of  410  women,  aged  50  years  and  older.  Socioeconomic variable and individual or family characteristics were collected by a questionaire. Osteoporosis was  measured by dual‐energy X‐ray absorptionmetry mehod (DXA).  Result: The prevalence of osteoporosis and low bone mass at femur neck were 21% and 19%, respectively (at  femur were 14.7% and 19%, respectively). The prevalence of osteoporosis increased with age and postmenopause.  Osteoporosis rose with age and after menopause and  theywere significanlyt statisticalassociation. Multinomial  logistic model  shows  that  there were  significant  associationsbetween  age, weight,  times  of  giving  birth  and  menopause status and osteoporosis.  Conclussion:The prevalence of osteoporosis was of high concern. Age, weight, parity and menopause status  were predictors of osteoporosis.   Key words: Osteoporosis, women who aged 50 years and older.  * Hội Đông y tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu    ** Viện Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Bs. CKII. Đặng Thị Hải Yến  ĐT: 0908452494 Email: haiyenbs2@gmail.com  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  135 ĐẶT VẤN ĐỀ  Loãng xương và hậu quả của nó đang được  Việt Nam và  thế giới quan  tâm vì mức độ ảnh  hưởng của nó lên sức khỏe cộng đồng, cùng với  sự phát  triển của nền kinh  tế,  tuổi  thọ của con  người  cũng  tăng  lên dự báo  tỷ  lệ  loãng xương  ngày càng tăng, vì tuổi là yếu tố nguy cơ chính  của  loãng xương và gãy xương(8). Bên cạnh đó,  các  triệu  chứng  của  loãng  xương  thường  biểu  hiện âm thầm, chỉ khi trọng lượng xương mất đi  hơn 30% mới có biều hiện trên lâm sàng. Nhiều  trường  hợp  bệnh  không  có  biểu  hiện  triệu  chứng, do đó người bị  loãng xương không biết  cho đến khi họ bị gãy xương(9). Hậu quả của gãy  xương là tàn phế và chi phí điều trị cao hoặc đe  dọa tính mạng, nhất là đối tượng người cao tuổi.  Vì những gánh nặng bệnh tật và kinh tế nên việc  phòng ngừa loãng xương đóng một vai trò quan  trọng. Loãng xương phổ biến ở phụ nữ hơn nam  giới,  nguyên  nhân  có  thể  do  phụ  nữ  có  khối  lượng  xương  đỉnh  thấp  hơn  30%  so  với  nam  giới, vai trò sinh đẻ, cho con bú, lượng nội tiết tố  có  vai  trò  giữ  khối  lượng  xương  bắt  đầu  suy  giảm sau tuổi 50, bên cạnh đó phụ nữ thường có  tuổi  thọ  cao  hơn  nam  và  do  đó  có  giảm  khối  lượng  xương  nhiều  hơn  dẫn  đến  tỷ  lệ  loãng  xương và gãy xương cao hơn nam giới(9).  Để có dự phòng sớm về loãng xương ở phụ  nữ trung niên tại thành phố Vũng Tàu, chúng tôi  tiến hành xác định tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ ≥  50  tuổi  bằng  phương  pháp DXA  nhằm  có  dữ  liệu khoa học góp phần cùng ngành y tế hưởng  ứng chương  trình hành động phòng chống LX,  đồng thời là cơ sở xây dựng các hoạt động nâng  cao thể chất người Việt Nam.  Mục tiêu nghiên cứu   Xác định tỉ lệ loãng xương và một số yếu tố  liên quan ở phụ nữ ≥50 tuổi tại thành phố Vũng  Tàu, năm 2013.  Mục tiêu cụ thể  Xác định tỉ lệ loãng xương ở phụ nữ ≥ 50 tuổi  tại  thành  phố  Vũng  Tàu,  2013  bằng  phương  pháp đo hấp thu năng lượng kép.  Xác  định một  số yếu  tố  liên quan  đến  tình  trạng loãng xương.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Nghiên cứu cắt ngang, cỡ mẫu 410 phụ nữ  ≥50 tuổi, cư trú trên địa bàn thành phố Vũng Tàu  trên 1 năm, được chọn  từ 30 cụm dân cư  trong  tổng số 16 phường.  Loãng  xương  được  xác  định  bằng  phương  pháp hấp thu tia X năng lượng kép (DXA), đây là  phương pháp đo mật độ xương, thăm dò không  xâm  lấn  thực  hiện  dễ  dàng  để  đánh  giá  khối  lượng  xương  và  nguy  cơ  gãy  xương,  phương  pháp được sử dụng rộng rãi trên thế giới, có độ  tin  cậy  cao  được  xem  như  là  tiêu  chuẩn  vàng  trong việc xác định mật độ xương. Phương pháp  này có thể chẩn đoán loãng xương, tiên lượng gãy  xương và theo dõi định kỳ, đây cũng là phương  pháp có thể áp dụng cho các vị trí ngoại biên như  cẳng tay hay trung tâm như cột sống hoặc khung  xương chậu, nó cũng thể quét toàn cơ thể. Hai vị  trí  thường  được  đo  là  cột  sống  thắt  lưng và  cổ  xương đùi  (CXĐ), vì đây  là vị  trí  thường bị gãy  do loãng xương nhất.  Sử dụng phần mềm Epidata nhập số liệu và  phân tích bằng phần mềm Stata.  KẾT QUẢ  Bảng1: Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu  Đặc điểm (n=389) Tần số (n) Tỷ lệ (%) Nhóm tuổi 50 – 59 214 55,0 60 – 69 116 29,8 ≥ 70 59 15,2 Hôn nhân Có gia đình 319 82,0 Độc thân 63 16,2 Ly thân/ly dị/góa 7 1,8 Nghề nghiệp Nội trợ 156 40,1 Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 136 Đặc điểm (n=389) Tần số (n) Tỷ lệ (%) Nghỉ hưu 100 25,7 Tư nhân 70 18,0 Nhân viên nhà nước 34 8,7 Khác 29 7,5 Thu nhập >2 triệu 199 51,2 ≤ 2 triệu 190 48,8 Số lần sinh con Không có 20 5,1 Từ 1 – 2 con 178 45,8 ≥ 3 con 191 49,1 Kinh nguyệt hiện tại Còn 49 12.6 Hết 340 87,4 Thời gian hết kinh < 5 năm 107 31,5 5 – 10 năm 81 23,8 ≥ 10 năm 152 44,7 BMI Bình thường 174 44,7 Béo phì 198 50,9 Nhẹ cân 17 4,4 Phụ nữ ở nhóm tuổi từ 50‐59 tuổi chiếm tỷ lệ  cao nhất  (55%),  chiếm  tỷ  lệ  thấp nhất  là nhóm  phụ nữ ≥70 tuổi (15,2%). Đa số đối tượng nghiên  cứu  có  gia  đình  (82%).  Nghề  nghiệp  của  đối  tượng nghiên cứu chủ yếu là nội trợ (40%). Đối  tượng  nghiên  cứu  có  số  lần  sinh  từ  1‐  2  con  (45,8%)  có  tỷ  lệ  tương  đương với  sinh  ≥  3  con  (49,1%). Đa số phụ nữ đã mãn kinh (87,4%), với  44,7% mãn kinh  >10 năm. Hơn 50%  đối  tượng  nghiên cứu có BMI ở mức béo phì.  Bảng 2: Hoạt động thể lực và chế độ ăn uống giàu  canxi  Đặc điểm (n = 389) Tần số (n) Tỷ lệ (%) Thực phẩm bổ sung canxi/ngày ≥ 650 mg/ngày 78 20 < 650 mg/ngày 311 80 Hoạt động thể lực/ ngày Vận động trung bình 279 71,7 Vận động mạnh 17 4,4 Ít vận động 93 23,9 Có  80%  đối  tượng nghiên  cứu  có  sử dụng  thức ăn bổ sung canxi dưới 650 mg/ngày. Đa số  đối  tượng nghiên cứu vận động  thể  lực  ở mức  trung bình, chiếm tỷ lệ 71,7%.  Biểu đồ 1: Tỷ lệ loãng xương chung của đối tượng nghiên cứu  Biểu  đồ  1  mô  tả  thực  trạng  loãng  xương  chung  của  389  phụ  nữ  ≥50  tuổi  tại  thành  phố  Vũng Tàu. Khi  đánh  giá  theo T‐score  tại  vị  trí  CXĐ. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu bị loãng xương  chiếm tỷ lệ 21%, tỷ lệ giảm mật độ xương là 19%.  Loãng xương (n=80) Thiếu xương (n=74) Bình thường (n=235) 21% 19% 60% TỶ LỆ LOÃNG XƯƠNG, THIẾU XƯƠNG Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  137 Bảng 4: Một số yếu tố liên quan đến tình trạng loãng xương  Đặc điểm Loãng xương Thiếu xương Bình thường p Loãng xương PR (KTC 95%) Thiếu xương PR (KTC 95%) (n= 389) n % n % n % Nhóm tuổi 50 – 59 15 7 34 15,9 165 77,1 0,000 1 1 60 – 69 32 27,6 25 21,6 59 50,9 6 (3,0 -11.8)** 2,1 (1,1-3,7)* ≥ 70 33 55,9 15 25,4 11 18,6 33 (13,9-78,2)** 6,6 (2,8-15,7)** BMI Bình thường 40 23 34 19,5 100 57,5 0000 1 1 Thừa cân 25 12,6 39 19,7 134 67,7 0,5 (0,3-0,8)** 0,9 (0,5-1,5) Nhẹ cân 15 88,2 1 5,9 1 5,9 37,5(4,8-293)** 2,9(0,2-48,3) Cân nặng ≥ 45 47 14 66 19,6 223 66,4 0000 1 1 <45 33 62,3 8 15,1 12 22,6 13(6,3-27,1)** 2,3 (0,9-5,7) Gia đình Chưa lập gia đình 13 20,6 12 19,1 38 60,3 0,974 Có gia đình 66 20,7 60 18,8 193 60,5 Ly thân/ly dị/góa 1 14,3 2 28,6 4 57,1 Nghề nghiệp Nhân viên NN 7 20,6 8 23,5 19 55,9 0,516 Tư nhân 13 18,6 13 18,6 44 62,9 Nội trợ 33 21,8 27 17,3 95 60,9 Nghỉ hưu 23 23,0 23 23,0 54 54,0 Khác 3 10,3 3 10,3 23 79,3 Thu nhập gia đình > 2 triệu 40 20,1 25 12,6 134 67,3 0,002 1 1 ≤ 2 triệu 40 21,1 49 25,8 101 53,2 1,3 (0,8-2,2) 2,6(1,5-4,5)* Số lần sinh con 1 – 2 con 10 5,6 28 15,7 140 78,7 0,008 1 1 Không con 6 30.0 1 5,0 13 65,0 2,2 (0,8-6,1) 0 ≥ 3 con 64 33,5 45 23,6 82 43,0 1,8 (1,1-3,1)* 1,8 (1,1-3,1)* Thời gian m.kinh < 5 năm 8 7,5 18 16,8 81 75,7 0000 1 1 5 – 10 năm 11 13,6 14 17,3 56 69,1 2 (0,8-5,3) 1,1 (0,5-2,4) >10 năm 69 39,5 38 25 54 35,5 11,3 (5-25,4)** 3,2(1,6-6,1)** Kinh nguyệt Còn kinh 1 2,0 4 8,2 44 89,8 0000 1 1 Mãn kinh 79 23,2 70 20,6 191 56,2 18,2 (2,5-134)** 4 (1,4-11,6)* *p value <0,05, **p value <0,01  Có mối  liên quan có ý nghĩa  thống kê giữa  nhóm  tuổi  và  tình  trạng  loãng  xương,  thiếu  xương,  tuổi  càng  cao  thì  tỷ  lệ  loãng  xương  và  thiếu  xương  càng  cao.  Tỷ  lệ  loãng  xương  và  thiếu xương tỷ lệ nghịch theo cân nặng, theo thu  nhập gia  đình, phụ nữ càng nhẹ  cân, hoặc  thu  nhập gia  đình  càng  thấp  thì  tỷ  lệ  loãng xương  càng cao. Phụ nữ đã mãn kinh hoặc phụ nữ sinh  ≥3  con  có  tỷ  lệ  loãng  xương,  thiếu  xương  cao  hơn. Không có mối  liên quan có ý nghĩa  thống  kê  giữa  tình  trạng  loãng  xương  với  tình  trạng  hôn nhân hay với nghề nghiệp.  Bảng 6: Mô hình hồi quy đa giá (multiomial logistic)  thể hiện mối liên quan giữa loãng xương và một sô  yếu tố liên quan của đối tượng nghiên cứu  Đặc tính n = 389 Loãng xương PR (KTC 95%) Thiếu xương PR (KTC 95%) Nhóm tuổi 50 – 59 1 1 Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 138 Đặc tính n = 389 Loãng xương PR (KTC 95%) Thiếu xương PR (KTC 95%) 60 – 69 1,7 (0,6 – 4,4) 1 (0,4 – 2,3) ≥ 70 6,7 (2 – 23)** 3 (1 – 9,3) BMI Bình thường 1 1 Béo phì 0,6 (0,3 – 1,2) 0,8 (0,4 – 1,4) Nhẹ cân 3,6 (0,5 – 27,7) 0 Cân nặng ≥ 45 1 1 < 45 5 (1,5 – 16,7)** 1,7 (0,5 – 5,9) Thu nhập gia đình > 2 triệu 1 1 ≤ 2 triệu 0,8 (0,4-1,7) 2,6 (1,4-4,8)* Số lần sinh 1 – 2 con 1 1 Không sinh 4,1 (0,3 – 5,4) 0,2 (0,2 – 1,7) ≥ 3 con 3,6 (1,5 – 8,5)* 1,1 (0,5 – 2) Thời gian mãn kinh < 5 năm 1 1 5 – 10 năm 1 (0,3 – 3,4) 1 (0,4 – 2,1) >10 năm 3,5 (1,1 – 11,5)* 2,2 ( 0,9 – 5,3)* Hoạt động thể lực Vận động trung bình 1 1 Vận động mạnh 0 0,6 (0,1 – 3,1) Ít vận động 1,5 (0,7-3,2) 1,1 (0,6 – 2,3) Ăn uống bổ xung canxi ≥ 650mg/ngày 1 1 < 650 mg/ngày 2,1 (0,9 – 4,8) 0,8 (0,3– 1,7) *p value <0,05, **p value <0,001  Kết phân tích mô hình hồi quy đa giá cho thấy  có 04 yếu  tố có ảnh hưởng đến  thực  trạng  loãng  xương của đối tượng nghiên cứu là yếu: tuổi, cân  nặng, số lần sinh con, thời gian mãn kinh.  Thực trạng loãng xương chịu ảnh hưởng bởi  tuổi của  đối  tượng nghiên cứu,  theo  đó những  người ở độ tuổi 60 – 69 có tỷ lệ mắc bệnh loãng  xương cao hơn so với những người 50 – 59 tuổi  tuy  nhiên  sự  khác  biệt  này  không  có  ý  nghĩa  thống kê (p >0,05); độ tuổi >70 tuổi có tỷ lệ loãng  xương gấp 6,7 lần so với phụ nữ ở lứa tuổi 50 –  59 với p <0,001.  Phụ  nữ  có  cân  nặng  <45  kg  có  tỷ  lệ  loãng  xương gấp 5  lần so với người có cân nặng ≥ 45  kg, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p <0,001).  Phụ nữ sinh  từ 3 con  trở  lên có  tỷ  lệ  loãng  xương gấp 3,6  lần  so với phụ nữ  sinh  từ 1 – 2  con. Phụ nữ mãn kinh  >10 năm  có  tỷ  lệ  loãng  xương gấp 3,5 lần so với mãn kinh <5 năm, khác  biệt có ý nghĩa thống kê.  BÀN LUẬN  Tỷ  lệ  loãng  xương  được  đo  ở  CXĐ  trong  nghiên cứu là 21% và tỷ lệ giảm mật độ xương là  19%. So sánh kết quả nghiên cứu của chúng tôi  với một số nghiên cứu trong nước cùng phương  pháp  DXA,  chúng  tôi  nhận  thấy,  tỷ  lệ  loãng  xương  ở vị  trí CXĐ đo được  trong nghiên cứu  của chúng tôi không có nhiều khác biệt. Nghiên  cứu  tại  thành phố Hồ Chí Minh  (2010) có  tỷ  lệ  loãng xương là 28,6%(4). Cũng một nghiên cứu về  loãng  xương  ở  phụ  nữ  của  tác  giả Hồng Hoa  (2008) cho thấy tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ >50  tuổi là 24,6%(1).  Nghiên cứu về loãng xương tại một số nước  trên thế giới cũng cho nhiều kết quả khác nhau:  nghiên cứu ở Trung Quốc (2007) cho tỉ lệ loãng  xương  chung  tại CXĐ  là  15%. Nghiên  cứu  tại  Hàn Quốc  (2008),  tỷ  lệ  loãng xương  tại CXĐ  là  12,4%.  Tỷ  lệ  loãng  xương  ở  phụ  nữ  Canada  (2000) là 7,9% ở CXĐ. Một số quốc gia cho tỷ lệ  tương tự như nghiên cứu của chúng tôi phụ nữ  Thái Lan mãn kinh từ 40‐80 tuổi từ 2004‐2008 kết  quả cho tỷ lệ loãng xương là 20,2%. Kohn nghiên  cứu  409 phụ nữ  >50  tuổi  tại Mỹ bằng phương  pháp  hấp  thu  tia X  năng  lượng  kép  (2000)  tại  CXĐ  ghi nhận  là  20%(5). Nguyễn Văn Tuấn  và  cộng sự nghiên cứu trên 1075 phụ nữ mãn kinh  tại Úc, phương pháp DXA, cho tỷ lệ là 21%(6).   Nhìn chung tỷ lệ loãng xương của chúng tôi  so sánh với các nghiên cứu  loãng xương ở Việt  Nam  thấp hơn. Có  thể do mẫu nghiên cứu của  chúng tôi có  tỷ  lệ người >70  tuổi thấp, ngoài ra  thành phố Vũng Tàu là thành phố công nghiệp,  du  lịch  trẻ đa  số người dân  ở vẫn còn  tuổi  lao  động,  đối  tượng  lớn  tuổi  ở một  số phường  có  người  dân Vũng  Tàu  sinh  sống  lâu  năm. Mặt  khác đây thành phố biển thực phẩm cá tôm các  loại  ốc  nhiều  canxi,  thời  tiết  nắng  quanh  năm  thuận  lợi  cho việc hấp  thu vitamin D và  canxi  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  139 nên mật độ xương  tăng  tỷ  lệ  loãng xương  thấp  hơn một số khu vực trong nước.  Phân tích đa biến chúng tôi tìm thấy 04 yếu  tố liên quan đến tình trạng loãng xương của đối  tượng nghiên cứu đó là độ tuổi, cân nặng và số  lần  sinh  và  thời  gian mãn  kinh  của  đối  tượng  nghiên cứu, tuổi càng cao thì tỷ  lệ  loãng xương  càng  tăng,  cân  nặng  càng  giảm  thì  tỷ  lệ  loãng  xương càng cao, phụ nữ sinh nhiều con có nguy  cơ loãng xương cao hơn sinh ít con, phụ nữ mãn  kinh thời gian mãn kinh càng dài thì tỷ lệ loãng  xương càng cao.  Nhiều  nghiên  cứu  đã  cho  rằng  tỷ  lệ  loãng  xương khác nhau giữa các quần  thể dân cư, và  cũng chỉ ra rằng tỷ lệ loãng xương có xu hướng  tăng  theo  tuổi. Nghiên cứu của chúng  tôi nhận  thấy tuổi và tỷ lệ loãng xương có liên quan chặt  chẽ với nhau, tuổi càng cao nguy cơ loãng xương  càng  lớn. Nguyên  nhân  có  thể  do  khối  lượng  xương giảm dần theo tuổi, bắt đầu giai đoạn mất  xương  nhanh  vào  khoảng  50  tuổi,  đây  là  giai  đoạn tiền mãn kinh và mãn kinh dẫn đến thiếu  hụt nội tiết tố (estrogen). Sự mất xương ở các vị  trí  của xương,  tuổi  càng  cao  tỷ  lệ  loãng xương  càng  tăng do sự mất xương do mãn kinh cộng  với  sự mất  xương  do  tuổi  già  làm  tống  khối  lượng xương mất  tăng  lên đáng kể do đó  tỷ  lệ  loãng xương tăng lên là tất yếu. Kết quả nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cũng phù hợp với phần  lớn  các tác giả trong và ngoài nước cho rằng tuổi là  yếu tố nguy cơ chính của loãng xương ở phụ nữ.  Cũng với mô hình hồi quy đa biến kiểm soát các  yếu  tố nhiễu  trong mối  liên quan với biến phụ  thuộc, một số tác giả trong nước cũng đều có kết  luận nguy cơ mắc loãng xương gia tăng theo độ  tuổi(4). Mặc dù  là yếu tố nguy cơ của  tình trạng  loãng xương,tuy nhiên  tuổi không  thể  thay đổi  được  do  đó  nên  triển  khai  các  hoạt  động  dự  phòng  tập  trung  ở  lứa  tuổi  có  nguy  cơ  nhất,  bằng  cách  chế  độ  ăn  uống  sinh  hoạt  hợp  lý,  khám  sức  khỏe  định  kỳ  và  bổ  sung  canxi,  vitanmin  D.  Với  tình  trạng  dân  số  Việt  Nam  đang già đi các vấn đề bệnh tật của tuổi già ngày  càng nhiều, trong đó loãng xương là một bệnh lý  rất cần được quan tâm chú trọng.  Cân nặng là một trong yếu tố ảnh hưởng đến  loãng xương ở phụ nữ  lớn  tuổi, phụ nữ có cân  thấp thì tỷ lệ loãng xương càng cao. Theo tác giả  Nguyễn  văn  Tuấn  và  cộng  sự  đã  khẳng  định  người có cân nặng thấp hơn lượng mỡ của cơ thể  ít có nguy cơ gãy CXĐ cao hơn vì người gầy mỡ  bao bọc vùng mông ít, mô đệm vùng CXĐ ít nên  chịu lực kém(7).  Phụ nữ sinh ≥3 con có tỷ lệ loãng xương cao  hơn so với phụ nữ sinh 1‐2 con. Dequeker  J và  cộng sự cũng cho  thấy rằng mật độ xương của  phụ nữ sinh 1‐2  lần cao hơn phụ nữ chưa sinh;  phụ nữ sinh 4 lần trở lên có mật độ xương thấp  hơn phụ nữ sinh 3  lần  trở xuống(2). Grainge và  cộng  sự  khi  nghiên  cứu  ảnh  hưởng  của  thai  nghén và tình trạng mãn kinh với mật độ xương  của 580 phụ nữ  trong độ  tuổi >45  tuổi đã nhận  thấy  có mối  tương  quan  chặt  chẽ  giữa  số  lần  mang thai với gia tăng mật độ xương. Nếu sinh  nhiều  con  sẽ  ảnh hưởng  đến quá  trình  chuyển  hóa canxi của người mẹ(3). Như vậy sinh nhiều  con  (>3  lần) và không sinh con cũng không  tốt  cho sức khỏe xương của phụ nữ điều này cũng  tương tự như một số nghiên cứu ở trong nước.  Tỷ  lệ  loãng xương  tăng  theo  thời gian mãn  kinh,  phụ  nữ mãn  kinh  trên  10  năm  có  tỷ  lệ  loãng xương gấp 3,5 lần so với phụ nữ mãn kinh  <5 năm. Một số nghiên cứu gần đây cũng cho kết  qua  tương  tự, một  nghiên  cứu  vào  năm  2008  trong phân tích hồi quy đa biến cho thấy, tốc độ  mất  xương  đùi  của  của  phụ  nữ  còn  kinh  là  0,22%/năm sau đó tăng lên 0,42%/năm ở phụ nữ  mãn kinh, sự khác biệt có ý nghĩa  thống kê. Vì  vậy mật độ xương ở phụ nữ mãn kinh giảm dẫn  đến tỷ lệ loãng xương tăng(1). Điều này có thể do  từ 70 tuổi trở xuống, nguyên nhân loãng xương  chủ yếu  là do tình trạng mãn kinh, do nồng độ  estrogen giảm gây nên mất  chất  xương, do  đó  vấn đề cần  làm  là rút ngắn  thời gian mãn kinh  bằng cách sử dụng liệu pháp hormon thay thế.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 140 Thực  tế quá  trình mất xương  tiến  triển một  cách âm thầm sau nhiều năm khi mà khối xương  mất một  cách  đáng  kể,  những  biểu  hiện  lâm  sàng mới xuất hiện. Vì vậy, loãng xương và gãy  xương là hậu quả của quá trình mất xương làm  giảm chất lượng cuộc sống của phụ nữ lớn tuổi.  Kết quả cho  thấy  tỷ  lệ  loãng xương có quan hệ  chặt  chẽ với  tình  trạng kinh nguyệt,  ở phụ nữ  mãn  kinh  có  nguy  cơ  loãng  xương  nhiều  hơn  phụ  nữ  còn  kinh,  phụ  nữ mã