Khu vực tài chính với cấu trúc phức tạp có mối liên kết mật
thiết, tác động qua lại tới nền kinh tế thực của mỗi quốc gia.
Các nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy sự ổn định của hệ
thống tài chính không chỉ là điều kiện mà còn là nền tảng
cho phát triển kinh tế bền vững. Do đó, các nghiên cứu về
việc xây dựng Chỉ số căng thẳng tài chính (Financial Stress
Index- FSI) để đo lường sự bất ổn của hệ thống tài chính, từ
đó đưa ra những dấu hiệu cảnh báo sớm nhằm ngăn ngừa
căng thẳng tài chính có thể xảy ra có ý nghĩa vô cùng quan
trọng với sự ổn định và bền vững của tăng trưởng kinh tế.
Trong bài báo này tác giả đã nghiên cứu kinh nghiệm của
Trung Quốc và Hi Lạp trong việc xây dựng FSI, qua đó rút
ra những bài học kinh nghiệm cần thiết trong việc xây dựng
FSI cho Việt Nam.
11 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 474 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng chỉ số căng thẳng tài chính kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
68
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 191- Tháng 4. 2018
Xây dựng chỉ số căng thẳng tài chính-
kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Vũ Thị Kim Oanh
Ngày nhận: 08/01/2018 Ngày nhận bản sửa: 21/01/2018 Ngày duyệt đăng: 23/04/2018
Khu vực tài chính với cấu trúc phức tạp có mối liên kết mật
thiết, tác động qua lại tới nền kinh tế thực của mỗi quốc gia.
Các nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy sự ổn định của hệ
thống tài chính không chỉ là điều kiện mà còn là nền tảng
cho phát triển kinh tế bền vững. Do đó, các nghiên cứu về
việc xây dựng Chỉ số căng thẳng tài chính (Financial Stress
Index- FSI) để đo lường sự bất ổn của hệ thống tài chính, từ
đó đưa ra những dấu hiệu cảnh báo sớm nhằm ngăn ngừa
căng thẳng tài chính có thể xảy ra có ý nghĩa vô cùng quan
trọng với sự ổn định và bền vững của tăng trưởng kinh tế.
Trong bài báo này tác giả đã nghiên cứu kinh nghiệm của
Trung Quốc và Hi Lạp trong việc xây dựng FSI, qua đó rút
ra những bài học kinh nghiệm cần thiết trong việc xây dựng
FSI cho Việt Nam.
Từ khóa: Chỉ số căng thẳng tài chính, bất ổn tài chính, căng
thẳng ngân hàng, căng thẳng thị trường tiền tệ, căng thẳng
thị trường ngoại hối, căng thẳng thị trường chứng khoán
1. Kinh nghiệm xây dựng
chỉ số căng thẳng tài chính
tại một số quốc gia
1.1. Kinh nghiệm của Trung
Quốc
rong những thập kỉ
qua, mặc dù chưa
có một cuộc khủng
hoảng tài chính thật
sự nào diễn ra ở Trung Quốc,
nhưng kể từ năm 1978, Trung
Quốc đã trải qua nhiều giai
đoạn bất ổn tài chính. Tình
trạng nợ xấu quá cao của khu
vực ngân hàng Trung Quốc đã
ảnh hưởng đến sự lành mạnh
của hệ thống ngân hàng, làm
suy giảm sự phát triển kinh tế
nhanh và bền vững của Trung
Quốc giai đoạn giữa những
năm 1990. Trong phần này,
tác giả xem xét phương pháp
xây dựng chỉ số căng thẳng
của Sun và Huang (2016). FSI
của Trung Quốc được thiết kế
nhằm xác định mức độ nghiêm
trọng của bất ổn khu vực tài
chính ở Trung Quốc, bao gồm
8 biến số của 4 thị trường:
chênh lệch rủi ro của ngân
hàng, tỉ lệ nợ xấu, tỉ lệ cho
vay/huy động của ngành ngân
hàng; chỉ số chứng khoán
Thượng Hải cho thị trường
chứng khoán; tỉ giá hối đoái
và dữ trữ ngoại hối cho thị
trường ngoại hối; chênh lệch
rủi ro và chênh lệch lợi tức
trái phiếu chính phủ (TPCP)
cho thị trường nợ.
(i) Khu vực ngân hàng
Để phản ánh căng thẳng của
khu vực ngân hàng, các biến
số sau đã được lựa chọn:
(1) Chênh lệch rủi ro: Chênh
lệch rủi ro khu vực ngân hàng
chính là chênh lệch giữa lãi
suất có rủi ro và lãi suất phi
rủi ro để phản ánh căng thẳng
thanh khoản liên ngân hàng và
dự tính về rủi ro vỡ nợ. Chênh
THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
69Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 191- Tháng 4. 2018
lệch rủi ro liên ngân hàng
được xác định bằng chênh
lệch giữa lãi suất cho vay 3
tháng trên thị trường liên ngân
hàng Trung Quốc với lãi suất
TPCP 3 tháng.
(2) Tỉ lệ nợ xấu: Tỉ lệ nợ xấu
của các ngân hàng thương
mại (NHTM) nhà nước được
lựa chọn để phản ánh căng
thẳng của khu vực ngân hàng
ở Trung Quốc, do vốn của các
NHTM nhà nước chiếm phần
lớn trong tổng vốn điều lệ
của ngành Ngân hàng Trung
Quốc1.
(3) Tỉ lệ cho vay/huy động:
Biến số này phản ánh căng
thẳng và rủi ro vỡ nợ của khu
vực ngân hàng Trung Quốc.
FSI cho khu vực ngân hàng:
Sử dụng phương pháp trọng
1 Theo NHTW Trung Quốc, vốn
của các NHTM Nhà nước chiếm
tới hơn 70% tổng vốn điều lệ
ngành ngân hàng.
số phương sai bằng nhau,
nghiên cứu đã xây dựng chỉ
số căng thẳng khu vực ngân
hàng Trung Quốc từ năm 1997
(Hình 1).
Hình 1 cho thấy căng thẳng
trong lĩnh vực ngân hàng đạt
đỉnh điểm vào năm 1999,
trùng với khủng hoảng ngân
hàng được xác định vào cuối
năm 1998 bởi Leaven và
Valencia (2008), sau đó chỉ số
này dần giảm xuống (sự lành
mạnh của ngành Ngân hàng
Trung Quốc được cải thiện
dần sau năm 2000).
(ii) Thị trường chứng khoán
Căng thẳng hệ thống và
rủi ro của thị trường chứng
khoán (TTCK) được đo
lường bởi mức biến động
chỉ số cổ phiếu- ước lượng
bằng mô hình GARCH (1, 1)
(Bollerslev và Chou,1992)
dựa trên dữ liệu về chỉ số
chứng khoán Thượng Hải theo
tháng.
FSI cho TTCK Trung Quốc
(SMFSI) xây dựng bởi mô
hình GARCH (1,1) được thể
hiện trong Hình 2 cho thấy
chỉ số này biến động liên tục
trong giai đoạn nghiên cứu.
(iii) Thị trường ngoại hối
Căng thẳng thị trường ngoại
hối Trung Quốc cũng được
xác định thông qua mức độ
biến động của tỷ giá hối đoái
và dự trữ ngoại hối hàng
tháng. Theo Balakrishan và
các tác giả (2009), chỉ số căng
thẳng cho thị trường ngoại hối
(EMFSI) được xác định như
sau:
EMFSI
e
RES
e
t e
RES
t RES
t
t
t
t
v
n
v
n
D
D
=
-
-
-
-
D
D
D
D
Hình 1. FSI khu vực ngân hàng Trung Quốc
(BankFSI)
Hình 2. FSI thị trường chứng khoán
(SMFSI)
Hình 3. FSI thị trường ngoại hối Trung Quốc
(EMFSI)
Hình 4. FSI thị trường nợ Trung Quốc
(DMFSI)
Nguồn: Nghiên cứu của Sun và Huang (2016)
THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
70 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 191- Tháng 4. 2018
Trong đó:
- ∆e
t
phản ánh thay đổi hàng
tháng trong tỉ giá hối đoái;
- ∆RES
t
là thay đổi hàng tháng
của dự trữ ngoại hối;
- µ
x
, σ
x
phản ánh giá trị trung
bình và phương sai chuẩn của
các biến tương ứng.
Hình 3 cho thấy chỉ số EMFSI
đã phản ánh rất nhiều giai
đoạn có biến động trên thị
trường ngoại hối Trung Quốc,
bao gồm sự lên giá đột ngột
vào cuối năm 1994 và mất giá
sau năm 1995 do Chính phủ
Trung Quốc thực hiện khuyến
khích xuất khẩu, tuyên bố của
Chính phủ Trung Quốc về cơ
chế tỷ giá thả nổi năm 2005,
khủng hoảng tài chính năm
2008 và khủng hoảng nợ công
khu vực Châu Âu.
(iv) Thị trường nợ
Hai chỉ số được sử dụng để
phản ánh căng thẳng trên
thị trường nợ Trung Quốc là
chênh lệch lợi tức trái phiếu,
là một chỉ báo hữu ích cho suy
thoái2, và chênh lệch TPCP,
phản ánh tình trạng thanh
khoản quốc tế.
Chênh lệch lợi tức trái phiếu:
Chênh lệch giữa lợi tức trái
phiếu dài hạn (TPCP 10 năm)
và lợi tức trái phiếu ngắn hạn
(TPCP 1 năm) được xem là
chỉ báo cho suy thoái kinh
tế và là biến đại diện cho
sự không chắc chắn trên thị
trường TPCP.
Nghiên cứu không sử dụng lợi
tức tín phiếu kho bạc 3 tháng
do đây là công cụ tài chính
rất ít được phát hành trên thị
trường trái phiếu ngắn hạn
2 Xem Oet và các tác giả (2011),
Estrella và Mishikin (1996),
Habrich và Biano (2011).
của Trung Quốc và lượng phát
hành cũng rất nhỏ, TPCP 1
năm phổ biến nhất và có lịch
sử phát hành lâu nhất ở Trung
Quốc.
Chênh lệch TPCP: Chênh lệch
này được xác định bằng lợi
tức TPCP Trung Quốc 10 năm
và lợi tức TPCP Mỹ 10 năm.
Kết hợp chênh lệch lợi tức trái
phiếu và chênh lệch TPCP,
các tác giả xác định chỉ số FSI
cho thị trường nợ Trung Quốc
bằng phương pháp trọng số
phương sai bằng nhau (Hình
4). Căng thẳng tài chính trên
thị trường nợ Trung Quốc gia
tăng sau năm 2009 do những
hiệu ứng lan truyền từ cuộc
khủng hoảng tài chính toàn
cầu, đặc biệt trên thị trường
TPCP.
Chỉ số căng thẳng tổng
thể cho hệ thống tài chính
Trung Quốc
Các tác giả đã sử dụng
phương pháp trọng số phương
sai bình quân để xây dựng
FSI tổng thể (CNFSI) cho hệ
thống tài chính Trung Quốc.
Do dữ liệu của thị trường nợ
quá ngắn (từ 2002 đến năm
2012) và doanh số giao dịch
trên thị trường nợ Trung Quốc
quá nhỏ, các tác giả đã xây
dựng CNFSI loại trừ DMFSI
bằng phương pháp trọng số
phương sai bằng nhau từ năm
1994 đến năm 2012.
Do trên thực tế, không có
cuộc khủng hoảng tài chính
nào xảy ra ở Trung Quốc từ
năm 1994, theo Lai và Lu
(2010), các tác giả xác định
giai đoạn căng thẳng tài chính
hệ thống bằng cách đo lường
độ lệch của CNFSI với đường
xu hướng dài hạn. Khi chỉ số
CNFSI cao hơn mức trung
bình dài hạn gấp 2 lần độ lệch
chuẩn là chỉ báo cho căng
thẳng tài chính hệ thống.
CNFSIE
CNFSI
2 CNFSI
t CNFSI
t
t
v
n
=
-
Trong đó:
- CNFSIE là chỉ số căng
thẳng, là tiêu chuẩn để xác
định giai đoạn căng thẳng tài
chính.
- μ
CNFSIt
và σ
CNFSIt
là giá trị
trung bình và độ lệch chuẩn
của CNFSI theo thời gian.
Khi CNFSIE> 1 là khi có căng
thẳng tài chính hệ thống. Các
giai đoạn được xác định có
Hình 5.
Chỉ số CNFSI phản ánh các giai đoạn căng thẳng tài chính
Nguồn: Nghiên cứu của Sun và Huang (2016)
THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
71Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 191- Tháng 4. 2018
căng thẳng tài chính hệ thống
được thể hiện trong Hình 5.
Để cung cấp công cụ thuận
tiện và hữu ích cho cơ quan
giám sát và công chúng, các
tác giả xây dựng hệ thống
cảnh báo phi tham số theo
mức độ độ lệch của mỗi giai
đoạn:
Dấu hiệu cảnh báo căng thẳng
tài chính hệ thống màu xanh:
1 ≤ CNFSIE ≤ 1,5
Dấu hiệu cảnh báo căng thẳng
tài chính hệ thống màu cam:
1,5 ≤ CNFSIE ≤ 2,5
Dấu hiệu cảnh báo căng thẳng
tài chính hệ thống màu đỏ: 2,5
≤ CNFSIE
1.2. Kinh nghiệm của Hi Lạp
FSI của Hi Lạp (FSSI) được
xây dựng dựa trên cách thức
xây dựng chỉ số tổng hợp về
căng thẳng tài chính được
trình bày trong nghiên cứu của
Hollo và các tác giả (2012),
nhằm xem xét bản chất của
căng thẳng tài chính bằng
cách nghiên cứu về mối tương
quan thay đổi giữa các khu
vực thị trường. Các tác giả
đã xây dựng chỉ số tổng hợp
từ các biến số đơn lẻ phản
ánh căng thẳng của từng thị
trường. Căng thẳng hệ thống
dường như cao hơn khi hệ
thống tài chính ở trong tình
trạng bất ổn mở rộng, tức là
nhiều thành phần của hệ thống
tài chính cùng bị căng thẳng.
Kinh nghiệm của Hi Lạp
trong bài viết dựa trên kết
quả nghiên cứu của Louis và
Vouldis (2013). Các tác giả
của nghiên cứu này đã thực
hiện khảo sát tại Ngân hàng
Trung ương Hi Lạp để xác
định những giai đoạn căng
thẳng nhất với hệ thống tài
chính Hi Lạp và đánh giá xem
chỉ số xây dựng có tương
ứng với kết quả của khảo sát
hay không. Theo đó, các biến
được lựa chọn phản ánh sự
phát triển của những khu vực
sau: (i) Cơ sở của nền kinh
tế Hi Lạp (Fundamentals of
Greek economy); (ii) khu vực
ngân hàng- dữ liệu thị trường;
(iii) khu vực ngân hàng- dữ
liệu bảng cân đối; (iv) thị
trường vốn; và (v) thị trường
tiền tệ.
(i) Cơ sở của nền kinh tế Hi
Lạp
Môi trường kinh tế được xem
là có những ảnh hưởng nhất
định đến căng thẳng tài chính,
nó có thể khuyếch đại hoặc
làm giảm những căng thẳng
của khu vực tài chính. Đôi
khi, môi trường kinh tế chính
là nguyên nhân chính dẫn đến
khủng hoảng tài chính, ví dụ
như khủng hoảng nợ công.
Các biến được sử dụng là:
- Chênh lệch lợi tức TPCP
Hi Lạp 10 năm với trái phiếu
của Đức: Theo Blix Grimaldi
(2010), chênh lệch lợi tức
giữa TPCP Hi Lạp với trái
phiếu của Đức (thường được
coi là ngưỡng cho mức rủi ro
thấp nhất tại Châu Âu) thể
hiện đặc điểm cơ bản của thị
trường, là khả năng thanh
khoản và mức bù rủi ro tương
ứng với mức độ tín nhiệm
của Chính phủ cũng như là
tính không chắc chắn của thị
trường.
- Biến động lợi tức thực hiện:
Mức biến động lợi tức của
TPCP Hi Lạp 10 năm phản
ánh tính không chắc chắn liên
quan đến đặc điểm cơ bản của
nền kinh tế Hi Lạp. Biến động
giá tài sản tăng gắn với sự tăng
không chắc chắn về giá trị cơ
bản của tài sản cũng như sự
tăng không chắc chắn về hành
vi của các nhà đầu tư khác.
- Tương quan giữa lợi tức
của chứng khoán Hi Lạp và
trái phiếu Đức: Các nghiên
cứu thực nghiệm đã cho
thấy mối tương quan giữa
lợi tức từ TTCK và lợi tức
của TPCP là âm trong giai
đoạn căng thăng tài chính
và có giá trị dương rất nhỏ
trong dài hạn. Bản chất của
mối tương quan là biểu hiện
của hiện tượng “chạy theo
chất lượng- flight to quality”
trong giai đoạn căng thẳng tài
chính (Andersson và các tác
giả, 2008; Hakkio và Keeton,
2009). Trong nghiên cứu của
Louis và Voudis (2013), các
tác giả sử dụng lợi tức hàng
ngày của chỉ số TTCK Athens
(ASE) và trái phiếu của Đức
để tính toán hệ số tương quan
thực hiện theo tháng.
( ) ( )
RCOR
r r
r r
, ,
, ,
t
ASE Bund
m t
ASE
m
M
m t
Bund
m
M
m t
ASE
m t
Bund
m
M
2
1
2
1
1
=-
= =
=
/ /
/
Trong đó:
RCOR
t
ASE-Bund: hệ số tương
quan thực hiện theo tháng
giữa lợi tức chỉ số chứng
khoán ASE và lợi tức trái
phiếu của Đức
M là số ngày giao dịch trong
tháng t.
Các tác giả đã lựa chọn trái
phiếu của Đức là đại diện cho
trái phiếu an toàn ở các nước
EU.
THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
72 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 191- Tháng 4. 2018
(ii) Khu vực ngân hàng- dữ
liệu thị trường
Dữ liệu thị trường về khu vực
ngân hàng phản ánh kỳ vọng
của thị trường về hoạt động
ngân hàng. Vì khu vực ngân
hàng là thành phần cơ bản của
hệ thống tài chính, chỉ số căng
thẳng tài chính cần phải bao
gồm cả chỉ số phản ánh căng
thẳng hay khủng hoảng ngân
hàng.
- Giá thị trường của cổ phiếu
ngân hàng (chỉ số cổ phiếu
ngân hàng): Chỉ số cổ phiếu
ngành Ngân hàng thường phản
ánh kỳ vọng của thị trường
về viễn cảnh khu vực ngân
hàng. Blix Grimaldi (2010)
cho rằng, khi chỉ số này tăng
có thể ám chỉ tình trạng tiềm
ẩn bong bóng (impending
stress- căng thẳng sắp đến)
trong khi tình trạng suy giảm
kéo dài chính là một dấu hiệu
của căng thẳng. Phép biến
đổi CMAX được sử dụng
khi xây dựng chỉ số cổ phiếu
ngân hàng Hi Lạp để xác định
những giai đoạn suy giảm
mạnh trên thị trường cổ phiếu
ngân hàng (Patel và Sarkar,
1998, Illing và Liu, 2006).
CMAX được xác định:
: , ...,max
CMAX
P P j
P
0 12
t
t j
t
=
=f -^ h6 @
Trong đó: P
t
là giá của chỉ số
cổ phiếu ngân hàng tại tháng
t.
- Rủi ro đặc thù của giá cổ
phiếu ngân hàng: Rủi ro đặc
thù của khu vực ngân hàng,
tức là rủi ro gắn với những
sự kiện của ngành Ngân hàng
được xác định bằng cách sử
dụng phương sai phần dư của
mô hình thị trường.
- Chênh lệch CDS các ngân
hàng Hi Lạp: Các tác giả
đã sử dụng chênh lệch CDS
(Credit Default Swap) trung
bình 5 năm của 4 ngân hàng
lớn nhất Hi Lạp là đại diện
cho rủi ro tín dụng. Chênh
lệch CDS được định nghĩa là
chi phí hàng năm để bảo vệ
khỏi tình trạng phá sản của
một công ty hay một chính
phủ, do đó là một chỉ số phù
hợp phản ánh giá trị trường
của rủi ro tín dụng. Ngoài ra
có thể sử dụng chênh lệch trái
phiếu của các ngân hàng để
phản ánh rủi ro tín dụng.
(iii) Khu vực ngân hàng- dữ
liệu bảng cân đối
Căng thẳng trong khu vực
ngân hàng hoặc là căng thẳng
bên nợ hoặc là do sự suy giảm
chất lượng tài sản phản ánh
trên bảng cân đối của ngân
hàng (Mishkin, 1992). Sự kết
hợp giữa dữ liệu thị trường
và dữ liệu bảng cân đối của
ngành Ngân hàng giúp đưa
ra một chỉ số phản ánh đầy
đủ hơn về các điều kiện thị
trường do bao hàm trong đó
các triệu chứng khác nhau
của căng thẳng ngân hàng
(Hanschel và Monnin, 2005).
Việc đưa các dữ liệu bảng cân
đối vào nghiên cứu giúp phản
ánh những thay đổi đột ngột
trong hoạt động của ngành
Ngân hàng- có thể liên quan
đến các sự kiện căng thẳng,
như tình trạng rút tiền ồ ạt
hoặc tăng trưởng tín dụng
nóng hoặc cả hai, là dấu hiệu
của khủng hoảng ngân hàng.
- Gap tiền gửi- được xác định
là thành phần có tính chu kỳ
của tổng tiền gửi, được xác
định bằng phép lọc HP với
λ=14400 (Hodrick và Prescott,
1997). Gap chính là tích lũy
của sự mất cân bằng: Độ lệch
xu hướng lớn có thể xảy ra
trong một giai đoạn do sự phát
triển quá cao hay quá thấp so
với phát triển của xu hướng,
hoặc là kết quả của nhiều năm
trên hay dưới sự phát triển
của xu hướng (Hanschel và
Monnin, 2005). Do đó, Gap
có thể là một phép đo phù hợp
phản ánh sự mất cân bằng hơn
là tỉ lệ tăng trưởng giản đơn.
Gap tiền gửi âm cho thấy tiền
gửi nằm dưới đường xu hướng
là dấu hiệu của căng thẳng do
ngân hàng sẽ gặp khó khăn về
thanh khoản và do đó, có thể
ngân hàng phải bán các tài sản
với mức giá thấp, ảnh hưởng
đến bảng cân đối của ngân
hàng (Reinhart và Rogoff,
2009). Những vấn đề bên nợ
của ngân hàng thường gắn với
các cuộc khủng hoảng ngân
hàng (Calomiris và Gorton,
1991).
- Gap cho vay: Gap cho vay
cũng được xác định giống như
Gap tiền gửi. Gap cho vay âm
có thể được hiểu là dấu hiệu
của việc không sẵn sàng cho
vay của ngân hàng (có thể do
vấn đề từ bên nợ của ngân
hàng) hoặc do sự suy giảm
nhu cầu tín dụng.
- Khả năng sinh lời của ngân
hàng (Lãi biên): Lãi biên cao
cho thấy ngân hàng có thể thu
lãi từ hoạt động cho vay.
(iv) Thị trường vốn
Những căng thẳng của thị
trường vốn chính là một
trong những nguyên nhân cơ
THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
73Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 191- Tháng 4. 2018
bản của căng thẳng tài chính
(Kindleberger và Aliber,
2005; Miskin, 1992; Reinhart
và Rogoff, 2009). Do đó, việc
đưa các dữ liệu thị trường vốn
là cần thiết để xác định những
căng thẳng gắn với TTCK.
- Giá thị trường cổ phiếu:
Sự suy giảm đột ngột và kéo
dài trong giá cổ phiếu là
một dấu hiệu của căng thẳng
thị trường. Tác giả sử dụng
CMAX của chỉ số chung của
TTCK Athens (ASE) để xác
định những giai đoạn giảm
mạnh trên TTCK Hi Lạp
(Illing và Liu, 2006; Patel và
Sarkar, 1998).
- Biến động của TTCK: Các
tác giả xác định biến động của
TTCK hàng thàng của chỉ số
chung ASE. Mức biến động
của TTCK tăng phản ánh tăng
tính không chắc chắn về các
điều kiện cơ sở và hành vi
của các nhà đầu tư (Hakkio và
Keeton, 2009).
- Lợi nhuận trên cổ phiếu
(EPS): EPS được xác định là
biến số phản ánh khả năng
sinh lời của toàn thị trường.
Trong giai đoạn khủng hoảng
tài chính, lợi nhuận thường
bị suy giảm, do đó EPS giảm
chính là một dấu hiệu của
căng thẳng (Grimaldi, 2010).
(v) Thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ chính là
nguồn gốc cơ bản của thanh
khoản khu vực tài chính, do
đó việc kết hợp các biến số
của thị trường tiền tệ cho phép
xây dựng chỉ số phản ánh
được căng thẳng tài chính.
Theo Holthausen và Pill
(2010), trước khi cuộc khủng
hoảng tài chính gần đây diễn
ra, thị trường tiền tệ thường
được bỏ qua trong các nghiên
cứu học thuật vì dường như
thị trường này vẫn vận hành
rất trôi chảy. Tuy nhiên, sự
căng thẳng của thị trường tiền
tệ đã được lưu ý trong cuộc
khủng hoảng tài chính gần
đây, như Taylor và Williams
(2009) đã nhận định có “một
chú thiên nga đen” trên thị
trường tiền tệ3. Để đo lường
sự căng thẳng của thị trường
tiền tệ, các tác giả sử dụng các
biến sau:
- Chênh lệch Euribor 3
tháng/ T-bill Đức 3 tháng:
Euribor được xem là ngưỡng
cho mức lãi suất cho vay ngắn
hạn thị trường liên ngân hàng.
Chênh lệch giữa Euribor 3
tháng và T-bill 3 tháng phản
ánh rủi ro đối tác và rủi ro
thanh khoản. Hơn nữa, trong
giai đoạn căng thẳng tài chính,
tình trạng thông tin không
cân xứng gia tăng dẫn đến
tình trạng lựa chọn đối nghịch
cũng tăng lên. Do đó chênh
lệch giữa Euribor và T-bill
phản ánh 3 loại rủi ro: Hướng
tới chất lượng, hướng tới
thanh khoản và thông tin bất
cân xứng (Hakkio và Keeton,
2009). Do giai đoạn trước khi
gia nhập Cộng đồng chung
Châu Âu năm 2001 và sau
cuộc khủng hoảng nợ Hi Lạp,
chênh lệch Euribor không
được xem là biến đại diện cho
chi phí vay nợ của các ngân
hàng Hi Lạp. Do đó, trong hai
giai đoạn này, các tác giả đã
3 Tham khảo ECB Financial
Integration Report 2011 để xem
một chuỗi các giai đoạn khác nhau
mà thị trường tiền tệ đã trải qua,
tiếp nối sự căng thẳng thị trường
liên ngân hàng, từ tháng 8/2007.
xây dựng biến đại diện cho
chi phí vay nợ bằng cách hồi
quy chênh lệch Euribor trên
chênh lệch lợi tức TPCP cho
giai đoạn tháng 1/2001 đến
tháng 12/2009, và sử dụng mô
hình để ngoại suy giá trị đại
diện của chi phí vay nợ.
EuriborSpread
t
= d
0
+
d
1
SovereignSpr