Tây Nguyên (bao gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và 
Lâm Đồng) có hơn 46 dân tộc anh em sinh sống (ïcó 12 dân tộc bản địa). Đây là địa 
bàn có vịchiến lược đặc biệt quan trọng vềchính trị, kinh tếvà quốc phòng, an 
ninh; có tuyến biên giới dài 591 km, trong đó có 150 km tiếp giáp với tỉnh Atôpơ
của Lào và 441 km tiếp giáp với hai tỉnh Mônđônkiri, Ratanakiri của Cămpuchia. 
Quán triệt Nghịquyết 22 của BộChính trị, Quyết định 72 của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ), Chỉthị525 của Thủtướng Chính phủ, đặc biệt là Nghị
quyết 10 của BộChính trịngày 18 tháng 01 năm 2002, sau 20 năm đổi mới, kinh tế
- xã hội Tây Nguyên đã có những bước phát triển khá toàn diện và đang chuyển 
mạnh sang sản xuất hàng hóa. Hệthống chính trịcơsở được kiện toàn, khối đại 
đoàn kết các dân tộc được giữvững. Các cấp ủy đảng ởTây Nguyên đã tập trung 
xây dựng cơsởchính trịngày càng vững mạnh, phát huy được vai trò lãnh đạo, tổ
chức thực hiện có hiệu quảcác chương trình kinh tế, xã hội và duy trì tốt các phong 
trào chính trịxã hội của địa phương. Thếtrận quốc phòng toàn dân vàan ninh nhân 
dân từng bước được củng cốvà tăng cường, trật tựan toàn xã hội được đảm bảo. 
Quán triệt những chủtrương, chính sách vềcủng cốvà tăng cường khối đại 
đoàn kết dân tộc của Đảng, nhận thức đúng đắn vịtrí và đặc điểm của vùng đồng 
bào dân tộc thiểu số, đảng bộcác tỉnh Tây Nguyên đã ban hành nhiều nghịquyết 
chuyên đềvềcủng cốvà tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ởTây 
Nguyên, công tác vận động đồng bào các dân tộc, củng cốcơsởchính trị, đầu tư
phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và thếtrận quốc 
phòng toàn dân. Vì vậy, khối đại đoàn kết dân tộc ởcác tỉnh Tây Nguyên đã được 
củng cốvà tăng cường. Công tác dân vận được triển khai đồng bộ, toàn diện với 
nhiều hình thức phong phú, đa dạng; nội dung cụthể, thiết thực, sát hợp, hướng 
hoạt động vềcơsở, địa bàn khu dân cư.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 358 trang
358 trang | 
Chia sẻ: truongthanhsp | Lượt xem: 1912 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ – HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH 
- - - Y 	 Z - - - 
BÁO CÁO TỔNG HỢP 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CẤP BỘ NĂM 2007 
XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC 
Ở TÂY NGUYÊN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 
(Mã số: B. 07 - 29) 
Cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị khu vực III 
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Trương Minh Dục 
6806 
17/4/2008 
Đà Nẵng, tháng 12 năm 2007 
 2
CÁC CHỮ VIẾT TẮT 
BCH: Ban Chấp hành 
BCĐ : Ban chỉ đạo 
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
CNXH: Chủ nghĩa xã hội 
CT : Chỉ thị 
CTQG: Chính trị quốc gia 
DTTS: Dân tộc thiểu số 
ĐCĐC: Định canh, định cư 
HTCT: Hệ thống chính trị 
NHNN: Ngân hàng nông nghiệp 
Nxb: Nhà xuất bản 
QĐ : Quyết định 
TTg : Thủ tướng 
TU : Tỉnh ủy 
TW: Trung ương 
 3
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Tây Nguyên (bao gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và 
Lâm Đồng) có hơn 46 dân tộc anh em sinh sống (ïcó 12 dân tộc bản địa). Đây là địa 
bàn có vị chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế và quốc phòng, an 
ninh; có tuyến biên giới dài 591 km, trong đó có 150 km tiếp giáp với tỉnh Atôpơ 
của Lào và 441 km tiếp giáp với hai tỉnh Mônđônkiri, Ratanakiri của Cămpuchia. 
Quán triệt Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, Quyết định 72 của Hội đồng Bộ 
trưởng (nay là Chính phủ), Chỉ thị 525 của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt là Nghị 
quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 18 tháng 01 năm 2002, sau 20 năm đổi mới, kinh tế 
- xã hội Tây Nguyên đã có những bước phát triển khá toàn diện và đang chuyển 
mạnh sang sản xuất hàng hóa. Hệ thống chính trị cơ sở được kiện toàn, khối đại 
đoàn kết các dân tộc được giữ vững. Các cấp ủy đảng ở Tây Nguyên đã tập trung 
xây dựng cơ sở chính trị ngày càng vững mạnh, phát huy được vai trò lãnh đạo, tổ 
chức thực hiện có hiệu quả các chương trình kinh tế, xã hội và duy trì tốt các phong 
trào chính trị xã hội của địa phương. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân 
dân từng bước được củng cố và tăng cường, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. 
Quán triệt những chủ trương, chính sách về củng cố và tăng cường khối đại 
đoàn kết dân tộc của Đảng, nhận thức đúng đắn vị trí và đặc điểm của vùng đồng 
bào dân tộc thiểu số, đảng bộ các tỉnh Tây Nguyên đã ban hành nhiều nghị quyết 
chuyên đề về củng cố và tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây 
Nguyên, công tác vận động đồng bào các dân tộc, củng cố cơ sở chính trị, đầu tư 
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và thế trận quốc 
phòng toàn dân. Vì vậy, khối đại đoàn kết dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên đã được 
củng cố và tăng cường. Công tác dân vận được triển khai đồng bộ, toàn diện với 
nhiều hình thức phong phú, đa dạng; nội dung cụ thể, thiết thực, sát hợp, hướng 
hoạt động về cơ sở, địa bàn khu dân cư. Trong quá trình tổ chức vận động các tầng 
lớp nhân dân đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công tác dân vận đã coi trọng vận 
 4
động quần chúng đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, kịp thời giải quyết các 
“điểm nóng“ từ khi mới phát sinh, góp phần giữ vững an ninh chính trị và ổn định ở 
Tây Nguyên. Nhiều mô hình dân vận tốt đã xuất hiện và được nhân rộng như mô 
hình thành lập các đội công tác, mô hình kết nghĩa, đỡ đầu của các đơn vị, cơ quan 
ban, ngành với các xã vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa... đạt nhiều hiệu quả 
trong việc xóa đói, giảm nghèo; xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, chăm sóc 
sức khỏe nhân dân; xây dựng đời sống văn hóa mới ở các bản làng, khu dân cư. 
Tuy nhiên, trong thời gian qua, khối đại đoàn kết dân tộc ở các tỉnh Tây 
Nguyên tuy được củng cố và tăng cường nhưng chưa thật vững chắc. Một số cấp ủy 
đảng địa phương chưa có nhận thức đúng đắn về vị trí của công tác xây dựng và củng 
cố khối đoàn kết dân tộc, chưa quán triệt chủ trương về đổi mới công tác dân vận của 
Đảng trong tình hình mới. Nội dung, hình thức hoạt động của công tác dân vận chưa 
thiết thực, cụ thể, thiếu chiều sâu. Cơ chế phối hợp giữa các ban ngành, chính quyền, 
mặt trận và các đoàn thể chưa chặt chẽ, đồng bộ, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả 
của phong trào. Đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, nhất là ở cơ sở còn hạn chế về 
năng lực, trình độ, chưa được đào tạo cơ bản. 
 Lợi dụng những khó khăn về đời sống, đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán 
của đồng bào dân tộc thiểu số và những thiếu sót, sơ hở trong quá trình thực hiện 
chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng, và Nhà nước, các thế lực thù địch 
và phản động đã tăng cường hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ 
trương của Đảng. Thông qua việc truyền đạo Tin lành trái phép, các lực lượng phản 
động đã kích động xu hướng ly khai, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, âm mưu 
thành lập nhà nước “Đề ga độc lập“ (điển hình là các vụ bạo loạn mang tính chất 
chính trị vào tháng 2 - 2001 và tháng 4 - 2004) 
Tình hình trên đây cho thấy, việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân 
tộc ở các tỉnh Tây Nguyên đang đặt ra những vấn đề hết sức cấp bách. Công tác vận 
động, tập hợp quần chúng thực sự trở thành một cuộc đấu tranh gay go, phức tạp, 
quyết liệt chống lại âm mưu, ý đồ của các thế lực phản động để giữ vững trận địa 
lòng dân, củng cố niềm tin của đồng bào vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực xây 
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 
 5
Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá quá trình lãnh đạo thực hiện xây dựng khối 
đại đoàn kết dân dân tộc ở Tây Nguyên trong những năm đổi mới, từ đó rút ra 
những kinh nghiệm để góp phần hoàn thiện các chủ trương, biện pháp, thực hiện có 
hiệu quả công tác dân vận, nhằm củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc ở 
Tây Nguyên là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 
Xuất phát từ lý do đó, chúng tôi chọn vấn đề “Xây dựng khối đại đoàn kết 
dân tộc ở Tây Nguyên trong những năm đổi mới (1986 - 2006)” làm đề tài nghiên 
cứu. 
2. Tình hình nghiên cứu 
 Do vị trí và tầm quan trọng của vùng địa lý - dân tộc học, từ lâu Tây Nguyên 
đã thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia và nhiều nhà nghiên cứu khoa học trong 
và ngoài nước. 
- Cách đây hơn một ngàn năm, các bia ký Chăm và sử biên niên Campuchia 
đã nhắc đến người ở Tây Nguyên. Trong các văn bản, thư tịch của nước ta, từ thời 
Lê Thánh Tông, vùng Tây Nguyên được gọi là "nước Nam Bàn", và trong cuốn sử 
biên niên của nước ta thế kỷ XVI - XVIII đã thấy nhắc đến nơi này. Trong tác phẩm 
Phủ biên tạp lục, nhà Bách khoa thư nổi tiếng Lê Quý Đôn cũng nhắc đến vùng này. 
Đến thời Nguyễn, mối quan hệ giữa triều đình và vùng cao nguyên càng chặt chẽ 
hơn. Nhiều tài liệu về Thuỷ Xá và Hoả Xá đã được ghi lại. Tài liệu về Tây Nguyên 
rải rác còn được tìm thấy trong các sách: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam 
hội điển sự lệ, Đại Nam chính biên liệt truyện, v.v... 
- Người Pháp chú ý đến Tây Nguyên từ đầu thế kỷ XVIII. Để thực hiện âm 
mưu xâm lươûc nước ta, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cùng với việc truyền bá 
đạo Kitô làm đội quân tiền phong, người Pháp chú ý đến việc nghiên cứu Tây 
Nguyên. Công trình đầu tiên có ý nghĩa hơn cả là Les jung les mọi của Henri 
Maitre, năm 1912. Các tác phẩm vào thời kỳ này chủ yếu nhằm phục vụ cho công 
cuộc "bình định" của thực dân Pháp ở Đông Dương. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 
hai, xuất hiện một số công trình có chất lượng khoa học hơn và quan điểm của tác 
giả có chiều hướng tiến bộ hơn. Đó là các công trình của G.Condominas về người 
M'nông Ga; của J. Dournes về người Gia Rai, của Bulbe về người Mạ;... 
 6
- Trong thời kỳ 1954 - 1975, để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới trên vùng 
đất có vị trí chiến lược quan trọng này, Mỹ tăng cường nghiên cứu dân tộc học. Một 
số công trình về các dân tộc ở Tây Nguyên đã được xuất bản. Đáng chú ý là công 
trình Những nhóm tộc người chính ở Nam Việt Nam của G.Hickey, 1967; Những 
nhóm thiểu số ở Cộng hoà Nam Việt Nam do tướng Westmoreland chủ biên và cuốn 
Cao nguyên miền Thượng của Long Giang và Toan Ánh (1974)1. 
 Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, việc nghiên cứu về Tây Nguyên 
nói chung; nghiên cứu về vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc nói riêng nhằm đưa ra 
những luận cứ khoa học để khai thác tiềm năng, thế mạnh về điều kiện tự nhiên, 
những đặc điểm về văn hóa - xã hội của quá trình xây dựng cuộc sống mới ấm no, 
hạnh phúc cho đồng bào các dân tộc thiểu số, thực hiện mục tiêu bình đẳng, đoàn 
kết dân tộc được Đảng, Nhà nước ta và các nhà khoa học quan tâm. 
Trong văn kiện các đại hội, các nghị quyết của Đảng đều đề cập đến đặc điểm 
dân tộc, dân cư và có chính sách, chủ trương phù hợp. Cố Tổng bí thư Lê Duẩn trong 
bài báo: "Tây Nguyên đoàn kết tiến lên" (Tạp chí Cộng Sản -1978) và Cố Chủ tịch Hội 
đồng Nhà nước Trường Chinh trong bài "Đưa đồng bào các dân tộc Đắk Lắk lên chủ 
nghĩa xã hội" (Tạp chí Cộng Sản, 1983) đã phân tích những đặc thù về dân tộc, dân cư 
và chỉ đạo các đảng bộ Tây Nguyên phải nghiên cứu, vận dụng để đề ra chủ trương, 
giải pháp cho phù hợp. 
- Một số công trình chuyên khảo về dân tộc học như: Tây Nguyên của Hoàng 
Văn Huyền (1980); Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam) (1984); Đại 
cương về các dân tộc Êđê, M'nông ở Đắk Lắk của Bế Viết Đẳng và các đồng tác giả 
(1982); Các dân tộc ở Gia Lai- Kon Tum do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (1981); Vấn 
đề dân tộc ở Lâm Đồng do Mạc Đường chủ biên (1983); Cộng đồng quốc gia dân tộc 
Việt Nam của GS. Đặng Nghiêm Vạn (2003) đã giúp người đọc hiểu rõ nguồn gốc tộc 
người, đặc điểm kinh tế- xã hội của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. 
- Trên lĩnh vực kinh tế- xã hội. Đáng chú ý là Chương trình cấp nhà nước 48 
- 09 do Uỷ ban Khoa học xã hội nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện 
trong những năm 1980. Kết quả của chương trình được xuất bản thành 3 cuốn sách: 
Một số vấn đề kinh tế- xã hội Tây Nguyên (1986); Tây Nguyên trên đường phát triển 
1 Xem Phan Hữu Dật (chủ biên): Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân 
tộc hiện nay. Nxb CTQG, H. 2001. 
 7
(1990); Một số vấn đề kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk (1990). Các công 
trình này đã tập trung nghiên cứu đặc điểm kinh tế- xã hội của các dân tộc thiểu số ở Tây 
Nguyên, đưa ra căn cứ khoa học để xác định các hình thức, bước đi trong quá trình đưa 
đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do hạn chế 
trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội lúc đó, các tác giả chưa thấy được xu hướng phát 
triển của vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Tây Nguyên. 
 Ngoài ra, còn có các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ như: Các hình 
thức kinh tế ở Tây Nguyên và xu hướng vận động trong quá trình chuyển sang kinh 
tế hàng hoá do TS Trương Minh Dục làm chủ nhiệm (1994- 1995); Phát triển kinh 
tế trang trại ở Tây Nguyên do TS Phạm Thanh Khiết chủ nhiệm (1999- 2000) đã 
nghiên cứu các hình thức kinh tế cổ truyền trong lịch sử, các hình thức kinh tế mới 
xuất hiện và sự vận động của chúng trong quá trình chuyển sang kinh tế hàng hoá; 
các đề tài cấp bộ, cấp nhà nước: Một số chính sách kinh tế -xã hội đối với các dân 
tộc ít người ở Tây Nguyên, do PGS, TS Nguyễn Văn Chỉnh làm chủ nhiệm đề tài 
(1997 - 1998). Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế-xã hội ở miền núi, do 
GS. Bế Viết Đẳng chủ biên (1996), đã đánh giá các chính sách của Đảng và Nhà 
nước ta được thực thi trong thực tiễn với những thành công và hạn chế, từ đó đề 
xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách dân tộc của Đảng. 
- Vấn đề đất đai và sở hữu đất đai đã được một số công trình đề cập như các 
đề tài cấp bộ: Quản lý, sử dụng đất nông nghiệp ở Tây Nguyên do TS Nguyễn Thế 
Tràm làm chủ nhiệm đề tài (2001); Một số giải pháp quản lý nhằm bảo vệ và phát 
triển rừng ở Tây Nguyên do ThS. Phạm Phong Duể làm chủ nhiệm đề tài (2003). 
Đặc biệt, công trình nghiên cứu khá công phu của tập thể các nhà khoa học Vũ Đình 
Lợi, Bùi Minh Đạo và Vũ Thị Hồng (Viện Dân tộc học) thực hiện: Sở hữu và sử 
dụng đất đai ở các tỉnh Tây Nguyên (2000), trên cơ sở nghiên cứu sở hữu đất đai 
trong lịch sử, phân tích thực trạng sử dụng đất đai ở Tây Nguyên thời gian qua; từ 
đó đề xuất các giải pháp giải quyết vấn đề đất đai ở Tây Nguyên. Vấn đề đất đai 
chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến những "điểm nóng" ở Tây Nguyên 
thời gian qua. 
- Trên lĩnh vực chính trị đã có một số công trình như:"Một số vấn đề về xây 
dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên" do PGS. TS Phạm Hảo - TS Trương Minh 
Dục đồng chủ biên (2003); Đề tài nhánh cấp nhà nước KX 05 - 11 về cơ cấu, tiêu 
 8
chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới hiện nay ở Đắk Lắk 
(1993 - 1994); "Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện người 
các dân tộc ở Tây Nguyên" do GS. TS. Lê Hữu Nghĩa chủ biên (2001). Các công 
trình này đã trình bày những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng HTCT và 
việc hình thành đội ngũ cán bộ các dân tộc thiểu số; đánh giá thực trạng hệ thống 
chính trị, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số trong HTCT ở Tây 
Nguyên; đề xuất các giải pháp để xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán 
bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Gần đây, nhà xuất bản Chính 
trị quốc gia đã xuất bản công trình “Một số giải pháp góp phần ổn định và phát triển 
ở Tây Nguyên hiện nay” của tập thể cán bộ kha học Học viện Chính trị khu vực III và 
các nhà hoạt động thực tiễn do PGS.TS. Phạm Hảo chủ biên (2007) đã nghiên cứu 
những nhân tố ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị và những vấn đề đặt ra trong quá 
trình phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên, cung cấp những luận cứ khoa học cho 
các giải pháp góp phần giữ vững ổn định chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên trong giai 
đoạn hiện nay. 
- Trên lĩnh vực văn hoá, ngoài các công trình nghiên cứu về sử thi, luật tục, 
văn hoá dân gian, có một số công trình mang tính lý luận như: Giữ gìn và phát huy 
các giá trị văn hoá Tây Nguyên do PTS. Nguyễn Hồng Sơn và PTS. Trương Minh 
Dục đồng chủ biên (1996); Văn hoá các dân tộc Tây Nguyên - thực trạng và những 
vấn đề đặt ra do GS. TS. Trần Văn Bính chủ biên (2004). Các công trình này đã đánh 
giá các giá trị văn hóa của Tây Nguyên, thực trạng đời sống văn hóa của các dân tộc 
thiểu số, đồng thời dự báo xu hướng và đề xuất các giải pháp vừa cơ bản, vừa cấp 
bách nhằm xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần của các dân tộc, giữ gìn và phát huy 
các giá trị văn hóa Tây Nguyên trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa đất nước. Tuy nhiên, các công trình này chưa thấy được sự xuất hiện tư tưởng 
dân tộc trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng tự bảo vệ văn hoá dân tộc đã xuất hiện trong 
thời gian qua. 
- Trên lĩnh vực quan hệ dân tộc, có công trình nghiên cứu: Xu hướng vận 
động của quan hệ dân tộc khu vực Tây Nguyên và đặc điểm chính sách dân tộc đối 
với Tây Nguyên là đề tài cấp bộ do PTS. Nguyễn Văn Nam là chủ nhiệm đề tài 
(1994- 1995). Các tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về xu hướng vận 
động của quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên, từ đó xác định phương hướng và các giải 
 9
pháp để xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc phù hợp với đặc điểm Tây 
Nguyên. Tuy nhiên, các tác giả mới đề cập đến xu hướng xích lại gần nhau của các 
dân tộc, chưa thấy được những mầm mống của những nguyên nhân làm rạn nứt 
khối đại đoàn kết dân tộc đã bắt đầu xuất hiện khi phát triển kinh tế thị trường, công 
nghiêp hoá, hiện đại hoá đất nước. 
Đáng chú ý trong lĩnh vực này có các nghiên cứu khá công phu của GS.TS. 
Phan Hữu Dật và tập thể tác giả trong công trình: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn 
cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay (2001) bước đầu đã đánh giá 
những thành công và hạn chế trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng; 
phân tích các xu hướng xuất hiện trong quan hệ dân tộüc ở Tây Nguyên thời gian 
qua. 
- Trên lĩnh vực tôn giáo, có một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ như: 
Quá trình thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, đưa đồng bào theo các đạo giáo 
ở Tây Nguyên đi lên CNXH 1975- 1995, do PTS Trần Quốc Long làm chủ nhiệm 
(1997); Đạo Tin Lành ở Tây Nguyên - quá trình xâm nhập, đặc điểm và việc thực 
hiên chính sách...do TS Nguyễn Văn Nam làm chủ nhiệm (2003). Các đề tài này 
bước đầu nghiên cứu các hình thức tôn giáo sơ khai; quá trình thâm nhập, phát triển 
của đạo Ki tô, Tin lành vào vùng các dân tộc thiểu số và chính sách tôn giáo của 
Đảng, Nhà nước ở Tây Nguyên. 
Từ năm 2002 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã tiến hành chương 
trình nghiên cứu cấp bộ về Tổng kết thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo ở 
Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Các tác giả đề tài nhánh Tây Nguyên đã tiến hành 
khảo sát thực tế ở 3 tỉnh Kon Tum, Gia Lai và Đắk Lắk, tổ chức hội thảo khoa học và đã 
hoàn thành các báo cáo chuyên đề, đặc biệt là báo cáo tóm tắt: Về thực hiện chính sách 
dân tộc, chính sách tôn giáo ở Tây Nguyên- thực trạng, giải pháp và kiến nghị. Tiếc rằng 
sản phẩm nghiên cứu chưa được xã hội hoá. 
- Trên lĩnh vực đoàn kết dân tộc, từ trước đến nay đã có một số công trình 
nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau về quá trình thực hiện chính sách đoàn kết 
dân tộc của Đảng như: Đảng, Nhà nước, nhân dân ta nhất định xây dựng Tây 
 10
Nguyên thành địa bàn trù phú, tươi đẹp của Chủ tịch nước Trần Đức Lương1; Thực 
hiện chính sách đoàn kết, bình đẳng, giúp nhau cùng phát triển trong đồng bào dân 
tộc thiểu số ở Tây Nguyên của Lê Truyền2; Chuyên luận: Quán triệt tư tưởng Hồ 
Chí Minh về đoàn kết dân tộc, xây dựng khối đoàn kết dân tộc hiện nay ở Tây 
Nguyên (2004) của PGS. TS Trương Minh Dục3; các bài viết: "Công tác dân vận ở 
Tây Nguyên’’ của PTS. Thanh Tuyền, Báo Nhân Dân ngày 14. 2. 1998; ‘’Đắk Lắk 
với công tác vận động quần chúng’’ của Y Luyện Niê Kđăm. Tạp chí Dân vận số 6 . 
2001;‘’ Một số vấn đề về công tác dân tộc ở Tây Nguyên “ của ThS. Hà Xuân 
Nguyên. Tạp chí Tư tưởng Văn hóa số 6.2003; Luận văn thạc sĩ lịch sử:"Đảng bộ tỉnh 
Đắk Lắk lãnh đạo công tác dân vận (1986 - 2002) của tác giả Nguyễn Mậu Linh 
(2003). 
Ngoài ra, còn một số bài báo khoa học đăng tải trên các tạp chí khoa học 
như: Nghiên cứu Lý luận, Thông tin Lý luận, Sinh hoạt Lý luận, Dân vận, Tư tưởng 
Văn hóa... 
Những công trình khoa học trên đã đề cập nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn 
trong quá trình thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng ở các tỉnh Tây 
Nguyên. 
Nhưng cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về quá 
trình lãnh đạo và thực hiện việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên 
trong những năm đổi mới. (từ 1986 đến nay) 
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 
a, Mục tiêu: Tổng kết toàn diện quá trình thực hiện xây dựng và củng cố 
khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng ở các tỉnh Tây Nguyên trong những năm đổi 
mới, rút ra những kinh nghiệm thực tiễn. Trên cơ sở đó, xác định phương hướng và 
đề xuất các giải pháp để giải quyết vấn đề dân tộc, củng cố và tăng cường khối đại 
đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong thời gian đến. 
b, Nhiệm vụ 
1 Trần Đức Lương: Đảng, Nhà nước, nhân dân ta nhất định xây dựng Tây Nguyên thành địa bàn trù phú, tươi 
đẹp. Báo Nhân dân, ngày 27-3-2006. 
2 Lê Truyền: Thực hiện chính sách đoàn kết, bình đẳng, giúp nhau cùng phát triển trong đồng bào dân tộc 
thiểu số ở Tây Nguyên, Báo Nhân dân ngày 27-3-2006. 
3 In trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc 
trong thời kỳ mới. Nxb CTQG, H, 2004 
 11
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau: 
- Trình bày quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc, chủ 
trương đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta làm cơ sở lý luận cho chủ đề nghiên cứu. 
- Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến việc củng cố và tăng cường khối 
đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong những năm đổi mới. 
- Trình bày quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở các tỉnh Tây 
Nguyên trong những năm đổi mới; rút ra một số kinh nghiệm bước đầu về lãnh đạo 
công tác dân vận vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu để xây dựng